KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 11 - Khí tượng  EmptyQuyển 11 - Khí tượng

more_horiz
Khí Tượng thiên
Túy Tỉnh Tử biên soạn

Nay nói lập tứ trụ mà thủ ngũ hành, định một vận mà chở 10 cửa. Thanh trọc thuần bác, vạn lần không đủ, tốt xấu thị phi, lý khó chấp nhất. Cho nên xưa luận mệnh, nghiên cứu tinh vi, là từ Thể mà nên Dụng. Nay luận mệnh, câu nệ cách cục, lại nắm Giả mà mất Chân. Tất trước tiên là xem quy mô khí tượng, là cương lĩnh phú quý bần tiện. Thứ là luận xuất xứ dụng thần, tử sinh cùng đạt vô cùng tinh vi. Không cần bát tự phức tạp, chỉ cần ngũ hành hòa khí. Không chỉ ràng buộc Tam nguyên Lục Giáp, ai biết vạn nghìn đầu mối.

Học giả ắt phải nhớ: Tìm tòi huyền ẩn, phát sinh quy căn. Hướng Thực tìm Hư, từ Không thủ Có. Tuy viết là mệnh lý, ở đây đã nhớ hơn nửa vậy. Nhưng mà biển lớn ở từ muỗng nước, Thiếu Âm sinh sản ở Lão Dương. Thành là cơ bại, biến là dần hóa. Chỗ đoạn văn này nên khảo sát cho kĩ càng, như là Nhất Dương giải hàn, Tam Phục sinh hàn.

Dương cương bất trung, kháng thì hại vậy.
Cương mà có nhu, là đạo cát vậy. Tượng kháng dương này không có chế, lại không bao tàng âm vật. Còn vận lại hành đông nam, thì dương cương mất gặp, tất chủ ở hại. Dụng chỗ này, là cô bần hung bạo, tử ở giữa thủy hỏa. Ví như ngũ dương sinh ở tháng âm, can chi kẹp vật hợp âm nhu. Đạo vận lại hành đất âm nhu, là vị trí cát vậy. Dụng chỗ này, tuy xuất từ hàn tiện, cuối cùng tất vinh hoa.

Nhu nhược thiên khô là tượng tiểu nhân, cương kiện trung chính, là tác phong quân tử.
Tượng này là đạo bất trung vậy. Trong tứ trụ nếu thấy âm nhu, mà không nhập cách. Can chi lại không bao dương, thì cuối cùng nhật chủ nhu nhược. Dụng chỗ này la xảo trá âm độc, không có chỗ nào là không đến. Ví như Thể cương kiện là quân tử vậy. Trung chính, là đức quân tử vậy. Trong tứ trụ dương mà tàng âm, cương nhu được chế, không phạm phá khắc hình xung. Dụng chỗ này, đức hạnh hơn người, trung trực cái thế, cho nên là tác phong quân tử.

Quá ở hàn lạnh, chỗ ấm áp cuối cùng khó phấn phát.
Quá ở khô táo, xứ thủy kích lại có hung tai. Tứ trụ thuần âm, sinh ở tháng 10, không tuyệt căn ngũ hành. Nhật can lại thấy suy nhược, mà không có khí cường kiện. Dẫu có gặp đất ấm áp, cuối cùng cùng khó phát đạt. Tứ trụ thuần hỏa, sinh ở trước Hạ Chí, tính người khô cháy. Trong tuế vận sợ gặp thủy kích, không chỉ không có thể chế, trái lại dẫn đến hại vậy. Dụng chỗ này, là cô bần chết yểu, đa số là phạm hình luật pháp.

Quá ở Chấp thực (nắm đầy), việc khó sáng tỏ.
Quá ở thanh lạnh, nhớ có thê lương. Chấp thực, dụng một mà cũng không thông vậy. Giả như: Dụng Quan không có Tài, dụng Ấn không có Sát, hợi nhiều thành ít, gặp chuyện cuối cùng không có sáng tỏ. Nếu kim thủy quá ở thanh hàn, không gặp vận làm ấm ấp. Như Canh Tân sinh ở thang 10, trong trụ thuần thủy, vận lại hành tây bắc. Cả đời là ăn một mình rồi ngũ cũng một mình, kiếp sống cô quạnh, người không chịu nỗi sự buồn tẻ vậy. ]

Quá ở hữu tình, chí hướng không có đạt xa.
Vật ở trong cục, không thể quá ở hữu tình. Nếu quá hữu tình, thì liền say mê mà không thể thoát ra, không có chỗ thấy bên ngoài vậy. Như Giáp mộc lấy Kỷ thổ là vợ, nên có tình cảm vững chắc. Nếu ở dưới Giáp Kỷ, lại cưỡi Tý Sửu, trong ngoài đều hợp. Mà bên ngoài không có Tài Quan, Ấn thụ làm động tâm Giáp. Thì Giáp luôn bị vây ở dưới Kỷ thổ, ý chí sắp đặt sao có thể đạt xa chăng?

Quá ở dụng lực, cũng đa số là khó thành.
Phàm trong trụ vật được tự nhiên, là tốt. Nếu luôn phải dụng lực, cuối cùng cũng không tốt. Ví như dụng Tài, trong cục không thấy, tất cầu chỗ Thương quan Thực thần sinh. Như Thực Thương thất thời vô khí, lại cầu Tỉ kiên chuyển trợ, hoặc bên ngoài ở xa xung hợp. Đều là quá ở dụng lực, thì thành tựu tất là gian nan vậy.

Quá ở Quý nhân, phùng tai tự khỏi. Quá ở Ác sát, gặp phúc khó hưởng.
Trong bát tự vốn có nhiều Quý nhân nhị Đức, phù dụng Tài Quan, không có hình phá. Tuy cư trong phái điên, cũng không có nguy vậy. Vốn có nhiều Ác sát, tam hình lục xung, lại cùng Tài Quan nghịch phản. Dẫu có gặp đất Tài Quan, làm sao mà lấy được cơ hưởng phúc ?

Ngũ hành tuyệt xứ, Lộc Mã phù thân.
Ở trong tứ trụ, Tỉ kiên chia phúc. Phàm gặp tuyệt xứ, không thể liền chỉ là hung, bởi vì xứ hung cũng có cát thần tương phù. Giả như mộc tuyệt ở Thân, Thân có Nhâm thủy là Ấn, Canh Mậu là Tài Quan. Là vật chỗ ta dùng, tất có thể phù thân tiến phúc. Chỉ lo có thần khắc hại chỗ dụng Quan, thì chỗ tuyệt dụng vậy, như vậy là hung. Nếu lấy Quan là quý, lấy Tài là kỳ, trong cục được gặp Tài Quan, thì là cát vậy. Như thấy Tỉ kiên không sợ, tranh Quan Kiếp tài, thì không có toàn mỹ.

descriptionQuyển 11 - Khí tượng  EmptyRe: Quyển 11 - Khí tượng

more_horiz
Âm dương vốn có cương nhu, can chi sao không có đảo nghịch.
Dương cương Âm nhu, là đạo trời đất vậy. Đảo nghịch, tức là phản phúc vậy. Cho nên mở đầu ở bên dưới.

Tuy xuất giá vợ không biết chồng.
Vợ chồng đã nhập cung, sao không có biết, nhưng tình ngăn cách mà không thông, thì không thấy chồng vậy. Như Ất mộc dụng Canh kim làm chồng, trung gian có Bính hỏa ngăn cách, Canh bị hỏa tổn thương. Hoặc tọa Tý Ngọ đất bại tử, khiến vợ cuối cùng không thể thấy chồng vậy.

Bản có Tử không chiếu cố đến Mẫu.
Tử chiếu cố Mẫu, là lý, là tình vậy. Thân có chỗ trói buộc, thì cuối cùng không có nuôi dưỡng. Như Giáp dụng Bính là Tử, lại bị Tân kim hợp. Nhưng lưu luyến tình vợ, mà xem nhẹ yêu Mẫu vậy. Cho nên trong cục tuy có Bính hỏa, mà không thể dụng vậy. Phàm trong mệnh nghị luận đến đây, để mà không sai lầm.

Phụ không có Tử mà không đơn độc, Tử có Phụ trái lại là cô.
Mộc lấy hỏa là Tử tức, trong tứ trụ nếu không có vị trí Bính Đinh Tị Ngọ, thì không có con vậy. Nếu địa chi ám giữ có hỏa, hoặc thiên can chế hóa đắc dụng, cũng không phải là không có con. Mộc lấy thủy là phụ mẫu, nếu bị tổn khắc, thì không được chỗ ngồi. Như ngày Giáp Ất sinh ở năm Hợi Tý, gặp tháng tứ quý, thủy bị thổ tổn thương. Chỗ người sinh mất vậy, sao không cô đơn chứ?

Sinh còn có thể tái sinh, Tử thì không thể lại tử.
Vật ở trong cục, vốn là có trường sinh, trước bị khắc tổn. Tuế vận lại gặp đất sinh vượng, thân lực lại cường, giống như tái sinh vậy. Tử là hết vậy, phàm vật ở tứ trụ, vốn là gặp cung tử tuyệt. Sau đó tiếp tục gặp ở đất này, không phải luận càng hung, bởi vì Tử không có 2 lần vậy.

Đã Tử cũng không phải là Quỷ, phùng sinh lại không thành người.
Mộc sinh mùa xuân, đắc thời là vượng, trong trụ tuy gặp cung tử tuyệt; nếu vận hành đất sinh vượng, cũng không phải là đất tử. Mộc sinh mùa thu, thất thời là nhược, trong trụ tuy gặp cung sinh vượng; nếu vận hành đất suy tuyệt, cối cùng không phải là sinh vậy.

Tử đa Mẫu bệnh, như điền phủ điền. Mẫu đa Tử bệnh, như lâm vực sâu.
Tử là chỗ Mẫu sinh, nhiều thì tiết khí Mẫu, đúng như nói Tử có thể khiến Mẫu hư vậy. Nếu Mẫu lại thêm đất suy bệnh, không đủ tinh lực, quyết không thể bảo vệ lấy con, gọi là Điền phủ Điền. Mẫu không có 2 tôn trưởng, là ân ái đầy đủ vậy. Nếu họ Mẹ đông, âm tụ đố sinh, là đầy gian mưu vậy. Tức là Ngũ tinh 2 Mẫu tranh quyền nuông chìu thái quá, Mẫu quên chỗ yêu thương, Tử sao có chỗ dựa? Như còn lâm cung bệnh tử, thay đổi sinh thân, tất là nhận ở phút chốc vậy.

Không chính không xung, không Thiên không hợp, không họa không hình, không trực không phá.
Kỳ Xung, là bắt đầu cực lục kỳ môn. Kỳ Hợp, là bắt đầu dấu vết hình dáng vạn vật. Kỳ Hình, là biến mà thay đổi. Kỳ Phá , là đối địch mà có tổn thương. Là lấy đất hiểm trở sinh vàng bạc, không bằng ruộng xanh giống như báu ngọc. Bốn đầu mối ở trên, chính là tượng khắc chiến vậy, bên trong có dụng Hình Hư Câu Viễn. Nếu trong đó đảo nghịch, mà thủ dụng thần là quý là phúc. Không bằng dụng Tài sinh Quan, dụng Ấn được Sát, tự nhiên mà kỳ diệu. Cho nên chỗ Tử Bình chuyên luận Tài Ấn Thực vậy. Cát thần giúp ta, công cầu giúp cát thần. Phàm nhân mệnh suy nhược, hoặc hình thương phá hại. Không thể thành dụng, tất muốn cát thần phù tá, thành phúc cho ta. Lại xem thần giúp ta, thế lực khinh trọng như thế nào. Nếu như vô căn thất lệnh, hoặc tự thụ thương, trước tiên dụng cầu trợ giúp cát thần như thế nào. Giả như ngày Giáp sinh mùa hạ, gặp hỏa thiêu đốt, được Nhâm Quý Hợi Tý giúp ta là cứu. Nhưng thủy trước tiên bị hỏa thổ khắc hao, không thể làm phúc cho ta. Tất muốn cầu kim, chuyển thủy vượng, khiến cho thủy có chiếu cố tình với ta. Công như vậy, không ở thủy mà ở kim vậy. Lại như Ngọ bị Tý xung, dựa vào Mùi hợp của ta, mà cùng Tý xuyên, thì là thần giúp cho ta. Như Mùi bị thương không thể là dụng, tất cầu thần sinh trợ Mùi thổ có lực, mà Mùi thổ mới được thành dụng.

Hung vật thương thân, dụng vật giải trừ hung tổn.
Trong nhân mệnh, nếu gặp hung thần khắc cung thân của ta. Tất cầu vật nào ở trong trụ, có thể chế hại thần của ta. Thì nó tự giải vết tỳ này hay không, làm sao có thể cùng hại ta? Như Giáp mộc vốn là bị kim thương, chỗ họa khó miễn, được hỏa khắc thì nguy tự đi xa vậy. Lại như Mão bị Dậu xung, trong trụ thấy Ngọ cũng giải được.

Ngũ hành đều được vị trí, quy tụ thành phúc.
Phàm ngũ hành không thể thất vị hư danh, nhưng cần đắc lệnh quy viên, mới có thể là quý. Nếu quy tụ một cục, thì tốt không thể nói.

Một cục đều mất quy viên, thì lưu đãng không nơi nương tựa.
Phàm dụng thần nhật chủ, chỉ cần lạc chỗ. Như trong tứ trụ không được thông căn có nơi nương tựa, lại gặp Không Vong tử tuyệt, mộc dục hình xung. Thì cuối cùng là không có thành lập, tất nhiên là lưu đãng mất chỗ vậy.

descriptionQuyển 11 - Khí tượng  EmptyRe: Quyển 11 - Khí tượng

more_horiz
Đại vận chiết trừ thành tuổi, tiểu vận nghịch thuận theo giờ.
Văn Khố xung mà văn minh thịnh, Vũ khố che đậy mà binh khí an ổn. Tuất là Văn khố, bởi vì hỏa là văn minh. Trong bát tự vốn không có Tài Quan, ấn thụ, Thực thần, Sinh khí, thì cơ bản là không có học vấn văn chương. Người được hỏa khố, lại bị đóng cửa, chỗ này là người không có văn chương. Nếu có ám Thương quan, hoặc Ấn thụ ẩn mà không hiện rõ, cũng chủ thông minh. Trong trụ được chữ Thìn Mùi Sửu, xung hình khố Tuất, lại nhận đường vận đông nam, phát ánh sáng hỏa. Văn chương tất từ chỗ này mà thịnh vậy, đạt cao nơi Hàn Uyển, tôi đã thấy nhiều rồi vậy. Sửu là Vũ Khố, bởi vì kim là vũ khí. Trong bát tự nếu như mang khí mùa thu, Thân Dậu Canh Tân là Sát, Thiên Quan Dương Nhận, lại thấy đồng cung, người này chẳng sợ hiếu chiến vậy. Trong trụ gặp Tý Tị Dậu thần hợp cục, kiêm hành Đông Nam mộc hỏa, chế kỳ kim ngu. Thì che dấu kỳ Vũ khố, vũ khí sẽ không được dùng mà yên ổn vậy. Tráng sĩ ở đây, sẽ vứt bỏ mũ giáp mà an nhàn, tôi vẫn thường thấy điều này.

Rồng bay xa trời, theo mây mà vào biển sâu.
Rồng ẩn ở trong đáy biểu sâu, theo mây bay lên trời. Rồng là Thìn vậy, Thiên môn là Hợi vậy, Mây là Nhâm vậy, Rồng gặp mây mà bay. Nếu can năm thấy Hợi, tháng thấy Thìn, can đầu năm tháng có Nhâm, thì Rồng ở trên trời vậy. Nếu ngày giờ thủy vượng, cùng Thìn hội cục, Rồng tất là theo mây mà nhập vào biển sâu. Bởi vì Rồng lấy thủy là nhà, cho nên ở trên tách rời xa trời, ở dưới ẩn ở trong thủy. Được tượng này, văn chương cái thế, cả đời thôg suốt. Công danh tuy xuất ra ở Đài các, sự nghiệp cuối cùng quay về ở ẩn. Trong trụ có 2 chữ Tị Ngọ, là mệnh bần bạc hạ lưu vậy. Nếu năm thấy Hợi, giờ thấy Thìn, ngày tháng hội thủy, thì Rồng xuống ẩn dưới biển sâu. Nếu can chi có hình xung khắc phá, Rổng không thể yên ổn. Cần ở trên ngày giờ có chữ Nhâm, tất là Rồng theo mây mà bay lên trời vậy. Tượng này nếu như năm không có Hợi, dụng Tị lại xung cũng cát, nhưng xuất thân hàn tiện, không có nương tựa tổ phụ. Sau này tất có người phụ tá lực, phấn phát công danh, chủ đảm nhận việc kề cận vua. Vận hành Kỷ Dậu đất bại tuyệt, là tang gia bãi chức, tức là Nhâm kỵ Long Bối cách.

Đại Lâm Long xuất gặp Thiên Hà, tứ khố thổ toàn cư Cửu Ngũ.
Đại Lâm Long, tức là Mậu Thìn vậy. Yêu cầu trong tứ trụ, nạp âm được Thiên Hà Thủy, thì Rồng mới bay lên trời. Thêm hoàn toàn tứ khố thì bốn bể đều có đủ, cho nên mưa biểnđược tất cả thiên hạ, tất là đấng đại nhân hàng Cửu ngũ vậy.
Mệnh Minh Thái Tổ: Mậu Thìn, Nhâm Tuất, Đinh Sửu, Đinh Mùi, chỗ này cũng có nguyên nhân mà nói.

Trường Lưu Long phục quy Đại Hải, Ngũ hồ thủy tụ theo bầy dân.
Trường Lưu Long, tức là Nhâm Thìn vậy. Long gặp Trường lưu, địa chi được Hợi, danh viết là Long quy Đại Hải, lại viết là Long vượt Thiên Môn. Diệu là ở nạp âm được Đại Hải thủy, tứ trụ đều mang thủy, thì thuỷ ở ngũ hồ, mà còn được bề sâu, chỗ Rồng rất thích, phải có Canh Tân để sinh, thì xuất nhập giao động, nói sao, không phải là tượng quý sao? Như mệnh Vương Dương Minh: Nhâm Thìn, Tân Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, cũng vì mệnh này mà lập luận.

Lục hợp có công, quyền tôn lục bộ.

Phàm trong tứ trụ có tượng hình xung khắc hại phá, vốn là luận hung. Được thần dắt hợp có lực, trái lại là cát, phúc cao xa. Năm tháng dụng thành đại quý, ngày giờ dụng thành là thứ.

Tam hình đắc dụng, uy trấn tam biên.
Hình vốn là không cát, đắc dụng thì phú quý thông minh, vô dụng thì cô bần hung yều. Sao nói là đắc dụng, là tam hình có khí, nhật chủ cương cường, còn vô dụng thì trái lại.

Tý Ngọ là Đoan Môn, Song củng Kỳ Nghi dựa vào Ngoại Chính.

Hai vị Tý Ngọ, Chính mà không Thiên, cho nên viết là Đoan Môn. Nếu được kẹp củng không có phá tổn, lại có lực lượng, người tất thông minh, phấn lập huân nghiệp. Chính Củng, như Hợi Sửu củng Tý, Tị Mùi củng Ngọ. Ngoại Củng, như Thân Thìn củng Tý, Tuất Dần củng Ngọ. Kỵ Không Vong khắc phá là hại.

Tị Dần là sinh địa, thập phần tú khí hợp Càn Khôn.
Tị Dần sinh có lực, có thể hợp Hợi Thân. Hợi là Càn vậy, Thân là Khôn vậy, nếu không có xung tạp, Thân Hợi chính là nhận quý khí, tài hoa xuất chúng.

descriptionQuyển 11 - Khí tượng  EmptyRe: Quyển 11 - Khí tượng

more_horiz
Thiên Địa bao tàng thần đắc dụng, trong tâm lộ rõ.
Hợi là Thiên, Thân là Địa, lộ ra có lực lượng. Như trong bát tự không thấy 2 chữ, trái phải được thần, củng khởi 2 chữ. Kiêm có quý khí, không lạc Không Vong, cần nên lộ rõ. Hoặc lấy Thân Hợi bao Dậu Tuất, xem thiên can thuộc vật nào, lấy hữu dụng là quý.

Phong Lôi kích liệt quý vô khuy, tính danh bay cao.
Tị là Phong môn, Mão là Lôi môn. Trong bát tự hư củng một vị, lại có quý nhân. Tuế vận nếu khởi phùng xung, tất có thể phát đạt.

Tặc địa thành gia, tặc loạn gia vong thân tất tang.
Phép này lấy chi tháng là ngũ âm vậy. Trong năm ngày có thần tranh hợp là Thê, chi tháng chìm đắm ở trong đó. Muốn ra mà không thể được, viết là Tặc địa. Lại gặp thần ở năm và ngày, tự hình, không có rảnh mà đi hợp ta. Được chi giờ thừa cơ, cùng chi tháng là hợp. Gọi là Tặc địa thành gia, phú quý không ít. Đại vận khử Tặc thì yên, lại thấy Tặc loạn thì hung.

Xà nhà liền chặt, mộc đa kim khuyết dụng khó thành.
Mộc vốn dựa vào kim đốn chặt để thành khí, nếu kim bị thần lưu hợp, không thể đến khắc mộc. Lại phải cần mộc cùng kim kề cận, thì nó có thể điêu khắc vậy. Nếu mộc thịnh kim suy, thì thì là tựu kim, cũng không thể chặt mà thành vật hữu dụng. Giả sử dụng mộc, cùng kim tác hợp, hai bên đều lưỡng cường, là lấy quý luận.

Thuần Dương là Địa Hộ bao Âm, binh quyền hiển hách.
Bát tự thuần Dương, vốn là thiên đảng. Đặc biệt Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất là dương, ám củng Sửu Mão Tị Hợi Mùi Dậu là âm. Hai tượng giao cảm cứu trợ nhau, thì trái lại là chính khí của tất cả trời đất vậy. Lại phải cần tứ trụ không có Không Vong, cùng thiên can có sinh ý là cực tốt. Tượng quyền này thi hành trấn giữ ở biên cương, địa vị đến Công Hầu, phát phúc không nhỏ.

Độc Hổ Thiên môn mang mộc, Đài các thanh cao.
Phàm năm tháng được một vị Dần, lại cần có giờ thấy Thiên Môn, Hổ tất hướng Thiên gọi Nhật. Trong trụ lại có Mão Mùi hợp cục, mộc thịnh sinh phong, phong đi theo Hổ, sao không vĩ đại ư? Nếu khiến cho hình xung khắc phá, không được Ấn thụ tài quan, thì vô dụng vậy. Học Đường phùng Dịch Mã, thì văn chương cao như Bắc đẩu. Thân tọa vị trí Trường Sinh gọi là Học Đường, lại được Dịch Mã giao trì, một xung một hợp. Lại được khí tượng cao lớn, mang Tài Sát Quý nhân là tối quý, văn chương tự nhiên xuất trần.

Nhật chủ tọa Hàm Trì, giang hồ hoa tửu.
Hàm Trì còn có danh là Đào Hoa Sát. Nam nữ gặp, tất nhiên dâm loạn, đa số người là tửu sắc, lưu lạc giang hồ. Nếu thấy Tài Quan Quý Đức đồng cung, lại được phẩm cách thanh kỳ, an hưởng phú quý. Đại kỵ hình hợp, chỉ hỉ Không Vong.

Phúc đầy nên phòng có họa, hung nhiều vị tất không có cát.
Đại để dụng Ấn sinh thân, chính là phúc của ta vậy. Trong trụ vốn có Quan Sát, chuyển sinh Ấn vượng, không gặp Tài Thương Thực thần tiết khí là quý. Vận hành Tỉ Ấn vượng địa sinh phù thái quá, xứ phúc quá đầy sao không khởi sinh hoạ? Quân tử xứ cực thịnh vậy. Trong cục vốn có nhiều Quan Sát, tuế vận lại hành Quan Sát, là rất hung, liên tiếp gạp gian hiểm. Về sau tất có vận chế phục thân vượng, là tượng Phủ cực Thái lai. Như ngày Giáp bị chỗ Quan Sát vây khốn, vận thần lại hành Thân Dậu, là rất hung vậy. Thuận đi có vận Hợi Tý Ấn, nghịch hành có vận Tị Ngọ chế, là có vật cứu, sao mà không tốt ư? Chỗ này nói âm dương tiêu trưởng, họa phúc ẩn phục, thiên đạo nhân sự, là lưu thông, nên nhìn cho kĩ.

Mã đầu đeo tiễn, sinh ở Tần mà chết ở Sở.
Sau Mã mang roi, hướng ở Hồ Bắc mà mộ ở Hồ Nam. Chỗ này nói Dịch Mã ở dưới ngày giờ, tất phải mang hợp. Gọi là Liền dây cương, tụ tài phúc lớn, trợ lý hơn người. Nếu trước Mã thấy có hình xung, gọi là Đeo tiễn, tượng đứt dây cương vậy. Nếu đến xung thuộc loại kim, thụ khắc thuộc loại mộc, thì họa càng nặng, chủ người tha hương mất mạng. Phàm thủ dụng Dịch Mã, thuận thì năm lấy ngày giờ, nghịch thì giờ dụng nhật chủ. Mã không có rào chuồng, thì bất chấp mọi thứ mà làm càng giữ không được. Như sau lại thêm có hình xung, Mã tất lao nhanh. Cuối cùng không có nơi yên ổn, chủ cả đời lao khổ, bôn ba khắp nơi. Nếu thần hình xung, có gặp tam hợp lục hợp, thì không lấy thêm roi mà luận vậy. Tính linh Hình ngủ, phần nhiều là lý trọc lưu thanh.

Tướng đẹp tâm ngu, cái thị thanh trung hàm trọc.
Phàm thủ dụng thần, hình xung thác loạn. Chưa có thể liền nói trọc mà vô dụng, nên suy xét kĩ trong đó có vật ám tàng. Như trong trọc xuất ra một điểm cô thanh, thì người tuy là chất phác, phần nhiều tính tình thông minh, cơ mưu khác thường. Nếu dụng thần thanh kỳ đặc biệt xác lập, không phải là hỗn tạp hình thương, chưa có thể nói là thanh vậy. Nếu trung gian có vật ám tàng, cũng chỗ vật sử dụng có tổn thương, thì cuối cùng bệnh chung không thể hết. Cho nên tướng người tuy đẹp, tất nhiên thất học mà vô thành, hôn mê tửu sắc.

Một tướng gác cửa quan, quần tà tự phục.
Tướng, là thần quý trọng vậy. Quan, là nơi khẩn yếu vậy. Tà, là vật ghét ta vậy. Giả như ngày Giáp Ất sinh ở năm tháng kim vượng, đều đến khắc ta. Được Bính thấu ra trên tháng, chế Sát thành quyền, mà Sát tự phục vậy. Lại như Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ, chi thổ loạn khắc, thân không thể đối địch. Xứ Khẩn yếu, lại cần có Canh Tân là Ấn hóa Sát, không dám làm loạn.

Chúng hung khắc chủ, độc lực khó thắng.
Chỗ này nói Sát trọng Thân khinh, cô độc không có trợ giúp. Bởi vì không có thần gác cửa có thể cứu, thì không thể thắng chỗ khắc vậy, quyết là yểu tật.

descriptionQuyển 11 - Khí tượng  EmptyRe: Quyển 11 - Khí tượng

more_horiz
Thoát chỗ bối nghịch, kỵ thấy chỗ bối nghịch, hóa thần này, hỉ thấy thần này.
Kỳ diệu của Tòng hóa, không thể vội vàng cùng tận, ắt phải dụng tâm suy xét. Như Giáp Kỷ hóa thổ, thoát khí mộc mà theo nhà vợ. Nếu thấy Giáp Ất Dần Mão Mùi Hợi, đều là Tỉ kiên của ta. Thì có dựa vào gốc vượng, sao không lưu luyến chứ? Huống chi Tỉ Nhận lại có thể tranh hợp Tài của ta, khiến cho Giáp Kỷ không thể lấy thành, lại có oán hận ly gián vậy. Lại như Ất Canh hóa kim, hỉ thấy kim vượng, mà vợ nương tựa được chồng. Đinh Nhâm hóa mộc, hỉ thấy mộc vượng, là hai nữ được dựa vào mẹ. Bính Tân hóa thủy, hỉ thấy thủy vượng, mà Mẫu được dựa vào Tử. Mậu Quý hóa hỏa, hỉ thấy hỏa vượng, mà chủ được dựa vào Tài. Rất sợ thấy Không Vong thấy Sát, Tỉ kiên tranh đố. Không thành danh quan lớn công chức, thì là cô nhi khác họ vậy.

Dịch Mã không có dây cương, làm khách nam bắc đông tây.
Không có dây cương, là Mã không có hợp vậy. Nam bắc đông tây, là không có chỗ nào là không đến vậy. Như nhân mệnh gặp chỗ này, tất chủ phiêu linh.

Đào Hoa đái Sát, làm ca kĩ níu kéo quan lại.
Là Đào Hoa thấy ở trên ngày giờ vậy. Không chỉ kỵ hình hợp hữu tình, càng kỵ Ngũ Sát đồng xứ. Phàm gặp chỗ này, không dạy dỗ nhận lễ nghĩa liêm sỉ không có vậy.

Mẫu Tử có nương tựa nhau thủy chung, phu thê phải gắn bó sinh tử.
Mẫu Tử Phu Thê, là chuyên nói 2 đầu mối Thể Dụng, duy chỉ có ở ngày tháng là trọng yếu. Giả như ngày Mậu tọa Thìn, sinh ở tháng Thân. Nhưng thổ lấy kim là Tử, kim dưỡng ở Thìn, ít dựa vào Mẫu mà tự cường. Thổ sinh ở Thân, già được con mà có chỗ dựa. Tượng này rất hiếm, đại kỵ tuế vận phá mà thành họa. Giả như ngày Bính tọa tháng Tý, dụng Dậu kim. Nhưng hỏa lấy kim là vợ, Tân kim sinh ở Tý, thích hợp nhà chồng để dưỡng thân. Hỏa đến Dậu vong, dựa vào thê tài để mệnh sống. Tượng này quý dụng Tài Quan, rất sợ hình xung tán cục.

Đôi mắt không có đồng tử, hỏa thổ nấu khô Quý thủy.
Quý thủy ở con người thuộc thận, là nền tảng toàn thân, gốc của đôi mắt. Mắt là cửa quan ngũ hành, chỉ riêng đồng tử thuộc thủy, thủy khô thận hư, thì đồng tử không có chỗ dựa. Nếu nhật can sinh ở tháng hỏa thổ, ngày giờ tọa thổ là gốc. Mà trong trụ gặp mộc hỏa nấu khô tổn hao, không thành tòng hóa, đa số mắc bệnh đôi mắt. Nếu ở trong năm tháng giờ, tuy được khí mùa thu. Không hành đại vận tây bắc, gặp mộc hỏa đất quá nóng, e rằng có khổ mất sáng. Tức là thủy hơi được thông căn, cũng có tật đôi mắt.

Đại tràng có bệnh, Bính Đinh khắc tổn Canh kim.
Canh thuộc đại tràng, cần gặp thủy thổ, sợ Bính Đinh Dần Mão đắc cục không có chế. Canh kim tuy được nối căn, lại bị hình xung khắc phá, kiêm nhập đại vận mộc hỏa. Thủy thổ ở xứ suy, liền có tật này.

Thổ hành thấp địa mà đổ căn, Bá Ngưu có oán hận. Hỏa gặp trời viêm nóng mà được cục, Nhan Tử không lo.
Mậu thổ thuộc tỳ, trong tứ trụ không có thông căn vị trí sinh vượng. Sinh gặp giờ ẩm thấp, lại thêm thủy ngâm xứ thổ. Vận hành đất ẩm thấp, can tuế thổ khắc, thì tỳ thổ thụ thương, vì vậy có tật. Hỏa là tượng văn minh, sinh ở mùa hạ, tam hợp Dần Ngọ Tuất cục, hỏa càng phát sáng. Làm phiền dùng một phần mộc giúp, không cần thấy thủy thông căn, gặp ngọn lửa hỏa. Người sinh gặp chỗ này, vui vẻ không lo. Hỏa hành xứ cực, gặp nhiều mộc sinh, lại chủ yểu bần, rất là bất lợi vậy.

Thủy phiếm mộc phù, chết không quan tài. Hỏa viêm thổ táo, sinh nhận cô đơn.
Mộc theo thủy chảy tràn lan, không gặp vận thổ làm đê ngăn, lại gặp đất tử tuyệt. Phùng xung cùng Sát, tất định rơi núi rơi thủy, hoành hại độc vong, đa số không tốt. Thổ do hỏa táo, vạn vật không sinh, đầu vận nam hành, phế mà vô dụng. Đến sau tuy gặp Tài Quan, không thể làm dụng. Dẫn đến bôn tẩu cô bần, mệnh không nhà vậy.

Thê đa lực nhược, sinh nhai hoa phấn. Mã nhược Tỉ nhiều, hình hài phiêu bạc.
Phàm dụng Tài là vợ, tối yếu là phải đắc thời đắc vị, nhật chủ lại hỉ thân cường. Năm tháng có chỗ dựa, âm dương đều được chỗ, cũng biết là phối tốt. Nếu Tài đa tán loạn, hình hợp không đồng đều, nhật chủ cô nhược, không thể đảm dụng. Tất nhờ vợ hưởng lợi để dưỡng thân vậy. Chỗ này thì lại nói ngược lại là Tài khinh Tỉ nhiều, là vật dưỡng thân, dụng không thể không có. Phàm gặp Tài vượng thân cường, cả đời an vui. Thấy Tài khinh Tỉ nhiều là không đủ sử dụng, cuối cùng tất phiêu bạc giang hồ, đuổi theo tài mà lao khổ, sao mà an hưởng chứ? Phàm gặp hung thần giao hội, lấy thiện ít mà khó thành. Cát tinh cùng lâm, ác tuy nhiều mà cũng hóa. Đạo từ ngộ lý, thần nhập tâm sinh, khổ cầu học thuộc, mà được lớn hay bé vậy.

descriptionQuyển 11 - Khí tượng  EmptyRe: Quyển 11 - Khí tượng

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết