Chương 26. Xuất Thân
Lồng lộng khoa thi từng bước tiến,
Một chút huyền cơ ám lý tồn.
Nguyên chú: Phàm xem mệnh xem xuất thân con người là rất khó, như xuất thân Trạng nguyên, cách cục thanh là khác hẳn, lúc ẩn lúc lộ, khó mà quyết, tất có nguyên cơ, phải sưu tầm.
Nhâm thị viết: Chúng ta luận mệnh xuất thân là rất khó. Cho nên có huyền cơ tồn tại ở chỗ này.
Huyền cơ, chẳng những cách cục thanh là khác hẳn, phân biệt dụng thần chân giả, trong đó phải nghiên cứu thần tàng nắm mệnh, gồm dụng thần hỉ thần, khiến cho nhàn thần kỵ thần không thể tranh chiến, lại có tình sinh củng. Lại có cách cục vốn không có chỗ xuất sắc, mà thanh danh vang dội, tất trước tiên cần nghiên cứu thế hệ đức hạnh tốt hay xấu, kế đến luận phong thủy thanh tú. Đến từ thế hệ phúc đức, mà không luận mệnh vậy. Cho nên tâm đức là số một, phong thủy là số hai, mệnh cách là thứ ba.
Nhưng xem mệnh quan trọng ở chỗ nhất định Sát Ấn Tài Quan, Quan Ấn song thanh thì đẹp vậy. Nếu như Sát Ấn Tài Quan rõ ràng, cảm động lòng người, tất là mệnh tốt. Nếu dụng thần quá nhược, hỉ thần ám phục, tú cũng thâm tàng, mới nhìn cũng không có chỗ tốt, càng xem càng có sức sống, trong đó tất có huyền cơ, nên sưu tầm cẩn thận.
Nhâm Thìn - Nhâm Dần - Kỷ Mùi - Mậu Thìn
Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân
Kỷ thổ sinh vào đầu xuân, Quan tinh nắm lệnh, thiên can bao phủ lấy Tài tinh, có tình sinh Quan. Nhưng đầu xuân Kỷ thổ ẩm thấp mà còn hàn lạnh, năm tháng Nhâm thủy, thông căn thuỷ khố, hỉ có Bính hỏa tàng trong Dần nắm lệnh làm dụng thần, phục mà phùng sinh, gọi là “Huyền cơ ám lý tồn” vậy. Đến Bính vận, nguyên thần phát lộ, năm Mậu Thìn trợ giúp can giờ, khắc khử Nhâm thủy, thì Bính hỏa không bị khắc, làm Trạng nguyên thiên hạ. Nếu theo tục luận, Quan tinh không hiện, Tài khinh Kiếp sinh, nói là mệnh bình thường vậy.
Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Giáp Tuất - Bính Dần
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất
Giáp mộc sinh vào cuối xuân, khí mộc có thừa, lại được Tỉ Kiếp lộc trợ giúp, can giờ Bính hỏa độc thấu, thông sáng thuần túy. Can năm Nhâm thủy, tọa táo thổ chế thủy, lại phùng Tỉ Kiếp Giáp mộc hóa tiết, gián tiếp tương sinh, thì Bính hỏa càng đắc thế. Đến Mậu vận, nguyên thần Mậu thấu ra chế Nhâm thủy, anh hùng hội ngộ, đỗ đạt tam nguyên. Là do đường nhân quan không hiển đạt, đến vận phương tây kim địa, tiết thổ sinh thủy vậy.
Giáp Dần - Đinh Sửu - Đinh Mão - Canh Tuất
Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi
Đinh hỏa sinh vào cuối đông, trong cục trùng điệp mộc hỏa, nhược biến thành vượng, đủ để dụng Tài. Canh kim thấu lộ hư nhược, vốn không xuất sắc, hỉ có Sửu tàng Tân kim làm dụng, cũng là huyền cơ ám lý tồn vậy. Sửu chính là tú khí của nhật nguyên, có thể dẫn Tỉ kiên đến sinh, lại gặp Mão Tuất hợp, mà Sửu thổ không tổn thương, cho nên thân ở vương vị, đỗ đạt Thám hoa.
Đinh Hợi - Nhâm Tý - Canh Tý - Tân Tị
Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ
Canh kim sinh vào giữa đông, Thương quan thái vượng, tiết khí quá mức, dụng thần ở thổ, không ở hỏa vậy. Hỏa ở trong trụ, bất quá thủ làm ấm cục vậy. Tứ trụ không có thổ, lấy Mậu thổ tàng ở trong Tị, không vượng khắc hỏa, hỏa có thể sinh thổ, cũng là huyền cơ ám lý tồn. Đến Mậu vận, năm Bính Thìn, hỏa thổ tương sinh, nguyên thần trong Tị cùng phát, cũng cư vương vị.
Lồng lộng khoa thi từng bước tiến,
Một chút huyền cơ ám lý tồn.
Nguyên chú: Phàm xem mệnh xem xuất thân con người là rất khó, như xuất thân Trạng nguyên, cách cục thanh là khác hẳn, lúc ẩn lúc lộ, khó mà quyết, tất có nguyên cơ, phải sưu tầm.
Nhâm thị viết: Chúng ta luận mệnh xuất thân là rất khó. Cho nên có huyền cơ tồn tại ở chỗ này.
Huyền cơ, chẳng những cách cục thanh là khác hẳn, phân biệt dụng thần chân giả, trong đó phải nghiên cứu thần tàng nắm mệnh, gồm dụng thần hỉ thần, khiến cho nhàn thần kỵ thần không thể tranh chiến, lại có tình sinh củng. Lại có cách cục vốn không có chỗ xuất sắc, mà thanh danh vang dội, tất trước tiên cần nghiên cứu thế hệ đức hạnh tốt hay xấu, kế đến luận phong thủy thanh tú. Đến từ thế hệ phúc đức, mà không luận mệnh vậy. Cho nên tâm đức là số một, phong thủy là số hai, mệnh cách là thứ ba.
Nhưng xem mệnh quan trọng ở chỗ nhất định Sát Ấn Tài Quan, Quan Ấn song thanh thì đẹp vậy. Nếu như Sát Ấn Tài Quan rõ ràng, cảm động lòng người, tất là mệnh tốt. Nếu dụng thần quá nhược, hỉ thần ám phục, tú cũng thâm tàng, mới nhìn cũng không có chỗ tốt, càng xem càng có sức sống, trong đó tất có huyền cơ, nên sưu tầm cẩn thận.
Nhâm Thìn - Nhâm Dần - Kỷ Mùi - Mậu Thìn
Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân
Kỷ thổ sinh vào đầu xuân, Quan tinh nắm lệnh, thiên can bao phủ lấy Tài tinh, có tình sinh Quan. Nhưng đầu xuân Kỷ thổ ẩm thấp mà còn hàn lạnh, năm tháng Nhâm thủy, thông căn thuỷ khố, hỉ có Bính hỏa tàng trong Dần nắm lệnh làm dụng thần, phục mà phùng sinh, gọi là “Huyền cơ ám lý tồn” vậy. Đến Bính vận, nguyên thần phát lộ, năm Mậu Thìn trợ giúp can giờ, khắc khử Nhâm thủy, thì Bính hỏa không bị khắc, làm Trạng nguyên thiên hạ. Nếu theo tục luận, Quan tinh không hiện, Tài khinh Kiếp sinh, nói là mệnh bình thường vậy.
Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Giáp Tuất - Bính Dần
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất
Giáp mộc sinh vào cuối xuân, khí mộc có thừa, lại được Tỉ Kiếp lộc trợ giúp, can giờ Bính hỏa độc thấu, thông sáng thuần túy. Can năm Nhâm thủy, tọa táo thổ chế thủy, lại phùng Tỉ Kiếp Giáp mộc hóa tiết, gián tiếp tương sinh, thì Bính hỏa càng đắc thế. Đến Mậu vận, nguyên thần Mậu thấu ra chế Nhâm thủy, anh hùng hội ngộ, đỗ đạt tam nguyên. Là do đường nhân quan không hiển đạt, đến vận phương tây kim địa, tiết thổ sinh thủy vậy.
Giáp Dần - Đinh Sửu - Đinh Mão - Canh Tuất
Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi
Đinh hỏa sinh vào cuối đông, trong cục trùng điệp mộc hỏa, nhược biến thành vượng, đủ để dụng Tài. Canh kim thấu lộ hư nhược, vốn không xuất sắc, hỉ có Sửu tàng Tân kim làm dụng, cũng là huyền cơ ám lý tồn vậy. Sửu chính là tú khí của nhật nguyên, có thể dẫn Tỉ kiên đến sinh, lại gặp Mão Tuất hợp, mà Sửu thổ không tổn thương, cho nên thân ở vương vị, đỗ đạt Thám hoa.
Đinh Hợi - Nhâm Tý - Canh Tý - Tân Tị
Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ
Canh kim sinh vào giữa đông, Thương quan thái vượng, tiết khí quá mức, dụng thần ở thổ, không ở hỏa vậy. Hỏa ở trong trụ, bất quá thủ làm ấm cục vậy. Tứ trụ không có thổ, lấy Mậu thổ tàng ở trong Tị, không vượng khắc hỏa, hỏa có thể sinh thổ, cũng là huyền cơ ám lý tồn. Đến Mậu vận, năm Bính Thìn, hỏa thổ tương sinh, nguyên thần trong Tị cùng phát, cũng cư vương vị.