KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionĐịa Chi Hóa Hợp  EmptyĐịa Chi Hóa Hợp

more_horiz
Địa chi hợp và hóa cũng tương tự như thiên can, các điều kiện đều có nguyên tắc chung và biệt lệ, đại đồng tiểu dị. Tổng trạng là Hóa thần phải cường vượng hữu lực, tức là phải có Khí. Ở thiên can là cần địa chi trợ lực, tại địa chi thì cần thấu can hữu căn. Nếu hành muốn hóa là dụng thần mà không hóa được thì thường bị gọi là "hư phù" (đồng nghĩa với Không Vong), giảm lực của cả hai địa chi, thậm chí vô lực. Ngược lại, nếu hành hóa là kị thần mà bị cản trở thì phản hung thành cát.

1. Lục Hợp
- Tí Sửu
- Dần Hợi
- Tuất Mão
- Thìn Dậu
- Tị Thân
- Ngọ Mùi

Môn Tử Bình chú trọng đến Khí Lực nên việc xét đoán thấu can, hữu căn là tối trọng yếu. 5 cặp thiên can và 6 cặp địa chi muốn hợp và hóa được đều phải theo nguyên tắc này, mà trọng tâm chính là Lệnh Tháng.

Nguyên tắc chung: Tương cận (2 trụ gần nhau), thấu hành hóa khí là hóa:

năm
tháng Giáp Tí
ngày Kỉ Sửu
giờ

Chú ý 1: Có quan sát của hành hóa khí thì không hóa. Như Tí Sửu có Mậu thấu can, nhưng Ất là Mộc khắc Thổ cản trở.

năm
tháng Mậu Tí
ngày Ất Sửu
giờ

Chú ý 2: Địa chi bị hợp hay bị xung thì không hóa. Như Tí bị Ngọ xung, Sửu bị Mùi hợp:
năm ... Ngọ
tháng Mậu Tí
ngày Ất Sửu
giờ ... Mùi

2. Tam hợp cục/Tam hội phương

Chỉ cần không có quan sát của hành hóa khí là Hóa Thành, như hóa Thủy thì không có Thổ (30.12.1992)

năm Nhâm Thân
tháng Nhâm
ngày Canh Thìn
giờ Đinh Hợi

Chú ý 1: Tam hợp phải có trung thần (như Tí là trung thần của tam hợp thủy, Mão là trung thần của tam hợp Mộc); nếu không có trong mệnh cục mà tứ trụ có điều kiện gần hóa thành thì hóa được ở đại vận có trung thần. Như Thân-Thìn gần nhau, thiếu Tí, tứ trụ không có Thổ, đến vận Tí (ngoại trừ Mậu Tí) thì hóa Thủy.

Chú ý 2: Mặc dù địa chi tam hợp lại sinh tháng có Hóa thần, như Tị Dậu Sửu sinh tháng Dậu, nhưng thiên can có Hỏa, trụ giờ Hỏa có căn thì không thể hóa, hoặc gọi là "Giả hóa". (17.9.1977)


năm Đinh Tị
tháng Kỉ Dậu
ngày Đinh Sửu
giờ Ất Tị

Nếu Hỏa thấu nhưng vô căn thì hóa Kim thuận lợi. Như tứ trụ dưới đây, Bính trong Tị không còn là căn của Đinh trụ giờ, vì Tị Dậu Sửu là tam hợp Kim hoàn toàn. (14.5.1815)

năm Ất Sửu
tháng Tân Tị
ngày Tân Dậu
giờ Đinh Dậu

Tựu chung, khi luận Hóa được hay không, cần chú ý hành khắc chế hành đang muốn hóa. Lệnh tháng ưu tiên xét trước, sau đến trụ giờ. Như hóa Mộc thì tháng Thân Dậu là khả năng bất hóa cao nhất.

Nói là "hóa" không phải theo nghĩa biến hẳn sang trạng thái mới, mà chỉ là ngũ hành hóa khí thành công là cực vượng, chiếm chủ động trong nguyên cục và thân nhược. Hợp Hóa này khác hẳn Ngoại Cách (Nhuận Hạ, Giá Sắc, Khúc Trực, Viêm Thượng, Tòng Cách) mà thân là vượng.

* (Đừng nhầm Tòng Cách Kim là ngoại cách với loại Tòng theo cách cục)

descriptionĐịa Chi Hóa Hợp  EmptyRe: Địa Chi Hóa Hợp

more_horiz
-Nhật hoa, 2013-

1. Nếu tam hợp hay hội cục thành công: thì có phải các Can tàng trong Chi bị mất hết, nên sẽ phải xét lại lực của các Thiên Can phải không. Như thế: người này chỉ còn 1 vài tính chất thôi sao.

NẾU XUNG THÌ CAN TÀNG TAN KHÍ CÒN LẠI BẢN KHÍ, GỌI LÀ KHỬ BÌ, NHƯNG HỢP THÌ CAN TÀNG KO TAN MẤT MÀ HƯỚNG VỀ HÓA THẦN, TỨC TÔI VẪN TỒN TẠI, CÒ ĐIỀU TÔI ỦY QUYỀN CHO HÓA THẦN LÀM VIỆC, GIAO TIẾP, QUAN HỆ,...

2. Tam hợp hay hội cục thành công thì đều không tốt phải không, vì nó làm cho Thân được sinh vượng quá hay khắc thân mạnh quá.

CÁI NÀY CÒN TÙY, TÙY 8 CHỮ TRONG TRỤ NỮA, TÙY CẢ ĐẠI VẬN, LƯU NIÊN THÌ MỚI PHÁN ĐƯỢC TỐT HAY XẤU. NHƯNG NÓI CHUNG LÀ LẬN ĐẬN, CỰC THÂN, CÒN THÀNH CÔNG, PHÁT ĐẠT THÌ PHẢI CỰC KHỔ RỒI, KHÓ MÀ AN NHÀN,... NGƯỜI CÓ TAM HỢP CỤC PHẢI LĂN LỘN NHIỀU ĐỂ TÌM KIẾM THÀNH CÔNG.

3. Trong đại vận, lưu niên nó sẽ ảnh hưởng như thế nào, phần này tôi vẫn không nghĩ ra. Ví dụ: Nếu nguyên cục là "Dần Ngọ Tuất tam hợp hóa thành", đến lưu niên Dần cũng chỉ làm tăng mạnh hợp hóa. Còn nếu đến lưu niên Thân, thì liệu Dần Thân tương xung có phá được tam hợp không thì thật sự tôi chưa rõ.

ẢNH HƯỞNG RA SAO PHẢI QUY VỀ DỤNG THẦN VÀ CÁCH CỤC, HỶ DỤNG NHƯNG CÓ BỊ HỢP HÓA, XUNG HÌNH HAY KO, CÓ LÀM "BIẾN CÁCH" HAY KO...

CÓ MỘT TỨ TRỤ TÔI BIẾT RÕ (17.2.1978)

t.ấn..t.tài.........Quan
MẬU GIÁP CANH ĐINH
NGỌ DẦN TUẤT SỬU

ĐV: ẤT MÃO / BÍNH THÌN / ĐINH TỴ / MẬU NGỌ / KỶ MÙI / CANH THÂN / TÂN DẬU/ NHÂM TUẤT

SÁT TÀNG QUAN THẤU, LỘ ẤN HÓA SÁT, NHƯNG SÁT QUAN QUÁ MẠNH, KHÓ HÓA ĐƯỢC SÁT, TÙY VẬN MÀ PHẢI TÒNG SÁT.

(LÚC TRƯỚC NGƯỜI NÀY CHƯA NẮM ĐƯỢC Ý LỜI GIẢI CỦA CHỊ KIM CƯƠNG, NỬA NĂM NAY NGẨM NGHĨ RẰNG 8 CHỮ NÀY TÒNG THÔI, NÊN SỬU LÀ KỴ THẦN, LẠI LÀ MỘ CỦA QUAN VÀ THÂN NỮA NÊN RẤT KỊ CHỮ SỬU. NẾU NÓI ẤN LÀ DỤNG THẦN THÌ GẶP SỬU PHẢI NGON, NGẪM LẠI THẤY CHỊ KC NÓI ĐÚNG, TRỤ NÀY PHẢI TÒNG. GIỜ ĐÃ THẤY BÍNH ĐINH LÀ DỤNG THẦN THÌ MỚI NGỘ RA LÀ TẠI SAO ĐẾN CÁC NĂM/ĐẠI VẬN BÍNH ĐINH THÌ ĐẸP VẬY, MÀ GẶP MẬU KỶ THÌ BÈO ... )

BẠN HỎI VẬN DẦN/LƯU NIÊN DẦN CÁC NĂM TRÊN ĐỀU TỐT CẢ (VÌ LÀ THẾ CỦA DỤNG THẦN) , SỬU LÀ KỴ THẦN-->XẤU, VỪA QUA SỬU LÀ ĐẾN DẦN THÌ LẬP TỨC THẤY CẢI THIỆN RÕ RỆT HÒAN CẢNH CỦA NĂM NGOÁI (TỨC NĂM KỴ THẦN VỪA QUA).

VẬY HỎA LÀ DỤNG, TỨC BÍNH ĐINH, BẠN THẮC MẮC VẬY TÝ HỢI, NHÂM QUÝ CÓ XẤU KO ? TÔI NGHIỆM RA RẰNG, CƠ BẢN LÀ XẤU NHƯNG VÌ TRỤ TRÊN CÓ GIẢI, GẶP TÝ THÌ XUNG NGỌ, NHƯNG CÓ SỬU HỢP, GẶP HỢI THÌ CÓ DẦN HỢP, GẶP NHÂM THÌ CÓ ĐINH HỢP, GẶP QUÝ THÌ CÓ MẬU HỢP,... VẬY LÀ : "TƯỞNG XẤU MÀ KO XẤU" !

NHƯNG:

CÁC VẬN/NIÊN MÀ GẶP 4 CHI/CAN TRÊN TUY CÓ GIẢI NHƯNG GIẢI Ở MỨC NÀO, CÁI NÀY PHỤ THUỘC CAN ĐẦU VÀ CĂN GỐC CỦA VẬN/NIÊN

VÍ DỤ NHƯ VẬN/NIÊN QUÝ KỴ THẦN, NHƯNG GẶP QUÝ TỊ / QUÝ SỬU KHÁC VỚI QUÝ HỢI, VÌ TUY QUÝ HỢP VỚI CAN NĂM LÀ MẬU, NHƯNG QUÝ TỊ, QUÝ SỬU DỄ HỢP HƠN VÌ QUÝ MẤT GỐC, CÒN QUÝ HỢI THÌ CÓ Ý HỢP MÀ KO HỢP ĐƯỢC VÌ QUÝ CÓ GỐC MẠNH TẠI HỢI.

Nhìn chung vào vận Bính (Thìn), Đinh (Tỵ) thì rõ ràng cuộc sống dễ thở hơn rất nhiều, hồi nhỏ (trước 16 tuổi) mình bệnh rất nhiều, giờ nhớ lại là từ năm 16 tuổi (vận bính Thìn) thì tự nhiên khỏe hẳn, ko còn bệnh tật gì cả. Năm năm đầu là vận Bính, đúng là vận dụng thần nên học cực giỏi (thời điểm thiếu niên thì chỉ có học thôi mà), đến khi vào Đại học là vào vận Thìn (xung Tuất) và thìn cũng là đất lẫn bùn , kết hợp kỵ thần sửu thổ đất nhão nên thổ hối hỏa sinh kim, kết quả học tập ko như ý, tình duyên be bét (xung chi ngày là cung thê)... Nếu đại vận Bính Dần hoặc Bính Tuất đi, thì hoàn hảo hơn là thiên khắc đại xung trụ ngày.

Sang Đinh Tỵ , Đinh hỏa chỉ là thứ dụng thần thôi (vì Bính mới là chân dụng thần vì nó tàng ở nguyệt lệnh là hữu khí), nhưng Tỵ lại là lâm quan của Bính trong dần nên lại rất ok, cuộc sống tốt lên, tiền tài tuy ko vượng nhưng dồi dào, công việc cũng ok hơn, vận này lấy vợ (2007+2008) sinh con (2009).

Lý do sâu xa mà nói Sát vượng hộ Tài là do Tỷ Kiếp vượng đoạt Tài, trụ này nhược, Tỷ kiếp nhược nên ko có gì mà phải "hộ Tài". "Sát vượng sinh Ấn" , sinh quá thì thái quá , hỏa nhiều thổ nứt nẻ, đất nóng chả bao giờ sinh kim cả, Ấn vô dụng, nếu trụ có 1 chút thủy thì Ấn dùng được, cái này là cơ bản nguyên lý ngũ hành đó (thủy nhiều mộc trôi / thổ nhiều chôn kim).

Như chị KC đã nói, trụ này kiêm cách, tòng cách không bền, nên rất dễ biến cách, lúc biến lại phải luận theo biến cách, vì vậy nên long đong, lận đận, hay gặp những cái xui mà đối với người khác chả bao giờ bị.

Vì tòng Sát nên Ấn Tỉ Kiếp là kị thần nên rất kị cha, mẹ, anh em, bạn bè. Nói vài câu là cãi nhau; bạn bè thường hời hợt với mình.

Nhưng chi năm là chữ ngọ, là người mẹ, là "cùng phe" dụng thần, tuy là kị thần (ấn tinh thổ kị thần là mẹ) , cãi nhau tối ngày, nhưng cung là hỏa nên người này đc mẹ chăm sóc, yêu thương và lo tiền bạc, ăn học, giúp nhiều cho cuộc sống.

Cha là thiên tài là chữ Giáp, cũng là can năm Mậu, Mậu là kị thần, Giáp bị Canh Mậu kế bên một hao một chẻ nên cha rất xấu, bên dưới thì hỏa cục thiêu đốt nên cha mẹ ly dị, cha đang bị ung thư thời kỳ cuối, tiên liệu rất xấu trong tầm vài tháng nữa.


Được sửa bởi Admin ngày 23/10/2024, 11:00; sửa lần 1.

descriptionĐịa Chi Hóa Hợp  EmptyRe: Địa Chi Hóa Hợp

more_horiz
-kimcuong, 2013-

Tam hợp hay tam hội mà đạt hóa cách như trên thì chủ yếu luận 1 tính chất là vượng, dĩ nhiên nó lấn át các tính chất khác. Nếu gặp thuận lợi cho tính cách đó thì nhật chủ cảm thấy dễ dàng hơn trong cuộc sống, còn nghịch thì tất phải đau đầu nhiều. Phần đông sẽ thấy muốn tránh né, không đối đầu phản ứng. Vì sao? Vì thân bản chất là nhược. Chính vì thế mới cần phân biệt với các ngoại cách cũng có tam hợp, tam hội mà thân vượng.

Thí dụ của Nhật Hoa thì khá rõ là Dần Ngọ Tuất tam hợp có Đinh thấu, tức Hỏa vượng. Các ngũ hành trong 3 địa chi đó hòa vào nhau nâng tính cách của Hỏa thành chủ yếu, không nói là "mất". Nếu không có Sửu và Mậu thấu thì cặp tam hợp này là thanh thuần. Nhưng Thổ trong tam hợp thấu ra, giống như là muốn tự mình độc lập vậy, không muốn hòa nhịp cùng Hỏa nữa, nên cách cục giảm thanh là vậy. Sửu và Tuất lại hình nhau, nên rõ ràng là tam hợp Hỏa khó bề hoàn hảo.

Phúc khí ở thí dụ này là Giáp thấu, tức là tâm điểm của Dần lộ rõ ràng. Nhưng oái ăm là Mậu kề bên, tức Tài tinh luôn luôn phải "trị" Ấn. Năm nào Thổ hoàn toàn làm chủ như Kỉ Sửu thì Tài giảm. Sang Dần thì tam hợp Hỏa và nhật chủ khá vượng nên cảm thấy dễ giải quyết các việc trong đời sống.

Vì thế, phá được tam hợp không phải chỉ là ngũ hành xung đối như Thủy và Hỏa mà còn là những kết cấu trong tứ trụ, phải tùy trường hợp mà xét.

Ngoài ra, nên nhận ra thế này: Canh kim nhược, Ấn tinh mạnh. Nếu chỉ là thân nhược hỉ Thổ Kim thì thật là rõ và quí. Thế nhưng vì tam hợp hình thành nên bỏ Ấn dùng Sát. Tính cách này khác với "ấn hóa sát" (chủ yếu là Quan Sát cách). Đã "bỏ" mà còn "lưỡng lự", có thể nói là như vậy. Đây cũng là 1 loại "kiêm cách", tức là giữa "tòng" (vì hóa) và thân nhược nhưng bất phục tòng!

descriptionĐịa Chi Hóa Hợp  EmptyRe: Địa Chi Hóa Hợp

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply