KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


description25. Bệnh Tật  Empty25. Bệnh Tật

more_horiz
Chương 25. Bệnh Tật

Ngũ hành hòa thuận, cả đời không họa.

Nguyên chú:
Ngũ hành hòa thuận, không chỉ đầy đủ mà không khuyết, sinh mà không khắc. Nhưng mà đủ thì nên đủ, khuyết thì nên khuyết, sinh mà nên sinh, khắc mà nên khắc, thì thuận hòa vậy. Chủ cả đời không có họa.

Nhâm thị viết: Ngũ hành trên trời là ngũ khí gồm khí xanh, đỏ, vàng, trắng, đen. Ở dưới đất ngũ hành là mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. Ở con người là ngũ tạng tim, bụng, tỳ, phổi, thận. Con người là linh hồn của vạn vật, có đầy đủ ngũ hành, biểu thị ở đầu mặt, tượng thiên là ngũ cảm, bao lấy ở tạng phủ, tượng địa là ngũ hành, cho nên là một tiểu thiên địa vậy. Chỗ này là lấy thuộc từng tạng phủ mà phục dương ở ngũ địa, phàm một tạng phối với một phủ, phủ đều thuộc dương, cho nên là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Tạng đều thuộc âm, cho nên là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Hoặc là bất hòa, hoặc thái quá hay bất cập, thì có bệnh phong, nhiệt, thấp, táo, hàn vậy. Ngũ vị cần phải điều hòa, cũng có thể giải được. Ngũ vị gồm chua, đắng, ngọt, cay, mặn vậy. Chua thuộc mộc, ăn nhiều là hại gân; Đắng thuộc hỏa, ăn nhiều thì hại xương; Ngọt thuộc thổ, ăn nhiều hại thịt; Cay thuộc kim, ăn nhiều hại khí; Mặn thuộc thủy, ăn nhiều hại máu, tương khắc là so với ngũ vị vậy.

Cho nên viết “Ngũ hành thuận hòa, một đời không họa”. Không chỉ ngũ hành bát tự cần phải hòa, mà tạng phủ ngũ hành cũng nên hòa vậy. Bát tự ngũ hành hòa, để hòa với tuế vận; tạng phủ ngũ hành hòa, để ngũ vị hòa. Hòa, ý là giải trừ. Nếu ngũ địa hòa, ngũ vị điều, thì không có bệnh tật vậy. Cho nên ngũ hành hòa, là không sinh không khắc, đầy đủ mà không khuyết gọi là hòa vậy. Cần quý ở tiết vượng thần, có dư nguồn chảy, vượng thần chảy có dư, nhược thần không đủ mà nhận ích vậy, chỗ này gọi là hài hòa. Nếu cưỡng ép vượng thần, yếu không địc lại mạnh, thì làm tức giận, vượng thần không thể tổn, lại làm tổn thương nhược thần vậy. Là lấy vượng thần thái quá mà tiết, không thái quá thì nên khắc; nhược thần có căn thì nên phù trợ, vô căn thì nên tổn đi. Phàm bát tự chỉ cần một thần có lực, chế hóa phù hợp, thì một đời không tai họa. Không phải đầy đủ mà không khuyết là tốt, sinh mà không khắc là hòa vậy.

Quý Mùi - Giáp Dần - Mậu Tuất - Canh Thân
Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ.
Mậu sinh tháng Dần, mộc vượng thổ hư, hỉ Mậu tọa Tuất thổ thông căn, đủ sức dụng kim chế Sát. So với Canh kim tọa lộc, có đủ lực khắc mộc, chỗ gọi là không thái quá thì nên khắc vậy. Tuy can năm Quý thủy sinh Sát, được Mùi thổ chế, khiến cho không thể sinh mộc, hỉ mà có phù, ghét mà có khử, thì ngũ hành hòa vậy. Mà một đường vận trình cùng thể dụng không nghịch, thọ đến 90, thông minh hiểu biết, đi đứng tự nhiên. Con thịnh cháu nhiều, danh lợi phúc thọ đều đủ, một đời không tai họa không bệnh tật.

Giáp Dần - Canh Ngọ - Mậu Dần - Giáp Dần
Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý
Trong cục Thất Sát có 5, 1 Canh kim tọa Ngọ vô căn, gọi là nhược thần vô căn, nên khử đi, vượng thần thái quá, nên tiết khí vượng thần vậy. Mà Ngọ hỏa là hòa vậy. Hỉ Ngọ hỏa nắm lệnh, không có thủy, tuy vận gặp kim thủy, không thể phá cục là không cần thiết. Vận đến mộc hỏa, danh lợi đều có. Người này thần dồi dào, tinh khí tự sinh, mà phú quý phúc thọ đầy đủ, một đời không có họa, con cháu đông đúc, con cháu đều phát triển.

Giáp Tý - Bính Tý - Quý Hợi - Ất Mão
Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ
Nhật nguyên Quý Hợi, năm tháng tọa Tý, có thể biết vượng vậy. Hỉ nhất giờ Mão tiết kỳ tinh anh, mộc khí có thừa, hỏa hư đắc dụng, gọi là tinh đủ thần vượng. Hỉ không có thổ kim hỗn tạp, có thổ thì hỏa tiết, không thể ngăn thủy, lại cùng mộc bất hòa, có kim thì mộc bị tổn thương, càng giúp nhau chảy cuồn cuộn mệnh mông. Cả đời không tai họa, nguyên do là không có thổ kim hỗn tạp. Tuổi già đến tám mươi, mà ăn uống càng khỏe, thông minh hiểu biết, đi đứng vững vàng, người gặp nghi ngờ chỉ là 50 tuổi, danh lợi song toàn, con cháu đông đúc.

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Huyết khí loạn, cả đời nhiều bệnh tật.

Nguyên chú:
Khí huyết loạn, không chỉ có hỏa thắng thủy, thủy khắc hỏa; ngũ khí phản nghịch, trên dưới không thông, qua lại không thuận, gọi là Loạn, chủ người nhiều bệnh tật.

Nhâm thị viết: Khí huyết loạn, là nói ngũ hành bội nghịch mà không thuận vậy. Luận về ngũ hành, thủy là máu huyết, luận về thân thể mạch tức là máu huyết vậy. Màng tim chủ về máu huyết, cho nên thông tay chân kinh quyết âm, Tim thuộc Đinh hỏa, màng tim chủ máu huyết, bàng quang thuộc Nhâm thủy. Đinh Nhâm tương hợp, cho nên tim có thể xuống dưới giao tiếp qua lại với thận, Đinh Nhâm thì hóa mộc, mà thần khí tự đủ, tương sinh thích hợp Ký tế, máu chạy lưu thông mà không có bệnh tật vậy. Cho nên bát tự quý ở Xứ khắc phùng sinh, trong nghịch được thuận mà thành đẹp vậy. Nếu hai bên tương chiến, trên dưới tương khắc, hỉ nghịch gặp thuận, thì hỏa vượng thủy khô, hỏa có thể đốt mộc; thủy vượng thổ rửa sạch, thủy có thể làm chìm kim; thổ vượng mộc gãy, thổ có thể làm mờ hỏa; kim vượng hỏa hư, kim có thể phá thổ; mộc vượng kim khuyết, mộc có thể ngấm thủy. Lý này là ngũ hành đảo điên tương khắc, phạm chỗ này, tất nhiều tai họa bệnh tật.

Bính Thân - Ất Mùi - Đinh Mùi - Canh Tuất
Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu
Đinh sinh cuối hạ, Mùi Tuất táo thổ, không thể hối hỏa sinh kim, Bính hỏa đủ để đốt mộc khắc kim, thì thổ càng táo khô mà không tiết. Trong Thân có Nhâm thủy khô cạn mà tinh nhất định khô, cho nên ban đầu mắc bệnh đàm hỏa. Hợi vận, thủy không địch lại hỏa, lại có thể sinh mộc trợ hỏa, đúng như đem muối bỏ biển, thế hỏa càng mãnh liệt, thổ huyết mà chết.

Nhâm Dần - Đinh Mùi - Bính Thân - Giáp Ngọ
Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu
Bính hỏa sinh tháng Mùi giờ Ngọ, can năm Nhâm thủy vô căn, cách xa Thân kim, vốn không thể sinh thủy, lại bị Dần xung, thì khí phổi càng kém. Thêm Đinh Nhâm tương hợp hóa mộc, tòng hỏa thì tim hỏa càng vượng, thận thủy tất khô cạn, cho nên mắc bệnh về bài tiết, lại có đàm ở miệng. Đến vận Tuất đủ hội hỏa cục, phổi càng tuyệt, thận thủy quá khô, thổ huyết mà chết.

Giáp Thìn - Bính Dần - Bính Dần - Nhâm Thìn
Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân
Mộc nắm lệnh, hỏa phùng sinh, Thìn vốn là thấp thổ, có thể chứa thủy, bị chỗ Bính Dần khắc, tỳ vị bị thương, phổi kim bị tuyệt, mộc nhiều ngấm thủy, mà thận thủy cũng khô. Đến vận Canh, mộc vượng kim khuyết, kim thủy cùng thấy, mộc hỏa kim tung hoành vậy, thổ huyết mà chết. Tạo này mộc hỏa đồng tâm, chỉ có thể thuận mà không thể nghịch, trái lại lấy Nhâm thủy là kỵ, cho nên vận đầu gặp Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, trái lại không có ngại.

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Kỵ thần nhập ngũ tạng mà bệnh hung.

Nguyên chú:
Trong trụ chỗ kỵ thần, không chế không hóa, không xung không tán, ẩn phục thâm sâu, tương khắc ngũ tạng, thì là bệnh hung. Kỵ mộc mà nhập thổ thì tỳ bệnh, kỵ hỏa mà nhập kim thì phế bệnh, kỵ thổ mà nhập thủy thì thận bệnh, kỵ kim mà nhập mộc thì gan bệnh, kỵ thủy mà nhập hỏa thì tim bệnh. Lại xem hư thực, như mộc nhập thổ, thổ vượng, thì bệnh tỳ tự có dư, phát ở tháng tứ quý; thổ suy, thì bệnh tỳ có không đủ, lấy ở tháng đông xuân. Còn lại cứ loại suy.

Nhâm thị viết: Kỵ thần nhập ngũ tạng, là khí âm trọc, mai tàng ở địa chi vậy. Âm trọc phục sâu, khó chế khó hóa, là bệnh rất hung. Như là hỉ, một đời không họa; như là kỵ, cả đời nhiều bệnh. Thổ là tỳ vị, tỳ thích chậm, vị thì thích hòa, kỵ mộc mà nhập thổ, thì không hòa hoãn mà bệnh vậy. Kim là phổi và đại tràng, phổi cần thu, đại tràng cần thông, kỵ hỏa mà nhập kim, thì khí phổi nghịch lên trên, đại tràng không thông mà bệnh vậy. Thủy là bàng quang và thận, bàng quang cần nhuận, thận cần chắc, kỵ thổ mà nhập thủy thì quá khô, bàng quang táo mà bệnh vậy. Mộc là gan mật, gan cần thông mật cần ổn định, kỵ kim mà nhập mộc, thì gan nóng mà sinh hỏa, mật hàn mà bệnh vậy. Hỏa là khoang tim ruột, tim cần mở rộng, tiểu tràng cần thu vào, kỵ thủy mà nhập hỏa, thì tim không mở rộng, tiểu tràng kéo dài mà bệnh vậy. Lại cần xem có dư hay không đủ, như thổ thái vượng, mộc không thể nhập thổ, là bệnh tỳ vị tự có dư. Tỳ vốn kỵ thấp, Vị vốn kỵ hàn, nếu thổ thấp mà có dư, bệnh phát ở mùa đông xuân, lại kỵ hỏa để táo; thổ táo mà có dư, bệnh phát ở mùa hạ thu, lại kỵ thủy để nhuận. Như thổ hư, nếu mộc đủ để khai thông thổ, nếu thổ thấp mà không đủ, bệnh phát ở mùa hạ thu; thổ táo mà không đủ, bệnh phát ở mùa đông xuân. Bởi vì thổ hư thấp, gặp mùa hạ thu táo, thổ hư thấp, gặp mùa đông xuân ẩm thấp, làm cho mộc bén căn mà càng xanh tốt, thổ bị khắc mà càng hư. Nếu thổ hư thấp, lại gặp mùa hư thấp, thổ hư táo, lại gặp mùa hư táo, mộc tất hư phù, không thể bén căn, thổ lại không sợ khắc vậy. Còn lại loại suy.

Canh Dần - Kỷ Sửu - Bính Tý - Ất Mùi
Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi
Bính hỏa sinh ở cuối đông, tọa dưới Tý thủy, là hỏa hư không cháy, dụng thần ở mộc. Mộc vốn héo vàng, tuy chỗ hai dương, manh nha chưa động, Canh thấu lâm tuyệt, là bệnh rất kém, chỗ lo là chi tháng Sửu thổ, khiến cho Canh kim thông căn, trong Sửu tàng Tân, đúng kỵ thần thâm nhập ngũ tạng, Kỷ thổ lại là mẹ của Canh kim, hối hỏa sinh kim, đủ để phá Dần. Tý thủy là thận, Sửu hợp không thể sinh mộc, hóa thổ lại có thể trợ kim, Sửu thổ là bệnh, không chỉ sinh kim, ức mà còn di dời chồng lên thủy, là lấy bệnh dạ dày cùng thận đều suy. Đến vận Mão, có thể phá Sửu thổ, danh liệt tường cung; vận Ất hợp Canh, Tị Sửu củng kim, chứng hư tổn, không giữ mà chết.

Đinh Hợi - Tân Hợi - Tân Mùi – Mậu Thìn
Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị
Tân kim sinh ở đầu mùa đông, Đinh hỏa khắc khử Tỉ kiên, nhật chủ cô lập không có trợ giúp, Thương quan thấu mà nắm lệnh, thiết khử nguyên thần mệnh chủ, dụng thần ở thổ không ở hỏa vậy. Mùi là căn khố của mộc, Thìn là dư khí của mộc, đều tàng kỵ Ất mộc; năm tháng có 2 Hợi, là là đất mộc sinh, Hợi Mùi củng mộc, kỵ thần này nhập ngũ tạng quy về lục phủ. Như vậy luận, nói tỳ hư thận tiết, bệnh hoạn đầu hoa di tiết, lại thêm nặng ở dạ dày cổ tay đau nhức, không có ngày nào yên. Đến vận Kỷ Dậu, nhật chủ phùng lộc, vào tràng nhập học có con, vận Mậu khắc khử Nhâm thủy được ăn lương thực; vận Thân Nhâm không phùng sinh, thế bệnh càng nặng, vận Đinh nhật chủ thụ thương mà chết.

Xem hai tạo ở trên, chứng bệnh và trong ngũ hành bát tự, hiển nhiên ứng nghiệm, kết quả có thể nghiên cứu tỉ mĩ, thọ yểu cùng thông, sao không thể tham dự chứ?

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Khách thần du lục kinh mà họa ít

Nguyên chú:
Khách thần so với kỵ thần nhẹ hơn, lý không thể không có, du hành lục đạo, thì tất có họa. Như mộc du hành ở đất thổ mà dạy dày không may. Hỏa du hành ở đất kim mà đại tràng không may, thổ du hành đất thủy mà bàng quang có họa, kim du hành đất mộc mà mật không may. Thủy du hành đất hỏa mà đường ruột gặp họa.

Nhâm thị viết: Khách thần du hành lục kinh, là chỗ dương hư, là di động ở thiên can vậy. Dương mà hư lộ, dễ chế dễ hóa, là họa tất nhỏ, do bệnh ở bên ngoài, bên ngoài dễ phát tán, không đến nỗi là đại họa, cho nên là nhỏ vậy. Nghiên cứu gốc bệnh, vẫn từ âm dương ngũ hành, lấy phân ra tạng phủ, mà phép luận ngũ tạng, chớ cũng lấy thiên can làm khách thần luận hư, địa chi là kỵ thần luận thực. Nhất định phải nghiên cứu có liên quan đến hư trung, lý là xứ Thực lại Hư, họa hay cát rõ ràng có ứng nghiệm vậy.

Nhâm Thìn - Giáp Thìn - Canh Ngọ - Bính Tuất
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi
Nhật nguyên Canh Ngọ, sinh ở tháng Thìn giờ Tuất, xuân kim Sát vượng, dụng thần ở thổ. Can tháng Giáp mộc, vốn là Khách thần, được 2 thổ, cho nên tỳ vị không có bệnh, vận thủy khô luyện kim, mà bệnh chứng nhược. Đến vận Mậu Thân, thổ kim cùng vượng, cục lấy mộc là bệnh, mộc chủ phong, kim có thể khắc mộc; liên tiếp cùng 30 năm vận Kỷ Dậu Canh, phát tài hơn 10 vạn, vận Tân Hợi kim không thông căn, mộc được trường sinh, chợt mắc bệnh phong mà chết.

Quý Sửu - Mậu Ngọ - Nhâm Dần - Canh Tuất
Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý
Nhật nguyên Nhâm Dần, sinh ở tháng 5 giờ Tuất, Sát vượng lại gặp Tài cục, Sát càng tung hoành, cho nên Khách thần không ở Ngọ hỏa, lại ở Dần mộc, trợ cho thế hỏa; Khách thần lại hóa kỵ thần, Mậu Quý hóa hỏa, thì kim thủy đều tổn thương. Đến vận Ất Mão, kim thủy lâm tuyệt, mắc chứng phế thận đều suy, mà ho mất tiếng, ở tháng giêng năm Giáp Tuất mộc hỏa cùng vượng mà chết.

Ất Hợi - Canh Thìn - Bính Tý - Canh Dần
Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất
Nhật nguyên Bính Tý, sinh ở cuối mùa xuân, thấp thổ nắm lệnh, tích thủy dưỡng mộc, dụng thần ở mộc, được Hợi sinh, Thìn là dư khí, Dần trợ giúp. Ất mộc tuy cùng Canh kim hợp mà không hóa, Canh kim di động thiên can là Khách thần, không thể thâm nhập tạng phủ, mà du hành lục kinh vậy. Thủy là tinh, thấy 2 Hợi Tý, Thìn lại củng mà tích trữ, mộc là dư khí, xuân lệnh có dư, Dần Hợi sinh hợp hỏa là vượng thần, mùa ở ngũ dương tiến khí, thông căn năm tháng, khí nối giờ sinh, tinh khí thần cả ba đều đầy đủ, thì tà khí không theo mà vào. Hành vận lại không nghịch, cả đời không tật bệnh, danh lợi đầy đủ. Duy chỉ có thổ hư thấp, kim lại lấy tiết, cho nên tỳ vị hư hàn, khó mà miễn bệnh tiêu chảy mà thôi.

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Thổ không nhận hỏa là tổn thương khí.

Nguyên chú:
Thổ gặp xung mà hư thoát, thì không nhận hỏa, tất chủ bệnh về khí, bởi vì tỳ thộc thổ mà nạp hỏa, không nạp thì bệnh vậy.

Nhâm thị viết: Thổ táo thực không nhận hỏa, hỉ thủy nhuận vậy; thổ hư thấp không nhận hỏa, kỵ thủy khắc vậy; mùa xuân thổ có căn mà nhận hỏa, giải băng hàn lạnh, mà khử đi ẩm thấp vậy; mùa thu thổ đắc địa mà nhận hỏa, chế kim còn dư, bổ sung thổ bị tiết khí vậy. Quá táo thì đất không nhuận, quá thấp thì trời không thuận hòa, là không nhận hỏa, không nạp mộc. Quá táo tất khí suy, quá thấp tất tỳ hư, nhông nạp thì bệnh vậy.

Kỷ Tị - Tân Mùi - Mậu Tuất - Kỷ Mùi
Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu
Mậu thổ sinh ở tháng Mùi, thổ dày chồng chất, hỉ thiên can không có hỏa, thấu ra Tân kim, gọi là ở trong phát ra bên ngoài, tinh hoa đều ở Tân kim. Vận đến Kỷ Tị Mậu Thìn, có tình sinh kim, danh lợi sung túc. Vận Đinh Mão Tân kim thụ thương, địa chi hỏa thổ cùng vượng, không thể khai thông thổ, lại tòng theo thế hỏa, thì thổ càng vượng, Tân thuộc phổi, phổi thụ thương, huyết mạch không thể lưu thông, mắc bệnh khí huyết đều suy mà chết.

Canh Thìn - Kỷ Sửu - Kỷ Hợi - Nhâm Thân
Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi
Nhật nguyên Kỷ Hợi, sinh vào tháng Sửu đất hư thấp, Thìn Sửu tích thủy tàng kim, thấu Canh Nhâm mà còn thông căn, chỉ vì khí Nhâm hư thấp, trái lại thủy là dụng mà Tòng Tài vậy. Vận đầu Canh Dần Tân Mão, thiên can gặp kim sinh thủy, địa chi gặp thủy khắc thổ, sưởi ấm có dư; Nhâm Thìn Quý Tị, không những tài nghiệp ngày càng tăng, mà còn thanh danh vang vọng; Tị vận khắc thê phá tài. Tạo này tứ trụ không có hỏa, được giờ Nhâm thủy phùng sinh, cách thành Giả Tòng Tài, cho nên sản nghiệp phong phú, có học thức, vợ con đều tốt, một khi thấy hỏa, là Tài đa thân nhược, một việc cũng không thành. Đến vận Giáp Ngọ, mộc vô căn mà tòng hỏa, năm Kỷ Tị hỏa thổ cùng vượng, khí huyết tất tổn thương, mắc bệnh xuất huyết dạ dày mà chết.

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Kim thủy Thương quan, hàn thì thấu lạnh, nhiệt thì đàm hỏa; hỏa thổ Ấn thụ, nhiệt thì phong đàm, táo thì da ngứa. Luận đàm nhiều mộc hỏa, lo rầu sinh độc hỏa kim, kim thủy khô thương mà thận kinh hư, thủy mộc tương thắng mà tỳ vị tiết.

Nguyên chú: Phàm chỗ này đều là ngũ hành không thuận hòa mà có bệnh, mà biết bệnh, biết người, thì có thể đoán ra cát hung. Như mộc bệnh như thế nào, lại xem mộc là thần nào của nhật chủ, nếu mộc là Tài mà có thể phát ra thổ bệnh, thì đoán Tài suy vượng, vợ tốt xấu, cha hưng suy. Cũng không cần nghiệm rõ, nhưng có thể ứng với lục thân cùng sự thể lại không tương xứng, đợi bệnh ngúy mà miễn xấu vậy.

Nhâm thị viết: Kim thủy Thương quan, khí hàn quá lạnh, khí cay lạnh, chân khí có suy, tất chủ lạnh mà ho; quá nhiệt, thủy không thắng hỏa, hỏa tất khắc kim. Thủy không thắng hỏa, tim thận không giao nhau vậy; hỏa có thể khắc kim, phổi bị thương vậy. Mùa đông hư hỏa thượng viêm, cho nên chủ đàm hỏa.

Hỏa thổ Ấn thụ, là quá nhiệt, mộc tòng hỏa vượng vậy. Hỏa vượng thiêu mộc, mộc thuộc phong, cho nên chủ phong đàm; quá táo, hỏa viêm thổ cháy vậy. Thổ nhuận thì huyết mạch lưu hành, mà được điều hòa giữ gìn. Da thuộc thổ, thổ hỉ ấm, ấm tức là nhuận vậy, cho nên quá táo thì da ngứa, quá thấp thì sinh lở loét. Hạ thổ cần thấp, đông thổ cần táo, thì người không có bệnh, thì vật phát sinh. Nói chung, hỏa nhiều chủ đàm, thủy nhiều chủ ho.

Mộc hỏa nhiều đàm, là hỏa vượng gặp mộc, mộc tòng theo thế hỏa, thì kim không thể khắc mộc, thủy không thể thắng hỏa, hỏa tất khắc kim mà tổn thương phổi, dưới không thể sinh thận thủy, mộc lại tiết khí thủy, thận thủy tất táo, âm hư hỏa viêm, thì sinh đờm vậy.

Lo buồn sinh độc hỏa kim, là hỏa mạnh mà thủy khô, hỏa tất đốt mộc; mộc bị hỏa đốt, thổ tất khô cháy; táo thổ có thể làm giòn kim, kim thuộc ở bên trong, gặp hỏa kim giòn, khí phổi thượng nghịch; khí phổi nghịch Tài gan thận cùng suy, gan thận suy Tài huyết mạch không lưu thông, hơn nữa vì thất tình đau buồn mà sinh u độc vậy.

Thổ táo không thể sinh kim, hỏa mãnh liệt thì có thể làm khô thủy, thận kinh tất hư; thổ hư không thể chế thủy, mộc vượng tự có thể khắc thổ, tỳ vị tất tổn thương. Phàm chỗ này ngũ hành bệnh mà không trung hòa, nghiên cứu kĩ càng thì rất ứng nghiệm vậy. Nhưng cùng nhân sự có thể tương thông vậy, không thể chuyên chấp mà luận, như bệnh không tương phù, có thể nghiên cứu lục thân bị cát hung, sự thể tốt xấu, tất có ứng nghiệm. Như nhật chủ là kim, mộc là Tài tinh, trong cục hỏa vượng, nhật chủ không thể gánh nỗi Tài, tất sinh hỏa mà trợ Sát, trái lại là kỵ thần của nhật chủ, đã hoặc là có thủy, thủy vẫn sinh mộc, thì khí kim càng hư; kim là phổi đại tràng, phổi tổn thương thì đại tràng không thông, dưới không thể sinh thận thủy, mộc tiết thủy mà sinh hỏa, tất chủ phổi thận cùng có bệnh. Nhưng chỗ này cũng có cùng không có, Tất là Tài nhiều mà phá hao, không đủ áo cơm, là xấu vậy. Nhưng cũng có hoặc không có bệnh mà tài nguyên vẫn vượng, vợ tất hung ác, con tất bất hiếu vậy. Đoán tất có một chút nghiệm, trong đó cũng có vợ đau con mất mà không có bệnh, mà tài nguyên vượng, tuế vận một mạch thổ kim là tốt vậy. Nhưng cũng có kim thủy ở trong cục, cùng mộc hỏa quân bình, mà mắc bệnh phổi thận, hoặc là Tài đa phá hao, hoặc là vợ xấu con kém, cũng là do tuế vận một đường mộc hỏa, mà kim thủy thụ thương vậy. Nêu suy xét cho kĩ càng, không thể chấp nhất mà luận vậy.

Nhâm Thìn - Nhâm Tý - Tân Dậu - Kỷ sửu
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Tân kim sinh vào giữa mùa đông, là kim thủy Thương quan, trong cục hoàn toàn không có khí hỏa, là kim hàn thủy lạnh, thổ thấp mà thành băng, ban đầu mắc phải ho lạnh. Nhưng Thương quan bội Ấn, cách cục thuần thanh, đi học xem qua là nhớ, sớm vào nhập phán. Giáp Dần Ất Mão, tiết khí thủy, gia nghiệp tăng nhanh; đến vận Bính Thìn, thủy hỏa tương khắc mà mắc bệnh tật, năm Bính Dần hỏa kim vượng, thủy càng kích động, càng thành chứng bệnh suy nhược mà chết.

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Kỷ Sửu - Bính Tý - Tân Dậu - Nhâm Thìn
Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ
Kim thủy Thương quan, thấu ra Bính hỏa, khử mất hàn lạnh, cho nên không có bệnh ho lạnh; Quý Dậu nhập học nhận kho lương, mà đạt được kỳ thi hương, hỏi đạp: Kim thủy Thương quan hỉ Quan tinh, sao vận Quý Dậu thủy mà được công danh chứ? Tôi nói: Kim thủy Thương quan hỉ hỏa, chẳng qua là làm sưởi ấm cục, không thủ lấy làm dụng vậy. Thủ hỏa là dụng, 10 không được 1,2, thủ thủy là dụng thì 10 phần có 8,9; thủ hỏa tất cần mộc hỏa cùng đến, lại cần nhật nguyên vượng tướng, tạo này nhật nguyên tuy vượng, trong cục ít mộc, là hỏa hư vô căn, tất lấy thủy làm dụng thần vậy. Vận Nhâm Thân từ dạy học mà được Tri huyện, Tân Mùi năm Đinh Sửu, hỏa thổ cùng vượng, hợp thủ Nhâm thủy, Tý thủy cũng tổn thương, mắc bệnh mà chết.

Giáp Tuất - Bính Tý - Canh Tý - Bính Tuất
Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ
Canh kim sinh ở tháng Tý, cùng thấu 2 Bính hỏa, địa chi 2 Tuất là táo thổ, chính là căn khố của Bính, lại được Giáp mộc sinh Bính, là quá táo nhiệt vậy. Vận đến Mậu Dần Kỷ Mão, mà mắc chứng bệnh đờm hỏa; Canh Thìn Tỉ kiên trợ thân, chi gặp thấp thổ, bệnh không thuốc mà khỏi, thêm quyên góp ra làm quan, Tân Tị đất trường sinh, danh lợi lưỡng toàn. Không dụng hỏa, là do thân suy vậy. Phàm kim thủy Thương quan dụng hỏa, tất cần thân vượng gặp Tài, trung hòa dụng thủy, suy nhược dụng thổ vậy.

Kỷ Tị - Canh Ngọ - Kỷ Hợi - Bính Dần
Kỷ Tị /Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý
Kỷ thổ sinh ở giữa mùa hạ, là hỏa thổ Ấn thụ, vốn là thấp thổ, lại tọa dưới Hợi thủy, Bính hỏa thấu mà phùng sinh, năm tháng lại gặp lộc vượng, chỗ này gọi là nhiệt, chứ không phải táo vậy. Dần Hợi hóa sinh hỏa, đáng sợ mùa hạ; kiêm vận đến Đông Nam mộc địa, phong thuộc mộc, cho nên mắc bệnh phong. Mà Tị Hợi vốn là âm dụng dương vậy, được Ngọ trợ giúp, tim và tiểu tràng càng vượng, Hợi gặp Dần tiết, Canh kim không thể ra đời, khí thận càng suy, lại mắc chứng tiết hết, may mắn điều dưỡng, mà thế bệnh không tăng, đến vận Ất Sửu chuyển bắc phương, bệnh trước đều khỏi, Giáp Tý Quý Hợi thủy địa, già mà như thanh niên, lại nạp thiếp sinh con, phát tài bạc vạn.

Tân Mùi - Mậu Tuất - Mậu Tuất - Đinh Tị
Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn
Mậu thổ sinh ở tháng Tuất, Mùi Tuất đều mang hỏa táo thổ, gặp giờ Đinh Tị, hỏa thổ Ấn thụ, Tuất vốn là táo thổ, lại càng hung, thời ở mùa thu, chỗ này gọi là Táo khô, không phải nhiệt vậy. Can năm Tân kim, Đinh hỏa cướp, Tân thuộc phổi, táo thổ không thể sinh kim. Cho nên ban đầu mắc chứng đàm, thêm phổi bị thương vậy. Không đến mức không hại, đến vận Bính Thân Đinh Dậu, đất tây phương kim. Đến Ất Mùi Giáp Ngọ, mộc hỏa tương sinh, thổ càng táo, càng bị phải da rắn điên, chỗ gọi là da ngứa vậy. Vận Quý Tị thủy vô căn, không thể khắc hỏa cùng kích cháy, bất ngời bệnh đến nhanh mà chết. Chỗ này là hỏa thổ ép khô Quý thủy, thận tuyệt vậy.

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
Kỷ Sửu - Đinh Sửu - Kỷ Hợi - Ất Sửu
Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi
Kỷ thổ sinh ở cuối mùa đông, chi gặp 3 Sửu, nhật chủ vốn vượng, quá là hàn thấp, Đinh hỏa vô căn, không thể khử khí hàn thấp. Ất mộc héo khô, dẫn đến không dùng, thi hương khó thành; Kỷ thổ thuộc tỳ, hàn mà còn thấp, cho nên lúc nhỏ nhiều mụt độc lở loét. Vận Quý Dậu Nhâm Thân, tài tuy đại vượng, hai chân hàn thấp lở loét. Hơn 10 năm không hết, trung khí lại đại suy, ý là Ất mộc cũng héo vậy.

Bính Tuất - Kỷ Hợi - Giáp Tuất - Canh Ngọ
Canh Tý/ Tân Sửu /Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị
Giáp mộc sinh vào tháng Hợi, Ấn tuy nắm lệnh, tứ trụ thổ nhiều khắc thủy, thiên can Canh kim vô căn, lại cùng xa cách Hợi thủy, Tân kim trong Tuất uất ức, Ngọ Bính dẫn ra Đinh hỏa ở trong Tuất, Hợi thủy bị Tuất thổ chế định, không thể khắc hỏa, chỗ gọi là lo buồn hỏa kim vậy. Canh là đại tràng, Bính hỏa khắc; Tân là phổi, Ngọ hỏa công; Nhâm là bàng quang, Tuất thổ hại, gọi là hỏa độc công nội. Vận Giáp Thìn mộc lại sinh hỏa, xung Tân kim ở trong Tuất, bị Ngọ khắc, sinh ung thư phổi mà chết.

Canh Dần - Quý Mùi - Giáp Ngọ - Giáp Tuất
Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu
Mộc hỏa Thương quan dụng Ấn, được Canh kim kề thân, sinh Ấn Quý thủy, thuần túy khả quan, đi học đọc qua là nhớ. Tiếc là hai chữ Canh Quý, địa chi không tải, lại sợ giờ Tuất sẽ khởi hỏa cục, ví dụ không đề cập đến kim không tổn thương, mà còn hỏa có thể làm nhiệt mộc, tiết hết nguyên thần mệnh chủ. Lúc nhỏ thành chứng suy nhược, phổi thận đều suy, đến vận Bính Tuất, bức thủy khắc kim mà yểu vong.

Quý Dậu - Ất Mão - Canh Tuất - Mậu Dần
Giáp Dần/ Quý Sửu /Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu
Xuân mộc nắm quyền, Mão Dậu tuy xung, mộc vượng kim khuyết, thổ cũng thụ thương; càng ngại Mão Tuất Dần cùng củng hợp hóa Sát, mộc chủ mắc bệnh tỳ hư phế thương, nhưng cả đời lại không có bệnh. Lại Dậu nhược Mão cường, tuy không khắc vợ, mà giữa thật khó tả. Sinh hai con, đều không ra gì, là đồ cường đạo, cho nên miễn bệnh, tài cũng vượng vậy.

18.4.2015

description25. Bệnh Tật  EmptyRe: 25. Bệnh Tật

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết