Chương 16. Thuận Cục
Vừa ra khỏi cửa chỉ thấy Nhi,
Nhi ta thành khí thành cửa ngõ:
Tòng Nhi bất kể thân cường nhược,
Chỉ cần Nhi ta lại được Nhi.
Nguyên chú: Chỗ này cùng thành tượng, tòng tượng, không giống Thương quan, chỉ lấy Ta sinh là Nhi. Như mộc gặp Hỏa, thành khí tượng, như ngày Mậu Kỷ gặp Thân Dậu Tuất thành khí Tây phương, hoặc đủ Tị Dậu Sửu hội kim cục, bất luận nhật chủ cường nhược, mà còn xem kim có thể sinh khí thủy, chuyển thành ý sinh dục. Chỗ này là lưu thông, tất nhiên phú quý.
Nhâm thị viết: Thuận, là ta sinh vậy. Chỉ thấy Nhi, là nhiều Thực Thương vậy; thành cửa ngõ, là nguyệt kiến gặp Thực Thương vậy, tháng là môn hộ, không thể thiếu Thực Thương ở đề cương vậy; bất luận thân cường hay thân nhược, tứ trụ tuy có Tỉ Kiếp vẫn loại đi để sinh trợ Thực Thương vậy; Nhi ta lại được Nhi, trong cục không thể thiếu có Tài, ý lấy thanh sinh dục vậy. Như bản thân bình thường, không làm không có ý chí, được con cháu hưng thịnh, chấn hưng danh tiếng gia đình, lại cần phải vận hành Tài địa, mà lại sinh cháu, có thể hưởng vinh con cháu vậy. Cho nên gọi là Thuận cục.
Tòng Nhi và Tòng Tài Quan là khác nhau vậy. Nhưng Thực Thương sinh tài, chuyển thành sinh dục, tú khí lưu hành, danh lợi đều toại nguyện. Cho nên lấy Thực Thương là con, Tài là cháu, cháu không thể khắc ông bà, thì có thể an hưởng vinh hoa. Như thấy Quan tinh, nói cháu lại sinh Nhi, thì ông cụ tổ lại bị thụ thương, cho nên thấy Quan Sát tất là thôi hại vậy. Như thấy Ấn thụ, là cha của ta, cha có thể sinh ta, ta tự có, sao có thể cho con? Con tất gặp tai ương, ý là không có sinh dưỡng. Tai họa lập tức đến, là lấy Tòng Nhi cách tối kỵ Ấn vận, kế đến là Quan vận. Quan có thể tiết khí Tài, lại có thể khắc nhật chủ, còn Thực Thương lại cùng Quan tinh là bất hòa, ý là mất sinh dục, khởi họa tranh chiến, không hại người thì cũng tán tài vậy.
Đinh Mão - Nhâm Dần - Quý Mão - Bính Thìn
Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân
Quý thủy sinh vào đầu xuân, chi đủ Dần Mão Thìn phương đông nhất khí, cách thành thủy mộc Tòng Nhi, lấy can giờ Bính hỏa làm dụng, chỗ gọi là Nhi lại sinh Nhi. Ngại ở can tháng Nhâm thủy là bệnh, hỉ Đinh hỏa hợp Nhâm hóa mộc, lại sinh Bính hỏa, chuyển thành ý sinh dục, cho nên sớm đăng khoa Giáp, thân đến Hàn Uyển, làm quan tướng soái. Thân vận, mộc hỏa tuyệt địa, hết lộc.
Đinh Tị - Quý Mão - Quý Mão - Bính Thìn
Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu
Quý thủy sinh vào giữa mùa xuân, mộc vượng thừa quyền, tứ trụ không có kim, cũng là thủy mộc Tòng Nhi cách. Dần vận, chi hội đông phương, năm Giáp Tuất nhập học, năm Bính Tý đăng Hương bảng, không bằng tạo ở trên, can tháng Quý thủy tranh Tài, không có chế hợp cho đẹp vậy. Mừng Tài tinh có thế, đường quan chắc chắn là hanh thông.
Vừa ra khỏi cửa chỉ thấy Nhi,
Nhi ta thành khí thành cửa ngõ:
Tòng Nhi bất kể thân cường nhược,
Chỉ cần Nhi ta lại được Nhi.
Nguyên chú: Chỗ này cùng thành tượng, tòng tượng, không giống Thương quan, chỉ lấy Ta sinh là Nhi. Như mộc gặp Hỏa, thành khí tượng, như ngày Mậu Kỷ gặp Thân Dậu Tuất thành khí Tây phương, hoặc đủ Tị Dậu Sửu hội kim cục, bất luận nhật chủ cường nhược, mà còn xem kim có thể sinh khí thủy, chuyển thành ý sinh dục. Chỗ này là lưu thông, tất nhiên phú quý.
Nhâm thị viết: Thuận, là ta sinh vậy. Chỉ thấy Nhi, là nhiều Thực Thương vậy; thành cửa ngõ, là nguyệt kiến gặp Thực Thương vậy, tháng là môn hộ, không thể thiếu Thực Thương ở đề cương vậy; bất luận thân cường hay thân nhược, tứ trụ tuy có Tỉ Kiếp vẫn loại đi để sinh trợ Thực Thương vậy; Nhi ta lại được Nhi, trong cục không thể thiếu có Tài, ý lấy thanh sinh dục vậy. Như bản thân bình thường, không làm không có ý chí, được con cháu hưng thịnh, chấn hưng danh tiếng gia đình, lại cần phải vận hành Tài địa, mà lại sinh cháu, có thể hưởng vinh con cháu vậy. Cho nên gọi là Thuận cục.
Tòng Nhi và Tòng Tài Quan là khác nhau vậy. Nhưng Thực Thương sinh tài, chuyển thành sinh dục, tú khí lưu hành, danh lợi đều toại nguyện. Cho nên lấy Thực Thương là con, Tài là cháu, cháu không thể khắc ông bà, thì có thể an hưởng vinh hoa. Như thấy Quan tinh, nói cháu lại sinh Nhi, thì ông cụ tổ lại bị thụ thương, cho nên thấy Quan Sát tất là thôi hại vậy. Như thấy Ấn thụ, là cha của ta, cha có thể sinh ta, ta tự có, sao có thể cho con? Con tất gặp tai ương, ý là không có sinh dưỡng. Tai họa lập tức đến, là lấy Tòng Nhi cách tối kỵ Ấn vận, kế đến là Quan vận. Quan có thể tiết khí Tài, lại có thể khắc nhật chủ, còn Thực Thương lại cùng Quan tinh là bất hòa, ý là mất sinh dục, khởi họa tranh chiến, không hại người thì cũng tán tài vậy.
Đinh Mão - Nhâm Dần - Quý Mão - Bính Thìn
Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân
Quý thủy sinh vào đầu xuân, chi đủ Dần Mão Thìn phương đông nhất khí, cách thành thủy mộc Tòng Nhi, lấy can giờ Bính hỏa làm dụng, chỗ gọi là Nhi lại sinh Nhi. Ngại ở can tháng Nhâm thủy là bệnh, hỉ Đinh hỏa hợp Nhâm hóa mộc, lại sinh Bính hỏa, chuyển thành ý sinh dục, cho nên sớm đăng khoa Giáp, thân đến Hàn Uyển, làm quan tướng soái. Thân vận, mộc hỏa tuyệt địa, hết lộc.
Đinh Tị - Quý Mão - Quý Mão - Bính Thìn
Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu
Quý thủy sinh vào giữa mùa xuân, mộc vượng thừa quyền, tứ trụ không có kim, cũng là thủy mộc Tòng Nhi cách. Dần vận, chi hội đông phương, năm Giáp Tuất nhập học, năm Bính Tý đăng Hương bảng, không bằng tạo ở trên, can tháng Quý thủy tranh Tài, không có chế hợp cho đẹp vậy. Mừng Tài tinh có thế, đường quan chắc chắn là hanh thông.