KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyQuyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Quyển 1 - Ngũ hành, can chi, nạp âm, lục thập hoa giáp

   Luận Ngũ hành Sinh Thành

   Trời cao mênh mông, lục khí quay quanh đủ một vòng để thành bốn mùa; đất sâu âm u, ngũ hành hóa sinh để thành vạn vật. Có thể nói là vô cùng tận mà khó đoán vậy. Thánh nhân lập pháp để suy lối đi, không thể tránh khỏi số. Căn cứ xem lập số, đều cũng xuất phát từ tự nhiên. Cho nên ghi ở kinh điển, giống mà khác nhau, suy tính để đạt huyền cơ, cùng để biến thông, đều không rời khỏi con số bên trong. 1 viết Thủy, 2 viết Hỏa, 3 viết Mộc, 4 viết Kim, 5 viết Thổ, đều có chỗ tự nhiên. Thủy, Tý ở Bắc phương vậy, Tý, 1 là dương, là số dương vậy, cho nên Thủy viết là Nhất; Hỏa, Ngọ ở Nam phương vậy, Ngọ, 2 là âm , là số âm vậy, cho nên hỏa viết là Nhị; mộc ở Đông phương, Đông, là dương vậy, là 3, là số lẻ, cũng là dương vậy, cho nên mộc viết là Tam; kim ở Tây phương, Tây, là âm vậy, 4 là số chẵn, cũng là âm vậy, cho nên kim viết là Tứ; thổ ứng Tây Nam cuối mùa Hạ, là số 5, là số lẻ, cũng là số dương vậy, cho nên thổ viết là Ngũ. Bởi thế nói, số là lấy âm dương mà phối vậy. Nếu khảo sát nghĩa sâu, thì thủy sinh ở 1. Trời đất chưa phân chia, lúc ban đầu chưa thành vạn vật, chớ không phải thấy ở thủy trước, cho nên 《 Linh Xu kinh 》 viết: "Thái Nhất, tôn danh là Thủy. Tiên Thiên là mẹ của địa, là nguồn gốc tiếp nối sinh ra vạn vật". Để chứng nghiệm hiện tại, phôi quả hạt chưa thành cây cỏ, động vật có chân giống con người, thai noãn, thai phôi đều là thủy vậy, sao không lấy là số Nhất? Cùng tụ ở thủy mà hóa thành hình thể, chớ nói không bị khí âm dương ở trong mà sau đó mới thành. Cho nên vật nhỏ bé mà vị đắng, tượng là hỏa vậy; vật thành thục thì ngọt, là thổ vậy. Quá ngọt thì thành nhạt, nhạt, là gốc vậy. Nhưng mà con người nhận khí âm dương của cha mẹ mà hóa sinh thành, cho nên đầu tiên sinh hai quả thận, thận trái thuộc thủy, thận phải thuộc hỏa. Hỏa viết là Mệnh Môn, chính là hỏa dựa vào thủy mà thấy sau. Cho nên viết là thứ 2. Tượng quả hạt cây cỏ, lớn nhỏ tuy có khác, trong đó cả hai đều có lấy hợp nhau lại, cũng giống như thận con người, cũng có dấu hiệu âm dương. Là lấy vạn vật không phải âm dương hợp thể thì không thể hóa sinh vậy. Đã là âm dương hợp thể, rồi mới đến Xuân sinh mà Thu thành, cho nên thứ 3 viết là mộc, thứ 4 viết là kim. Tượng thủy có chỗ nối liền, hỏa có chỗ ẩn tàng, mộc có chỗ phát sinh, kim có chỗ ly biệt, chớ không phải tất cả đều dựa vào thổ mà sau mới thành vậy. Cho nên kim mộc thủy hỏa đều chờ thổ mà mới sau. Bao gồm số của thổ, lấy 5 định sẵn, thì thủy là 6, hỏa 7, mộc 8, kim 9; thổ thường lấy 5 là số sinh không thể đến 10, thổ không đợi 10 để thành, là số sinh thành đều lấy 5 để hợp lại. Hiểu số Đại Diễn, thuận theo để lập, thì vạn vật sao có thể thoát ra khỏi con số chăng?

  Luận Ngũ hành Sinh Khắc

   Ngũ hành tương sinh tương khắc, lý là tự nhiên. Thập can thập nhị chi, lục khí ngũ vận, năm tháng ngày giờ đều lập từ chỗ này, lại lấy làm dụng, ở trời thì là khí: Hàn, Thử, Táo, Thấp, Phong; ở đất thì thành hình: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Hình khí tương cảm mà hóa sinh vạn vật, chỗ này là nhớ kỹ tạo hóa sinh thành vậy. Nguyên kỳ diệu dụng, có thể nói là vô cùng tận vậy.
   Mộc chủ ở phía đông, ứng mùa xuân. Mộc nói là Xúc vậy, dương khí xúc động, tỏa ra đất mà sinh vậy. Thủy chảy xu về phía đông để sinh mộc vậy; mộc phát ở trên mà che ở dưới, chính là Chất tự nhiên vậy.
   Hỏa chủ ở phía nam, ứng ở mùa hạ. Hỏa nói là Hóa vậy, là hủy vậy, dương ở trên, âm ở dưới; hủy nhưng mà thịnh mà biến hóa vạn vật vậy. Khoan mộc lấy hỏa, chỗ mộc sinh vậy. Nhưng hỏa không có chính thể, là bản thể là mộc vậy. Xuất lấy ứng vật, hết mà lại nhập, chính là Khí tự nhiên vậy.
   Kim chủ ở hướng tây, ứng là mùa thu. Kim nói là Cấm vậy, âm khí mới cấm đoán vạn vật mà thu lại, đãi cát tìm vàng, là chỗ thổ sinh vậy. Sinh ở thổ mà tách ra ở thổ, chính là Hình thể tự nhiên vậy.
   Thủy chủ ở phía bắc, ứng với mùa đông. Thủy nói là Nhuận vậy. Âm khí nhu nhuận, đảm nhận nuôi dưỡng vạn vật vậy. Thủy ở phía tây và đông, chỗ kim sinh vậy. Thủy chảy quanh co, thuận xuống mà thông, chính là Tính chất tự nhiên vậy.
   Thổ chủ ở trung ương, kiêm vị trí tây nam, ứng ở sinh trưởng mùa hạ. Thổ nói là Thổ vậy, hàm chứa thổ của vạn vật, tương sinh là xuất, tương tử là quy, là nhà của vạn vật. Cho nên sinh trưởng ở cuối mùa hạ, chỗ hỏa sinh vậy. Thổ hoặc là gánh nhận thủy, thủy chính là ngược với thổ, nghĩa tự nhiên vậy.
   Ngũ hành tương khắc, Tử đều là có Mẫu, là phục thù vậy. Mộc khắc thổ, thổ tử kim lại khắc mộc; kim khắc mộc, mộc tử hỏa lại khắc kim; hỏa khắc kim, kim tử thủy lại khắc hỏa; thủy khắc hỏa, hỏa tử thổ lại khắc thủy; thổ khắc thủy, thủy tử mộc lại khắc thổ. Có thể tương sinh với nhau, chính là thủy vậy; có thể tương khắc nhau, chính là cuối cùng vậy. Tính chất đều xuất phát ở trời vậy. 《 Tố Vấn 》 chỗ nói thủy sinh mộc, mộc lại sinh hỏa, là mộc bị cướp khí, cho nên thủy phẫn nộ mà khắc hỏa. Tức là Tử gặp cướp khí, Mẫu là tranh lực, cùng Mẫu bị Quỷ hại, lực Tử đến cứu, nghĩa là một vậy. Cường có thể tấn công nhược, thổ được mộc mà thông; thực có thể thắng hư, thủy được thổ mà tuyệt; âm có thể làm tiêu dương, hỏa được thủy mà diệt; mãnh liệt có thể địch cương, kim được hỏa mà khuyết; cứng có thể nhu, mộc được kim mà chặt. Cho nên ngũ hành lưu mà càng chuyển, thuận thì tương sinh, nghịch thì tương khắc, như vậy là từng cái đều có dụng, lấy thành đạo mà thôi.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Luận Can Chi nguyên lưu
( Nguồn gốc Can Chi)

Nói về Can giống như thân cây, cường mà thành dương; Chi giống như cành cây, nhược mà thành âm. Xưa để lại đạo trời đất là rất rõ ràng, biểu đạt âm dương thành Tam Tài. Đứng đầu là vua sau khi trời đất đã phân chia, trước có trời mà sau có đất, thuận theo sự hóa khí mà con người sinh ra ở chỗ này, cho nên Thiên Hoàng là một họ mà có đủ 3 người, tiếp theo là họ Bàn Cổ lấy để cai trị, viết là Thiên linh đạm bạc, Vô vi mà người phàm tục tự cảm hóa, mới quy định tên là Can Chi, định lấy chỗ năm.
+ Thập Can viết: Vu phùng, Chiên mông, Nhu triệu, Cương ngữ, Trứ ung, Đồ duy, Thượng chương, Trọng quang, Huyền, Chiêu dương;
+ Thập nhị Chi viết: Khốn đôn, Xích phấn nhược, Nhiếp đề cách, Đơn vu, Chấp từ, Đại hoang lạc, Đôn dương, Hiệp hiệp, Than, Tác ngạc, Yêm mậu, Đại uyên hiến.
Thái Ung độc đoán viết: "Can, là thân vậy. Tên thì có 10, cũng viết là Thập Mẫu, tức là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý hiện nay vậy; Chi, là cành nhánh vậy. tên thì có 12, cũng viết là Thập nhị Tử, tức là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi ngày nay vậy". Xưng là họ Thiên Hoàng, nghĩa là lấy trời mở ra ở Tý vậy; Xưng là họ Địa Hoàng, nghĩa là lấy Đất bắt đầu ở Sửu vậy; Xưng là họ Nhân Hoàng, nghĩa là lấy Người sinh ra ở Dần vậy.
Cho nên tên Can Chi là do lúc Thiên Hoàng bắt đầu quy định, còn họ Địa Hoàng thì định là Tam Thần, đạo phân ra ngày đêm, lấy 30 ngày là một tháng, mà chỗ tất cả can chi mới bắt đầu phối. Họ Nhân Hoàng, chủ làm Vua Bất Hư, Thần là quý bất hư, khởi đầu chính là từ chỗ giáo dục quân thần, từ chỗ bắt đầu nam nữ ẩm thực, bắt đầu được khí trời đất mà có phân chia Mẫu Tử, vì vậy chỗ này mới thuộc có Can Chi. Về phần Phục Hi ngửa mặt xem tượng ở trời, cúi nhìn làm theo lễ pháp ở đất, ở giữa nhìn vạn vật và con người, lấy Đức mới họa Bát Quái mà thông thần minh, lấy Tình mà phân loại vạn vật, nhằm làm Giáp lịch và chữ nghĩa sinh ra chỗ này. Trao Hà Đồ đến cho Hoàng Đế, trông thấy tượng Nhật Nguyệt Tinh Thần, vì vậy mới có sách xem Tinh sao. Mệnh Đại Nghiêu tìm tình Ngũ hành, mới thấy chỗ xem Chiêm Đẩu, vì vậy mới lấy Giáp Tý phối thuộc ngũ hành nạp âm.

Tổng luận Nạp âm

Thường xem 《 Bút Đàm 》 luận nạp âm Lục Thập Giáp Tý, vốn có 60 luật, xoay vòng thành một cung, làm tiên chuẩn vậy. Phép nạp âm và nạp giáp trong 《 Dịch 》là giống nhau: Càn nạp Giáp, Khôn nạp Quý, bắt đầu ở Càn và cuối cùng ở Khôn.
Nạp âm bắt đầu ở kim, Kim là Càn vậy, cuối cùng ở thổ, Thổ là Khôn vậy. Trong ngũ hành, duy chỉ có kim đúc mà thành khí, là âm thanh rõ ràng, cho nên nạp âm đầu tiên là kim.
Phép nạp âm, giống như cưới vợ, cách 8 ngôi là sinh tử, là phép Luật Lữ tương sinh vậy. Giáp Tý, là Trọng kim, đồng vị cưới Ất Sửu, cách 8 ngôi Hạ sinh Nhâm Thân; Mạnh kim là Nhâm Thân, đồng vị cưới Quý Dậu, cách 8 ngôi Thượng sinh Canh Thìn; Quý kim Canh Thìn, đồng vị cưới Tân Tị, cách 8 ngôi Hạ sinh Mậu Tý. Mậu Tý là Trọng hoả, cưới Kỷ Sửu, sinh Bính Thân; Bính Thân là Mạnh hoả, cưới Đinh Dậu, sinh Giáp Thìn; Giáp Thìn là Quý hoả, cưới Ất Tị, sinh Nhâm Tý. Như vậy Trọng mộc đi từ bên trái, đến ở Đinh Tị, gặp đúng cung Lữ. Cuối cùng số một Ngũ âm, lại từ Giáp Ngọ là Trọng kim, cưới Ất Mùi, cách 8 sinh Nhâm Dần, phương pháp giống như Giáp Tý, cuối cùng ở Quý Hợi.
( Ghi chú: Mạnh là tháng đầu mùa, Trọng là tháng giữa mùa, Quý là tháng cuối mùa)
Từ Tý đến Tị là dương, cho nên từ Hoàng Chung đến Trọng Lữ đều là Hạ sinh; từ Ngọ đến Hợi là âm, cho nên từ Lâm Chung đến Ứng Chung đều là Thượng sinh. Nói Thượng Hạ sinh, là chính vị Thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên. Chỗ số hợp, là từ chỗ biến mà ra vậy. Càn là Thiên, Khôn là Địa, Càn Khôn hợp mà thành Thái; Đức là Phụ, Hồng là Mẫu, Đức Hồng hợp mà thành phía Đông; Can là vua, Chi là thần, can chi hợp mà sinh nạp âm. Cho nên Giáp Ất là vua, Tý Sửu là thần, Tý Sửu Giáp Ất hợp mà thành kim. Bởi vì ngũ hành ở thiên hạ, đều có tính khí, có chỗ tài vật, hoặc cứu nhau hoặc khắc nhau, như thành khí không thành khí, trong vượng nhận tuyệt, trong tuyệt nhận khí, duy chỉ có phối nhau mà lấy là khác nhau thôi. Sở dĩ số kim này khó giống nhau mà lại có khác nhau tên gọi Hải Trung hoặc là Sa Trung.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Luận Nạp âm thủ Tượng

Xưa kia, Hoàng Đế đem Giáp Tý phân ra khinh trọng mà phối thành lục thập, hiệu là Hoa Giáp Tý, chữ Hoa trở thành áo diệu, Thánh nhân mượn ý mà ví dụ, không thể chấp nê ý này. Nói từ Tý đến Hợi là 12 cung, tất cả đều thuộc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Khởi từ ở Tý là Nhất Dương, cuối cùng ở Hợi là Lục Âm, chỗ ngũ hành thuộc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, ở trên trời là Ngũ Tinh, ở dưới đất là Ngũ Nhạc, ở đức là Ngũ Thường, ở người là Ngũ Tạng, ở mệnh cũng là Ngũ Hành. Cho nên chỗ thuộc Giáp Tý chính là ứng ở mệnh, mệnh là một thế sự. Cho nên tượng nạp âm Giáp Tý, là thánh nhân ví dụ, cũng như việc cả đời người vậy. Tại sao lại nói vậy?
Hai vị Tý Sửu, mới thành lập âm dương, người đang ở bào thai, vật đang tàng căn, chưa có ranh giới; hai vị Dần Mão, âm dương dần dần mở ra, con người dần dần sinh trưởng, lấy vật mở ra Giáp, hàng loạt hoa dần tách ra, giống như con người làm việc để lập thân vậy; hai vị Thìn Tị, khí âm dương thịnh, vật đang nở hoa, giống như con người 30, 40 tuổi mà có đất lập thân, mới có tượng tiến thủ; hai vị Ngọ Mùi, lộ ra âm dương rõ ràng, đồng thời vật đã thành, giống như con người đến 50, 60 tuổi, là có thể biết phú quý hay bần tiện, phàm suy ra có thể thấy trăm chuyện hưng suy; hại vị Thân Dậu, lúc âm dương xác xơ tiêu điều, vật đã thu tàng, con người đã rụt cổ lại, tất cả đều yên tĩnh; hai vị Tuất Hợi, âm dương bế tắc, khí vật quy căn, con người đang ngưng nghĩ, đều quay trở về.
Tường thuật chỗ này trước sau là 12 vị, Lục thập Giáp Tý có theo thứ tự mà thông.
Giáp Tý Ất Sửu sao lấy thủ tượng là Hải Trung kim? Bởi vì khí ở lúc bao tàng, có danh là Vô hình, giống như con người còn ở trong bụng mẹ vậy;
Nhâm Dần Quý Mão tuyệt địa tồn kim, khí còn nhu nhược, mỏng tựa như tấm lụa, cho nên viết là Kim Bạc kim;
Canh Thìn Tân Tị lấy kim cư ở đất hỏa thổ, khí đã phát sinh, kim còn ở trong quặng mỏ, gửi hình ở đất sinh dưỡng, nhận chính sắc ở tây phương, cho nên viết là Bạch Chá kim;
Giáp Ngọ Ất Mùi thì khí đã thành, vật chất tự kiên cố, hỗn ở trong cát mà chia tay ở cát, cư ở hỏa mà luyện ở hỏa, viết là Sa Trung kim vậy;
Nhâm Thân Quý Dậu khí thịnh vật cực, lúc thi công thu lại, như lưỡi dao nhọn sắc bén. Bởi vì Thân Dậu kim là chính vị, gặp can Nhâm Quý, kim thủy tôi luyện, cho nên thủ tượng công dụng Kiếm Phong kim cực vậy;
Đến Tuất Hợi thì khí kim phục tàng, hình thể đã tàn, nung luyện làm đồ trang sức, đã thành hình trạng, tàng ở khuê các, là không có chỗ hành động, mà đã hoàn tất công dụng của kim, cho nên viết Canh Tuất Tân Hợi là Thoa Xuyến kim.
Nhâm Tý Quý Sửu sao lấy thủ tượng là Tang Chá mộc? Bởi vì khí cư ở lượn cong, hình dáng không duỗi ra, cư ở thủy địa, mùa dệt tơ tằm, Tang Chá ( cây Dâu tằm) nhận khí, thủ thời kỳ sinh vậy;
Canh Dần Tân Mão là khí đã đón dương, thế lực được vun trồng thành hình trạng vậy, làm sao lại ở dưới kim, phàm kim cùng sương làm kiên cố, mộc ở được thời kỳ vượng, tuế hàn lạnh mà sau điêu tàn, thủ tính kiên cố, cho nên viết là Tùng Bách mộc;
Mậu Thìn Kỷ Tị thì khí không được đo lường, vật đã đúng thời, càng xum xuê tươi tốt, rậm rạp thành rừng, thủ kỳ mộc thịnh vậy, cho nên viết Đại Lâm mộc;
Nhâm Ngọ Quý Mùi, mộc đến Ngọ là tử, đến Mùi là mộ, cho nên Dương Liễu thịnh mùa hạ là khô héo, cành khô yếu ớt, thủ tính nhu mềm vậy, cho nên viết là Dương Liễu mộc;
Canh Thân Tân Dậu, ngũ hành thuộc kim mà nạp âm lại thuộc mộc, thủ lấy tương khắc. Bởi vì tính mộc cay, duy chỉ có Thạch Lựu mộc; khí Thân Dậu quy về yên tĩnh, vật dần dần thành thực, mộc cư ở đất kim, mùi vị thành cay, cho nên viết là Thạch Lựu mộc; Mặt khác mộc đến Ngọ là tử, duy chỉ có mộc này đến Ngọ là vượng, thủ tính thiên lệch vậy.
Mậu Tuất Kỷ Hợi, khí quy về phục tàng, âm dương bế tắc, mộc khí quy căn, phục ở trong thổ, cho nên viết là Bình Địa mộc vậy.
Bính Tý Đinh Sửu sao lấy thủ tượng là Giản Hạ thủy? Bởi vì không thông, đoạn cao không phải chỗ thủy lưu, chỗ đất thấp thì thủy tựu, đi từ trong đất, cho nên viết là Giản Hạ thủy;
Giáp Dần Ất Mão, khí xuất từ dương minh, thế thủy nhờ nguồn, cuồn cuộn rót về phía đông, thế thấm lớn, cho nên viết là Đại Khê thủy;

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Nhâm Thìn Quý Tị, thế cực ở đông nam, khí kề cung Ly, hỏa minh thế thịnh, thủy được quy khố, tràn đầy mà sau tiến, viết là Trường Lưu thủy vậy;
Bính Ngọ Đinh Mùi, khí đang thăng giáng, vị trí hoả ở cao minh, có thủy sung tác mà làm mưa dầm, lấy thuỷ được hỏa giúp, duy chỉ có trên trời mới có, cho nên viết là Thiên Hà thủy;
Giáp Thân Ất Dậu, khí tức an tĩnh, Tử Mẫu đồng vị, xuất mà không cùng tận, cấp mà không khô kiệt, viết là Tỉnh Tuyền thủy;
Nhâm Tuất Quý Hợi, đất Thiên Môn, khí quy về bế tắc, thủy đầy khắp nơi mà không đi nhanh, thế quy về ở vị trí yên tĩnh, đến không cùng tận, nạp mà không tràn đầy, viết là Đại Hải thủy vậy.
Mậu Tý Kỷ Sửu sao lấy thủ tượng là Phích Lịch hỏa? Bởi vì khí ở Nhất Dương, hình cư ở thủy, hoả ở trong thủy, không phải Thần Long thì không có, cho nên viết là Phích Lịch hỏa;
Bính Dần Đinh Mão, khí dần phát sáng, là do củi mà hiện ra, là gặp âm dương, là lò lửa của trời đất, viết là Lư Trung hỏa vậy;
Giáp Thìn Ất Tị, khí hình đất thịnh, thế định đồi cao, truyền sáng đến mờ, Tử Mẫu nhờ nhau, viết là Phúc Đăng hỏa vậy;
Mậu Ngọ Kỷ Mùi, khí qua cung dương, tương hội ở cung Ly, nắm ánh sáng giao linh, phát huy nóng rực, viết là Thiên Thượng hỏa vậy;
Bính Thân Đinh Dậu, khí ngưng hình tàng, thế lực ẩn tàng, quy đầu về cung Đoài, lực bé thể suy, ánh sáng không xa, viết là Sơn Hạ hỏa vậy;
Giáp Tuất Ất Hợi gọi là Sơn Đầu hỏa, là tàng hình ở núi, Đầu là đầu ánh sáng, trong rõ ngoài mờ, ẩn mà không hiện, ánh sáng bay gửi về cung Càn, quy về ở trong nghỉ ngơi, cho nên viết là Sơn Đầu hỏa vậy.
Canh Tý Tân Sửu tại sao thủ tượng là Bích Thượng thổ? Khí cư nơi bế tắc, vật còn bao tàng, yểm hình che thể, trong ngoài không qua lại, cho nên viết là Bích Thượng thổ;
Mậu Dần Kỷ Mão, khí có thể thành vật, lấy công dưỡng vật, phát ở căn, khoẻ ở đài nhị, viết là Thành Đầu thổ vậy;
Bính Thìn Đinh Tị, khí đã đón dương, đã qua phát sinh, đủ thành tựu mai sau, viết là Sa Trung thổ vậy;
Canh Ngọ Tân Mùi, khí lúc nhận hình, vật đã lộ ra rõ ràng, có hình có chất, có vật đã rõ, viết là Lộ Bàng thổ vậy;
Mậu Thân Kỷ Dậu, khí đã ngừng, lúc vật thu tàng, quy về thoái lui nhàn hạ, đẹp mà vô sự, viết là Đại Dịch thổ vậy;
Bính Tuất Đinh Hợi, khí thành khố vật, việc lấy mỹ mãn, âm dương thấy đầy, được thế trong đó, viết là Ốc Thượng thổ vậy.
Tôi thấy Lộ Bàng thổ truyền bá sinh trăm khe cốc, đất Ngọ Mùi, lúc giữa hè trường dưỡng chứ? Đại Dịch thổ thông đạt bốn phương, đất Thân Dậu, lý là được lợi hanh bằng hữu chứ? Thành Đầu thổ thủ công đê phòng, dựa vào ngũ công, lập quốc mà bảo vệ dân vậy; Bích Thượng thổ dụng sức trang hoàng, giúp cho thứ dân, nơi cư viên mà ở vậy; Sa Trung thổ, là thổ tối nhuận vậy, thổ nhuận là sinh, cho nên đủ thành mà mai sau hữu dụng; Ốc Thượng thổ, là thổ thành công vậy, thành công là tĩnh, cho nên chỉ ở nhất định mà không di dời. Bởi vì ở trong ngũ hành, hành lệnh phụ tải, chủ quyền dưỡng dục, ngũ hành Tam Tài đều không thể mất; xứ cao thấp mà đắc vị, cư ở tứ quý mà có công; kim được sắc bén mà hùng mạnh, hỏa được chiếu diệu quang minh, mộc được anh hoa việt tú, thủy được sóng tràn mà không trôi nỗi, thổ được trồng trọt mà càng phong phú. Tụ mà không tán, tất có thể thành núi, núi, là cao vậy; Tán mà không tụ, tất có thể thành đất, đất, là khởi đầu vậy. Dụng mà vô tận, sinh mà không cực, thổ có công dụng lớn quá vậy!
Thủ tượng Ngũ hành, đều lấy đối đãi mà phân âm dương, tức là thủy chung mà rõ biến hóa. Như Giáp Tý Ất Sửu đối với Giáp Ngọ Ất Mùi, là Hải trung Sa trung, biện rõ thủy thổ, phân chia âm dương vậy; Nhâm Dần Quý Mão đối với Nhâm Thân Quý Dậu, là Kim bạc Kiếm phong, biện kim mộc, phân biệt cương nhu vậy; Canh Thìn Tân Tị đối với Canh Tuất Tân Hợi, là Bạch Chá Thoa Xuyến, Càn Tốn đối phương, hình sắc đều tận vậy; Nhâm Tý Quý Sửu đối với Nhâm Ngọ Quý Mùi, là Tang chá Dương liễu, một cong một duỗi, hình chất khác nhiều vậy; Canh Dần Tân Mão đối với Canh Thân Tân Dậu, là Tùng bách Thạch lựu, một cứng một cay, tính mùi khác xa vậy; Mậu Thìn Kỷ Tị đối với Mậu Tuất Kỷ Hợi, là Đại lâm Bình địa, một thịnh một suy, Càn Tốn khác phương vậy; Mậu Tý Kỷ Sửu đối với Mậu Ngọ Kỷ Mùi, là Phích lịch Thiên thượng, như sấm sét múa roi, Nhật Nguyệt cùng chiếu vậy; Bính Dần Đinh Mão đối với Bính Thân Đinh Dậu, là Lư trung Sơn hạ, như hỏa thịnh mộc phần, kim vượng hỏa diệt vậy; Giáp Thìn Ất Tị đối với Giáp Tuất Ất Hợi, là Phúc Đăng Sơn Đầu, chứa ánh sáng sợ gió, bò sáng dừng ở Cấn vậy; Canh Tý Tân Sửu đối với Canh Ngọ Tân Mùi, là Bích thượng Lộ bàng, hình chia tụ tán, giống như sinh tử vậy; Mậu Dần Kỷ Mão đối với Mậu Thân Kỷ Dậu, là Thành đầu Đại dịch, đông nam tây bắc, là chính vị Khôn Cấn vậy; Bính Thìn Đinh Tị đối với Bính Tuất Đinh Hợi, Sa trung Ốc thượng, can ẩm hỗ dụng, biến hóa thủy chung vậy. Xem Viên xem Phương, không ngoài ở Vượng Tướng Tử Hưu; vì gần lấy xa, chớ trốn khỏi kim mộc thủy hỏa thổ. Lấy can chi mà phân phối ngũ hành, luận âm dương mà hiểu rõ Chung Thủy. Thiên thành Nhân lực đều bao gồm, cũng giống như bao gồm sinh vượng tử tuyệt. Ô hô! Lục thập Giáp Tý chẳng qua Thánh nhân mượn Tượng để nói rõ Lý, mà tính tình ngũ hành, tài vật, hình sắc, công dụng không có khúc tận mà tạo hóa hoàn toàn đầy đủ vậy.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Trích lục tính chất cát hung Lục Thập Giáp Tý


Giáp Tý kim - Là báu vật, hỷ đất kim mộc vượng. Hỷ Tiến thần, phúc tinh, bình đầu, huyền châm, phá tự.
Ất Sửu kim - Là mỏ ngu ngoan, hỷ hỏa và ngày giờ Nam phương. Phúc tinh, Hoa Cái, Chính Ấn.
Bính Dần hỏa - Là Lò than, hỷ Đông và mộc. Phúc tinh, Lộc Hình, Bình Đầu, Lung Á.
Đinh Mão hỏa - Là Lò thuốc, hỷ đất Tốn và Thu Đông. Bình Đầu, Tiệt Lộ, Huyền Châm.
Mậu Thìn mộc - Mộc ở núi rừng, vùng núi, là mộc không dùng được, hỷ thủy. Lộc khố, Hoa Cái, thủy khố Lộc Mã, Bổng trượng, Phục thần, Bình Đầu.
Kỷ Tị mộc - Cây cỏ ở đỉnh núi, hỷ xuân và thu. Lộc khố, Bát cát, Khuyết tự, Khúc Cước.
Canh Ngọ thổ - Là đất không bên đường, hỷ thủy và xuân. Phúc tinh, Quan quý, Tiệt Lộ, Bổng trượng, Huyền Châm.
Tân Mùi thổ - Đất chứa hàng vạn báu vật, đợi thu xong, hỷ thu và hỏa. Hoa Cái, Huyền Châm, Phá tự.
Nhâm Thân kim - Giáo kích, đại hỷ Tý Ngọ Mão Dậu. Bình Đầu, Đại Bại, Phương hại, Lung Á, Phá tự, Huyền châm.
Quý Dậu kim - Là kim dùi đục, hỷ mộc và Dần Mão. Phục thần, Phá tự, Lung á.

Giáp Tuất hỏa - Chỗ xứ Hỏa giữ lại, hỷ xuân và hạ. Chính Ấn, Hoa Cái, Bình đầu, Huyền châm, Phá tự, Bổng trượng.
Ất Hợi hỏa - Hỏa khí nhiệt, hỷ thổ và hạ. Thiên đức, Khúc cước.
Bính Tý thủy - Thủy khắp bốn phương, hỷ mộc và thổ. Phúc tinh, Quan quý, Bình đầu, Lung á, Giao thần, Phi Nhận.
Đinh Sửu thủy - Chỗ thủy xanh trong không chảy, hỷ kim và hạ. Hoa Cái, Tiến thần, Bình đầu, Phi Nhận, Khuyết tự.
Mậu Dần thổ - Đất bờ đê tường thành, hỷ mộc và hỏa. Phục thần, Bổng trượng. Lung á.
Kỷ Mão thổ - Phá vỡ đê thành lũy, hỷ Thân Dậu và hỏa. Tiến thần, Đoản yểu, Cửu sửu, Khuyết tự, Khúc cước, Huyền châm.
Canh Thìn kim - Bạch lạp kim, hỷ thu và cây nhỏ. Hoa Cái, Đại Bại, Bổng trượng, Bình đầu.
Tân Tị kim - Kim ẩn dấu, pha tạp cát đá, hỷ hỏa và Thu. Thiên Đức, Phúc tinh, Quan quý, Tiệt lộ, Đại bại, Huyền Châm, Khúc Cước.
Nhâm Ngọ mộc - Đốt cây Dương Liễu khô, hỷ Xuân Hạ. Quan quý, Cửu sửu, Phi Nhận, Bình Đầu, Lung á, Huyền Châm.
Quý Mùi mộc - Rễ cây Dương Liễu, hỷ Đông và thủy, mùa Xuân cũng thích hợp. Chính Ấn, Hoa Cái, Đoản yểu, Phục thần, Phi Nhận, Phá tự.

Giáp Thân thủy - Nước giếng ngọt, hỷ Xuân và Hạ. Phá Lộc Mã, Tiệt lộ, Bình đầu, Phá tự, Huyền châm.
Ất Dậu thủy - Là vũng nước ngầm, hỷ Đông phương và Nam. Phá lộc, Đoản yểu, Cửu sửu, Khúc Cước, Phá tự, Lung á.
Bính Tuất thổ - Đất đồi nhỏ, hỷ Xuân Hạ và thủy. Thiên Đức, Hoa Cái, Bình đầu, Lung á.
Đinh Hợi thổ - Đất đồng bằng, hỷ hỏa và mộc. Thiên Ất, Phúc tinh, Quan quý, Đức hợp, Bình đầu.
Mậu Tý hỏa - Là lửa sấm sét. Hỷ thủy và Xuân Hạ, được thổ và thần linh. Phục thần, Đoản yểu, Cửu sửu, Trượng hình, Phi Nhận.
Kỷ Sửu hỏa - Là điện vậy, hỷ thủy và Xuân Hạ, đắc địa mà mờ tối. Hoa Cái, Đại Bại, Phi Nhận, Khúc Cước, Khuyết tự.
Canh Dần mộc - Đốt cây Tùng Bách khô, hỷ Thu Đông. Phá Lộc Mã, Tương hình, Trượng hình, Lung á.
Tân Mão mộc - Rễ cây Tùng Bách, hỷ thủy thổ và thích hợp mùa Xuân. Phá Lộc, Giao thần, Cửu sửu, Huyền châm.
Nhâm Thìn - thủy Là Rồng ở nước sông, hỷ lửa sấm sát và điện cùng mùa Xuân Hạ. Chính Ấn, Thiên Đức, thủy khố Lộc Mã, Thoái thần, Bình Đầu, Lung á.
Quý Tị thủy - Thủy không dừng chảy vào biển, hỷ Hợi Tý, là biến hóa. Thiên ất, Quan quý, Đức Hợp, Phục Mã, Phá tự, Khúc cước.

Giáp Ngọ kim - Kim được luyện thành tinh chất, hỷ thủy mộc thổ. Tiến thần, Đức Hợp, Bình Đầu, Phá Tự, Huyền Châm.
Ất Mùi kim - Là kim còn lại trong lò than, hỷ hỏa mạnh và thổ. Hoa Cái, Tiệt Lộ, Khúc Cước, Phá Tự.
Bính Thân hỏa - Là lửa đốt cỏ tranh ngoài đồng, hỷ Thu Đông và mộc. Bình Đầu, Lung á, Đại bại, Phá tự, Huyền Châm.
Đinh Dậu hỏa - Là lửa kêu quỷ thần, là hỏa vô hình, hỷ Thìn Tuất Sửu Mùi. Thiên ất, Hỷ thần, Bình Đầu, Phá Tự, Lung á, Đại Bại.
Mậu Tuất mộc - Là cây có tranh bị khô, hỷ hỏa và Xuân Hạ. Hoa Cái, Đại Bại, Bát Chuyên, Trượng hình, Tiệt Lộ.
Kỷ Hợi mộc - Cây cỏ tranh, hỷ thủy và Xuân Hạ. Khuyết Tự, Khúc Cước.
Canh Tý thổ - Là vùng đất trống, là mái hiên nhà vậy, hỷ mộc và kim. Mộc Đức hợp, Trượng Hình.
Tân Sửu thổ - Đất phần mộ, hỷ mộc và hỏa cùng mùa Xuân. Hoa Cái, Huyền Châm, Khuyết Tự.
Nhâm Dần kim - Kim dùng để trang sức rực rỡ, hỷ mộc và lửa nhỏ. Tiệt Lộ, Bình Đầu, Lung á.
Quý Mão kim - Là kim nút áo, khóa, chuông đúc, hỷ hỏa mạnh và mùa Thu. Quý nhân, Phá Tự, Huyền Châm.

Giáp Thìn hỏa - Là lửa ở đèn vậy, hỷ ban đêm và thủy, không thích ban ngày. Hoa Cái, Đại Bại, Bình Đầu, Phá Tự, Huyền Châm.
Ất Tị hỏa - Là ánh sáng ngọn đèn vậy, giống ở trên, càng hỷ Thân Dậu và mùa Thu. Chính Lộc Mã, Đại Bại, Khúc Cước, Khuyết Tự.
Bính Ngọ thủy - Là vầng trăng tròn, hỷ ban đêm và mùa Thu, là thủy vượng vậy. Hỷ thần, Dương Nhận, Giao thần, Bình Đầu, Lung á, Huyền Châm.
Đinh Mùi thủy - Là ánh lửa vậy, giống như ở trên thủy vượng. Hoa Cái, Dương Nhận, Thoái thần, Bát Chuyên, Bình Đầu, Phá tự.
Mậu Thân thổ - Là đất đai giữa mùa Thu, hỷ Thân Dậu và hỏa. Phúc tinh, Phục Mã, Trượng Hình, Phá Tự, Huyền Châm.
Kỷ Dậu thổ - Đất cấy mạ giữa mùa Thu, hỷ Thân Dậu và mùa Đông. Thoái thần, Tiệt Lộ, Cửu Sửu, Khuyết Tự, Khúc Cước, Phá Tự, Lung á.
Canh Tuất kim - Trên lưỡi kiếm, hỷ hỏa ít và mộc. Hoa Cái, Trượng Hình.
Tân Hợi kim - Vật kim ở đỉnh chuông, hỷ mộc hỏa và thổ. Chính Lộc Mã, Huyền Châm.
Nhâm Tý mộc - Là mộc bị hại vì nhiều thủy, hỷ hỏa thổ và mùa Hạ. Dương Nhận, Cửu Sửu, Bình Đầu, Lung á.
Quý Sửu mộc - Mộc bị hại vì thiếu thủy, hỷ kim thủy và mùa Thu. Hoa Cái, Phúc tinh, Bát Chuyên, Phá Tự, Khuyết Tự, Dương Nhận.

Giáp Dần thủy - Là mưa vậy, hỷ mùa Hạ và hỏa. Chính Lộc Mã, Phúc thần, Bát Chuyên, Bình Đầu, Phá Tự, Huyền Châm, Lung Á.
Ất Mão thủy - Là hơi nước gần mặt đất vậy, hỷ thủy và hỏa. Kiến Lộc, Hỷ thần, Bát chuyên, Cửu Nhận, Khúc Cước, Huyền Châm.
Bính Thìn thổ - Là đất bờ đê, hỷ kim và mộc. Lộc khố, Chính Ấn, Hoa Cái, Tiệt Lộ, Bình Đầu, Lung á.
Đinh Tị thổ - Là đất trũng, hỷ hỏa và Tây Bắc. Lộc khố, Bình Đầu, Khuyết Tự, Khúc Cước.
Mậu Ngọ hỏa - Là lửa ánh mặt trời, mùa hạ thì người sợ, mùa đông thì người thích, kị Mậu Tý, Kỷ Sửu, Giáp Dần, Ất Mão. Phục thần, Dương Nhận, Cửu Sửu, Bổng Trượng, Huyền Châm.
Kỷ Mùi hỏa - Là ánh sáng mặt trời, kị ban đêm, cũng sợ Tứ giả. Phúc tinh, Hoa Cái, Dương Nhận, Khuyết Tự, Khúc Cước, Phá Tự.
Canh Thân mộc - Là hoa cây Lựu, hỷ mùa Hạ, không thích mùa Thu Đông. Kiến Lộc Mã, Bát Chuyên, Trượng Hình, Phá Tự, Huyền Châm.
Tân Dậu mộc - Là hạt giống cây Lựu, hỷ Thu và Hạ. Kiến Lộc, Giao thần, Cửu Sửu, Bát Chuyên, Huyền Châm, Lung á.
Nhâm Tuất thủy - Là biển đại dương vậy, hỷ Xuân Hạ và mộc. Hoa Cái, Thoái thần, Bình Đầu, Lung á, Trượng Hình.
Quý Hợi thủy - Nước ở trăm sông, hỷ kim thổ hỏa. Phục Mã, Đại bại, Phá tự. Tiệt lộ.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Bên trên là Lục thập Giáp Tý, lớn thịnh ghét biến thành nhỏ yếu, nhỏ yếu cũng muốn biến thành lớn thịnh vậy. Trước bần tiện mà sau phú quý thì vinh hoa, trước phú quý mà sau bần tiện thì thấp hèn; trước tiên không thể lấy bần tiện mà không luận phú quý, cũng không thể trước lấy phú quý mà không luận bần tiện vậy. Như năm sinh thuộc mộc, lệnh là Canh Dần, Tân Mão, thì cũng biết là mộc lớn thịnh; nếu không thấy chỗ khác như Thai tháng ngày giờ có mộc, thì lấy Tùng Bách mộc luận, vạn nhất ở trên thấy Dương Liễu mộc hoặc Chá Lưu mộc, thì bỏ lớn lấy nhỏ, không lấy Tùng Bách mộc luận vậy. Giả sử người sinh là Nhâm Ngọ Quý Mùi, thì cũng biết là mộc nhỏ yếu, nếu chỗ khác như tháng ngày giờ Thai không thấy mộc, thì lấy Dương Liễu mộc luận, vạn nhất thấy Tùng Bách mộc hoặc Đại Lâm mộc, thì bỏ nhỏ luận lớn, không thể lấy Dương Liễu mộc luận vậy. Lấy đến người sinh là Thiên Thượng hỏa, Kiếm Phong kim, Đại Hải thủy, Đại Dịch thổ, ngoài ra thấy ở vị trí khác như tháng ngày giờ Thai, cùng nạp âm mà nhỏ yếu, lại như người sinh là Phúc Đăng hỏa, Kim Bạc kim, Tỉnh Tuyền thủy, Sa Trung thổ, ngoài ra thấy ở chỗ vị trí khác như thángngày giờ Thai, cùng nạp âm mà lớn thịnh, hoặc bình thường mà dẫn đến nhập thánh, hoặc trước trọng mà sau khinh, đều nên theo biến mà luận, không thể ở một điểm mà chấp nhất.

Giáp Tý, tòng kim cách. Là Khí tán, được Mậu Thân thổ, Quý Tị thủy thì lấy cát, Mậu Thân chính là đất kim lâm quan, thổ lại vượng ở Tý, tất có thể sinh thành; Quý Tị thuộc kim sinh ở Tị, thủy vượng ở Tý, nạp âm đều có chỗ quy về. Lại là hướng về gốc lộc, kị Đinh Mão, Đinh Dậu, Mậu Ngọ hỏa.

Ất Sửu, là kim tự khố. Hỏa không thể khắc. Bởi vì kim đã ẩn tàng tự không có khắc hại xung phá, không có không hiển vinh, chỉ kị hỏa của Kỷ Sửu, Kỷ Mùi. Diêm Đông Tẩu nói: "Ất Sửu là Chính Ấn, vốn có đủ phúc đức lớn, Thu Đông phú quý mà còn thọ, Xuân Hạ trong cát có hung; nhập cách thì lập công hưởng phúc, mang loại Sát là hội hung." 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Giáp Tý Ất Sửu chưa thành khí, kim thấy hỏa là thành, thấy nhiều là cát."

Bính Dần, là hỏa ánh bình minh. Không có thủy chế thì có họa lửa đốt cháy nóng rực, thủy không thể qua, chỉ có thích thủy Giáp Dần, chính là Vị Tế. Lại còn có danh là Triều Nguyên Lộc ( hướng về gốc Lộc). 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Bính Dần hỏa chứa khí thuần túy xung thì sáng tỏ, đức sinh ở bốn mùa, nhập quý cách thì phát ứng tài văn chương, chủ địa vị là khôi giáp."

Đinh Mão, là hỏa lại sáng tỏ. Khí nhược, cần mộc sinh, gặp thủy thì hung, Ất Mão, Ất Dậu thủy là rất độc.

Mậu Thìn, Hai thổ ở dưới mộc. Kim nhiều không thể khắc, bởi vì thổ sinh kim, có đạo Mẫu Tử. Được thủy sinh là tốt. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: " Ba ngày Mậu Thìn, Canh Dần, Quý Sửu, số rất cương, đạo đức trong sáng, sinh ở Xuân Hạ, có thể đặc biệt độc lập tự chắp cánh mà bay, tùy cơ ứng biến mà thành công; lại gặp vượng khí, thì có chí làm rung động bầu trời. Duy chỉ kị sinh mùa Thu, tuy là bị tiết, khuất phục mà không thân."

Kỷ Tị, là mộc gần mộc. Kim tự sinh chỗ này, hướng về ta mà không tổn thương; kim kị thấy sinh vượng. Diêm Đông Tẩu nói: "Kỷ Tị ở Tốn, là gió động mộc, căn có nguy cơ dễ bật, lấy kim hòa, thổ, vận quy về Đông Nam, mới thành vật dụng, tuy dương ngoài âm trong, không được phụ trợ, thì khí hư tán, lại là chỗ kim quỷ khắc, là mộc không sử dụng được vậy".

Canh Ngọ, Tân Mùi, là thổ bắt đầu sinh. Mộc không thể khắc, duy chỉ kị thủy nhiều, khí lại tổn thương. Mộc nhiều lại có chỗ quy về, bởi vì mộc quy về Mùi vậy. Diêm Đông Tẩu nói: "Canh Ngọ,
Tân Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu đều là thổ dày đức, là nơi chứa đựng yên tĩnh, khí nạp hòa hợp, phúc lộc đầy đủ, nhập cách thì nhận nhiều phương núi cao, có công ân huệ bác ái lớn."

Nhâm Thân, đất kim lâm quan, lợi thấy thủy thổ, nếu gặp hỏa Bính Thân, Bính Dần, Mậu Ngọ thì thành tai hại. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Nhâm Thân, Quý Dậu, là vị trí kim vượng, không thể phục vượng, vượng thì tổn thương vật; không thể thấy hỏa, thấy hỏa thì tự thương."

Giáp Tuất, là hỏa tự khố. Không sợ nhiều thủy, chỉ kị Nhâm Tuất. Cho nên bị khắc trong mộ, họa hại là khó tránh. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Tuất hỏa là khố Ấn, hàm chứ khí chí dương tàng phục, gặp quý cách, phú quý to lớn. Duy chỉ kị phục sinh, đề phòng trong cát có hung."

Ất Hợi, là hỏa lại sáng. Khí chìm mà không phát, mượn Kỷ Hợi, Tân Mão, Kỷ Tị, Nhâm Ngọ mà phát, Mùi mộc sinh thì tinh thần vượng tướng, có Quý Hợi, Bính Ngọ thủy thì không cát.

Bính Tý, là thủy chảy thừa. Không kị nhiều thổ, duy chỉ sợ Canh Tý, là trong vượng gặp quỷ, chỗ này là điềm xấu rất lớn. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Bính Tý là thủy tự vượng, trên dương dưới âm, đều đủ tinh thần, bẩm chất tự nhiên khoáng đạt, kiến thức uyên thâm; xuân hạ là khí giúp vật, có công nhiều lợi trạch."

Đinh Sửu, là thủy tụ phúc. Rất thích kim sinh, kị Tân Mùi, Bính Thìn, Bính Tuất, hình phá vậy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Đinh Sửu, Ất Dậu, ở số là thủy hết nhược, là âm thịnh dương nhược, nhận đủ khí trong sáng, nhiều trí tuệ mà thiếu phúc, lấy túi thủy mộc vượng khí, thì âm dương hòa hợp, là quý khí thông hiển cao."

Mậu Dần, là thổ thụ thương. Rất là không có lực, phải sinh vượng hỏa, để sinh khí. Kị Kỷ Hợi, Canh Dần, Tân Mão nhiều sắc mộc khắc, chủ hung ngã gãy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Mậu Dần, Bính Tuất chỗ hai vị này đón khí thổ đức dày, một là hàm chứa sinh hỏa, một là hàm chứa đựng hỏa, gọi là tập trung dương linh, thần phúc khánh; được quý cách, thì đạo đức cái thế, quý cực nhân thần, duy chỉ có thân vương, quý công tử đa số là inh ngày này; được thường cách, cũng chủ phúc thọ lâu dài, cuối cùng an dật."

Kỷ Mão, là thổ tự chết. Chỗ này là ức chết quá mức. Quý được Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi, Kỷ Mùi hỏa, do hợp mà đến, dẫn đến phúc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Kỷ Mão, là đất tự chết, thấy ở cung Chấn, gió thổi sấm động, tán thành hòa khí, đức tự xung hư. Bẩm chất là loại có đạo hành, tùy biến mà hợp, có dưỡng sinh không ràng buộc phúc thọ, duy chỉ bất lợi là tử tuyệt, thì là đường không lâu dài."

Canh Thìn, là khí kim tụ. Không dụng hỏa chế, khí tự thành, hỏa thịnh khí lại mất, bệnh tuyệt hỏa không có hại. Như Giáp Thìn, Ất Tị hỏa, ác không thể nói; cũng không thể khắc nhiều mộc, vì lẻ đó mà khí ta cũng tụ vậy. Diêm Đông Tẩu nói: "Canh Thìn kim vốn có đủ tính cương kiện đức rất dày, bẩm tính thông minh khai thông. Xuân Hạ phúc họa ẩn phục, thu đông rất thông minh; nhập cách thì kiêm cả văn vũ, mang sát thì thích động binh quyền."

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Tân Tị, là kim tự sinh. Tinh thần đầy đủ, đầy đủ khí thể, rất nóng hóa cháy mà không mất. Kị hỏa Bính Thìn, Ất Tị, Mậu Ngọ. Bởi vì kim sinh ở Tị, mà không thể sinh bại ở Ngọ, tuyệt ở Dần mà khí tán, ẩn thấy hỏa sinh vượng, có thể đen chăng? 《 Ngũ Hành yếu luận》 nói: "Tân Tị kim là tự sinh Học Đường, vốn có đủ đức anh minh kỳ khôi, thu đông được lực đầy đủ, xuân hạ cát mất hung; nhập quý cách thì chủ học hành tài năng, dẫn đến thân thanh quý, tâm thường nhớ giúp vật."

Nhâm Ngọ, là mộc nhu hòa. Can chi là nhược, mộc có thể sinh hỏa, lại kị thấy hỏa nhiều, nhiều thì mất vậy. Tuy là kim sinh vượng, cũng không thể tổn thương. Bởi vì kim làm ta bại, được kim lại quý. Thủy thổ thịnh cũng quý. Duy chỉ kị Giáp Ngọ kim tổn thương. 《Ngũ hành yếu luận 》nói: "Nhâm Ngọ, là mộc tự chết. Mộc tử tuyệt thì hồn đi mà thần khí linh tú, bẩm chất đầy đức yên tĩnh trong sáng, người ôm dũng khí, kiến lập công hành, có thể là tĩnh mà có dũng, sống thọ."

Quý Mùi, là mộc tự khố. Sinh vượng thì tốt, tuy là Ất Sửu kim không thể xung phá, tất cả đều quy về căn gốc mà không phạm nhau. Kị Canh Tuất, Ất Mùi kim. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Nhâm Ngọ, Quý Mùi là Dương Liễu mộc, bởi vì mộc đến Ngọ mà tử, đến Mùi mà mộ, cho nên giữa mùa hạ lá rậm rạp, được thời thì phú thọ, không được thời thì bần yểu."

Giáp Thân, là thủy tự sinh. Khí chảy xa, cần có chỗ quy về. Cũng nhờ kim sinh, không kị nhiều thổ, đặc biệt sợ Mậu Thân, Canh Tý thổ. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Thân là thủy tự sinh, hàm chứa thiên về chân Học Đường, được nhập cục chủ trí thức thông tuệ, diệu dụng vô cùng."

Ất Dậu, là thủy tự bại. Nếu lấy kim nhiều, bởi do khí ta đã nhược, mượn Mẫu để sinh. Kị Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Mậu Thân, Canh Tý, Tân Sửu thổ, thì yểu chiết cùng tiện.

Bính Tuất, là thổ phúc mạnh lộc dày. Mộc không thể khắc. Kị thấy kim sinh vượng. Nếu gặp hỏa thịnh thì quý không thể nói.

Đinh Hợi, thổ lâm quan. Mộc không thể khắc. Sợ kim nhiều, cần được hỏa sinh cứu, là cát. Kị Kỷ Hợi, Tân Mão mộc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Đinh Hợi, Canh Tý hai thổ trong hàm chứa số kim, trong cương ngoài hòa. Bẩm khí có được lực định, dưới thổ lấy khí thủy hỏa vượng để giúp, có thể kiến công lập nghiệp, can đảm quả quyết lấy uy."

Mậu Tý, Kỷ Sửu, hỏa ở trong thủy, lại viết là Hỏa Thần Long. Gặp thủy mới quý, là hỏa vua của lục khí vậy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Mậu Tý chứa tinh thần khí huy hoàng đầy đủ, bốn mùa giữ lấy phúc sinh, nhập quý cách thì là đại nhân quân tử, khí vũ to lớn, phú quý, rất cát."

Kỷ Sửu, là hỏa thiên tướng, lại là gốc Thiên Ất quý. Hàm chứa khí uy phúc rõ dày, càng phát to lớn, nhận quý cục, là mang đức, là khôi danh mà lập công. 《 Chúc Thần kinh》 nói: "Sửu, là hỏa ở thai dưỡng, khí dần hưng thịnh. Nếu gặp Bính Dần, Mậu Ngọ hỏa trợ giúp, có thể thành công giúp vật."
Canh Dần, Tân Mão, là mộc lúc hàn lạnh. Tuyết sương giữ không có thay đổi, huống cho có kim khắc chứ? Trên có Canh Tân, không có chế trị, tự nhiên thành tài. Diêm Đông Tẩu nói: "Tân Mão là mộc tự vượng, xuân hạ thì cố gắng khí tiết, kiến công lập nghiệp; sinh ở Thu thì ức chế tính quá ngay thẳng, khí lực không làm cho phải lẽ."

Nhâm Thìn, là thủy tự khố. Nếu đất thủy ao hồ, kị kim đến quyết phá. Nếu lại thấy Nhâm Thìn, thị nói là tự hình, khác biệt Thìn thì không có lỗi; gặp thủy nhiều, thổ đều hỷ. Duy chỉ sợ Nhâm Tuất,
Quý Hợi, Bính Tý thủy, là sinh vượng thái quá, là chảy khắp nơi không có chỗ quy về. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Nhâm Thìn thủy là Chính Ấn, hàm chứa dức rõ ràng lợi ích phì nhiêu. Chịu chứ đựng rất lớn, tâm nhớ như gương. Được Xuân Hạ, là lấy đại phúc; được thu đông, là loại gian trá vô đức."
Quý Tị, là thủy tự tuyệt, danh viết là Hạc lưu ( nước khô cạn). Nếu gặp thổ Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý dày nặng, chỉ có đợi mà khô; nếu được tam hợp kim sinh vượng sinh, thì suối nguồn cuồn cuộn, khoa cử đầy đủ mà tiến vậy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Quý Tị, Ất Mão, là thủy tự tuyệt tự tử, là đến âm thoái, tàng chân tinh sắc, dưỡng ngưng thành quý khí. Nhận quý cục, là loại đạo tốt, vốn có đủ đức thường, có công giúp vật."

Giáp Ngọ, là kim tự bại, cũng viết là kim dũng cảm. Gặp hỏa sinh vượng, là thành khí. Kị Đinh Mão, Đinh Dậu, Mậu Tý hỏa là hung. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Ngọ kim là Tiến thần Khôi khí, có đủ đức cương trực rõ ràng. Thu Đông thì cát, xuân hạ là hung; nhập quý cách chủ khoa trường kiến công trị chúng, không có thời lại mang Sát, thì thô bạo tàn nhẫn, ít ân ít nghĩa."

Ất Mùi, là kim thiên khố. Cần hỏa chế, mà khí tụ thổ sinh thì phúc dày. Kị hỏa của Kỷ Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Ất Mùi kim ở số là mộc khố, lại là Thiên tướng. Có đủ đức thuần nhân hậu nghĩa khí, không có không cát. Được quý cách, là tài năng anh kiệt, nỗi tiếng tuyệt luân; được thường cách, mang Sát xung phạm, cũng lấy quân tử trong tiểu nhân, người thọ vậy."

Bính Thân, là hỏa tự bệnh, Đinh Dậu, là hỏa tự tử. là khí cực, có mộc tương trợ, phương sinh khí. Kị thủy Giáp Thân, Ất Dậu, Giáp Dần, Ất Mão. Diêm Đông Tẩu nói: "Bính Thân, là hỏa bệnh. Mộc lấy đức là văn minh, lấy tính thủy là rộng lượng, lấy gốc thổ là phúc tuệ; duy chỉ có kim là bạo ngược, dẫu có cát thần, cách là khí bất hòa."

Mậu Tuất, là mộc ở trong thổ. Kị trọng thấy thổ, nếu nạp âm thổ nhiều, cả đời gặp trở ngại. Kim không thể khắc, bởi vì kim khí đến Tuất mà tán, gặp kim là có thể dẫn đến phúc; lợi thấy thủy nhiều mộc thịnh mà thành quý cách. Diêm Đông Tẩu nói: "Mậu Tuất mộc, rễ cô đơn độc lập, và lấy thủy hỏa vượng khí thì có đức anh minh đầy đủ, nhập cách thì văn chương tiến đạt, phúc lộc thủy chung, nhưng khí nhận thiên tướng, chủ bị trải qua gian hiểm, giữ tiết không dời, mới thấy muộn phúc."

Kỷ Hợi, là mộc tự sinh. Căn nguyên phồn thịnh, không kị nhiều kim, duy chỉ sợ kim của Tân Hợi, Tân Tị, Quý Dậu; nếu thấy Ất Mão, Đinh Mùi thủy, Quý Mùi mộc, Mùi không có đại quý. Diêm Đông Tẩu nói: " Kỷ Hợi mộc, được thời thì thanh quý, không có thời thì gian khổ." Canh Tý, người dày đức. Có khả năng khắc thủy nhiều, chỗ khác không kị mộc, bởi vì mộc đến Tý là vô khí; nếu gặp Nhâm Thân kim, gọi là vị trí minh Lộc, tất quý vậy.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Tân Sửu, là thổ tụ phúc. Mộc nhiều không thể khắc, bởi vì Sửu là kim khố, trong Sửu có kim, thấy mộc sao hại? 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Canh Tý, Tân Sửu thổ thích mộc mà ghét thủy, thấy mộc là Quan, thấy thủy là không thích hợp."

Nhâm Dần, là kim tự tuyệt, Quý Mão, là khí kim tán. Nếu thấy hỏa nhiều thì mất khí, duy chỉ có hướng về thủy, thổ thì cát. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Nhâm Dần, Quý Mão là kim hư nhược, người có đủ nhu đức nghĩa cương. Mùa Đông cương kiện không có hung, hung là dấu hiệu cát; xuân hạ thì trong hung ngoài cát, cát là trước hung. Nhập quý cách thì tiết tháo anh minh, mang Sát thì hung bạo không thể tốt vậy."

Giáp Thìn, là hỏa thiên khố. Hỏa nhiều trợ giúp, là cát, chỗ gọi là thỉnh cầu đồng khí, lấy sinh cho cái bất túc. Nếu thấy Mậu Thìn, Mậu Tuất mộc sinh, là quý cách; kị Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Bính Ngọ, Đinh Mùi thủy là tối độc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Thìn là hỏa thiên tướng, hàm chứa khí nhanh nhạy to lớn, nhập quý cách thì là đặc đạt, là văn khôi, lợi ở thu đông, bất lợi ở mùa hạ."

Ất Tị, là hỏa lâm quan. Thủy không thể khắc, bởi vì thủy tuyệt ở Tị; được thủy giúp đỡ, thì là thuần túy. Nếu được hai ba hỏa trợ giúp, cũng tốt. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Ất Tị hỏa hàm chứa khí thuần dương tốn phát, ánh sáng rực rỡ, xuân đông hướng cát, hạ thu hướng hung."

Bính Ngọ, Đinh Mùi, là thủy Ngân Hà. Thổ không thể khắc, là thủy Thiên Thượng, địa kim không thể sinh vậy. Sinh vượng thái quá, lại tổn hại cho vạn vật; tử tuyệt quá nhiều, lại không thể sinh vạn vật. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Bính Ngọ, là thủy rất cao quý, thể khí Nam phương ôn hậu. là loại có đạo khí hư biến, thông minh hơn người, là tướng cầm đầu mọi người; Đinh Mùi vốn có đủ tam tài kim số, được xung chính khí. Chủ tinh khí thần đầy đủ, tính căn đạo kỳ diệu hết sức thông biến."

Mậu Thân, là thổ gò đất cao. Mộc tuyệt ở Thân, không thể khắc. Nếu thấy kim thủy nhiều trợ giúp, thì phú quý cách tôn vinh vậy.

Kỷ Dậu, là thổ tự bại. Khí bất túc, mượn hỏa để tương trợ. Thấy hỏa Đinh Mão, Đinh Dậu thì cát, thiết kị tử tuyệt. Sợ mộc Tân Mão, Tân Dậu, có họa yểu chiết.

Canh Tuất, Tân Hợi, kim dần dần thành. Không thể thấy hỏa, sợ có chỗ tổn thương. Nếu được thủy, thổ tương trợ thì quý. Diêm Đông Tẩu nói: "Canh Tuất, là kim mộ hỏa, có tính cương cứng tự thành hung bạo. Thu động hầu như dày nặng, sinh xuân hạ động thì hối hận; quân tử thì nắm quyền binh hình, tiểu nhân thì tính tự ý thô lỗ hung hăng. Tân Hợi là kim bẩm Càn mà cương kiện, rõ thuần, khí trung chính, ba mùa xuân, thu, đông là cát, mùa hạ mất cát nhiều hung. Nhận quý cách, tính thể nhân ái thủ nghĩa; nếu mang hình sát, hung bạo tham công."

Nhâm Tý, là mộc chuyên vị, Quý Sửu, là mộc thiên khố. Gặp tử tuyệt thì phú quý, sinh vượng thì bần tiện; thủy nhiều thì yểu chiết; kim nhiều thổ thịnh đều tốt. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Nhâm Tý, là mộc u âm rậm rạp, là dương nhược âm thịnh, nhu mà không lập, là loại thủy nhân đức. Dụng sự duy chỉ có đối với Bính Ngọ thủy, thì thành thủy, mộc xung thuần đức, loại nhập phong cách thần tiên dị sĩ, phi thường vậy."

Giáp Dần, là thủy tự bệnh, Ất Mão, là thủy tự tử. Tuy nhiên tử bệnh, thổ không thể khắc, bởi vì can chi có hai mộc có thể lấy chế thổ. Nếu thấy kim Nhâm Dần, Quý Mão, thì là ưu tú. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Giáp Dần, Nhâm Tuất là hai thủy phục nghịch, âm thắng hơn dương, chủ gian tà hại vật, duy chỉ có lấy hỏa thổ để tổn ích, mới thành đại khí."

Bính Thìn, là thổ tự khố. Dày mà khỏe, hỷ Giáp Thìn hỏa, ác Mậu Thìn mộc. Thổ này thường là mộc không thể hại, bởi vì Bính là hỏa vậy, Thìn là thủy thiên khố, thổ lấy thành khí. Duy chỉ sợ Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Tân Mão, Mậu Thìn mộc. 《 Ngũ Hành yếu luận 》 nói: "Bính Thìn thổ là Chính Ấn, thấy đức hội ngũ phúc là cát. Bẩm loại đều là có đại hanh, không phú cũng quý, duy chỉ phạm xung nhiều là tăng đạo."

Đinh Tị, là thổ tự tuyệt. Lại không phải là tuyệt, bởi vì một thổ cư ở dưới hai hỏa, ở đất phụ mẫu, nhận ân từ trời, cho nên không phải là tuyệt. Mộc không thể khắc, hỏa nhiều ích tốt. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Đinh Tị hàm chứa hỏa Đông Nam đức vượng, số được hàm chứa dung nạp phúc thọ."

Mậu Ngọ, là hỏa tự vượng, Kỷ Mùi, là hỏa thiên khố. Cư ở phương Ly rõ ràng, đất vượng tướng, khí cực thịnh, khác thủy không có tổn thương. Kị thủy Bính Ngọ, Đinh Mùi là Thiên Thượng thủy. 《 Ngũ Hành yếu luận 》nói: "Kỷ Mùi, là hỏa suy, hàm chứa khí tàng báu vật, tháng xuân hạ, vận nhập đất ẩm sâu, thì lòng dạ trong sáng, phúc khánh rất sâu, được mùa hạ, không phải hòa khí vậy, được mùa thu, thì trước cát sau hung."

Canh Thân, Tân Dậu hai mộc, kim ở trên mộc, bởi vì kim đã thành khí, kị thấy kim tiếp tục, dẫn đến khí hủy hoại. Nếu thấy Giáp Thân, Ất Dậu thủy thì nhập cách. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》nói: "Canh Thân, mộc tự tuyệt, là hồn đi thần biến, ngày sinh gặp chỗ này, loại khí phi phàm, thường cách chủ phú tính thông minh khác thường, gia tộc bất kham, nhập quý cách thì là tài năng anh kiệt, lập công không nối dõi; Tân Dậu, mộc mất vị trí, mộc bị khốn ở đất kim, thế hệ nhận trải qua nhiều khó khăn, duy chỉ có đối với Quý Mão kim là cương nhu tương tế, thông minh siêu quần, quyết thủ khoa lớn."

Nhâm Tuất, là thủy thiên khố, Quý Hợi, là thủy lâm quan, danh viết là Đại Hải thủy. Bởi vì can chi, nạp âm đều là thủy, kị thấy bầy thủy, Tuy Nhâm Thìn là thủy khố cũng không thể đảm đương. Chỗ khác không kị thổ, tử tuyệt thì cát, sinh vượng thì phiếm lạm không có chỗ quy về vậy. 《 Ngọc Tiêu bảo giám 》 nói: "Hợi Tí, đúng vị trí thủy, Nhâm Tuất khí phục mà không thuận, duy chỉ có thủy này, có thổ tổn ích, là thành đại khí."

Quý Hợi số vốn là thuần dương, bên trong thể rất nhân ái, bẩm sinh yên lặng mà rộng lớn, chí khí dân trào, lần lượt phát thành công, ngày giờ lợi trạch, kèm theo Sát thì hung bạo giảo hoạt.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Lại viết:
Bính Tuất thổ là dày phúc hưng thịnh, cho nên hỏa cuối cùng là ở chỗ này vậy. Kỷ Mùi, Canh Thìn, Mậu Thìn, Đinh Sửu đồng nghĩa giống chỗ này. Kỷ Mùi, là hỏa vậy, trong Mùi có mộ mộc; Canh Thìn, là kim vậy, trong Thìn có thổ mộ; Mậu Thìn, là mộc vậy, trong Thìn có thủy mộ; Đinh Sửu, là thủy vậy, trong Sửu có kim mộ, đều là khí phụ mẫu, đều có chỗ nuôi dưỡng. Năm loại kể trên phúc rất dày, có chỗ Quỷ hại, cũng không hại, cho nên thành khí vậy.
Ất Tị, Mậu Ngọ, là hỏa viêm thịnh. Thu Đông lấy đức là cát, xuân hạ lấy hình là hung. Nếu giữa mùa hạ một lúc phát viêm dữ dội, toàn quy về táo càng đốt thiêu, hòa mà thành xấu. Ất Tị, là hỏa lâm quan, trên có một mộc sinh, khí thịnh vậy; Mậu Ngọ, là hỏa tự vượng, nếu sinh thu đông, là khí nóng ấm, là đức giúp vật. Nếu sinh xuân hạ, vượng hỏa là tác hung phục được dương vị, sinh ở giữa mùa hạ, là hung bạo, khắc nhịn, là đường hung yểu vậy. Ất Mão, Quý Tị, Đinh Dậu, Ất Hợi, thủy hỏa tuy là tử tuyệt, lại trong sáng mà kỳ diệu; hỏa tử tuyệt mà trong sáng ngoài tối, phản chiếu lại ánh sáng, thủy tử tuyệt mà đúng trong suốt, có thể chiếu sáng cho đấng mày râu, cho nên mất trong mà kỳ diệu.
Nhâm Dần kim, việc quân không nghịch, Canh Thân mộc, là thần không cường.
Ngũ hành thuộc ngũ âm, Cung thổ là Quân vậy, Thương kim là Thần vậy, Giác mộc là dân vậy. Thương quá nhiều thì Thần cường, Giác quá nhiều thì Quân nhược. Cho nên trong ngũ âm, thường dụng tứ thanh Dĩ Sát Thương Giác. Canh Thân là Giác mộc tự tuyệt vậy, Nhâm Dần là Thương kim tự tuyệt vậy, tính tình đắc đạo trung thuận, cho nên việc quân không nghịch, là Thần không cường. Cho nên tự tử nhỏ bé, Loan đài, Phượng các để thượng quan, mệnh thiết kị kim mộc sinh vượng, như vậy tất nhiên là không nhỏ bé, bé thì cũng không có lâu dài, chỉ có thể can gián thì được. Nếu kim mộc sinh vượng mà khắc phá thì không như vậy.
Canh Thân mộc, Ất Tị hỏa, thổ kim sinh mà vẫn không sinh; Bính Ngọ thủy, Quý Mão kim, mộc thủy tử mà vẫn không tử. Thổ sinh Thân mà không sinh ở Canh Thân, thủy sinh ở Thân mà không sinh ở Mậu Thân, hỏa sinh ở Dần mà không sinh ở Giáp Dần, kim sinh ở Tị mà không sinh ở Ất Tị, mộc sinh ở Hợi mà không sinh ở Tân Hợi, bởi vì xứ sinh mà lại bị thụ chế vậy, gặp thì yểu thọ; thủy tử ở Mão mà không tử ở Quý Mão, thổ tử ở Mão mà không tử ở Đinh Mão, mộc tử ở Ngọ mà không tử ở Bính Ngọ, kim tử ở Tý mà không tử ở Canh Tý, hỏa tử ở Dậu mà không tử ở Tân Dậu, bởi vì xứ tử được sinh vậy, nếu gặp thì trường thọ. Mậu Tý, can chi vượng ở Bắc phương, là vị trí thủy, nạp âm thuộc hỏa, là hỏa ở trong thủy, không phải không thể có Thần Long; Bính Ngọ, can chi vượng ở Nam phương, là vị trí hỏa, nạp âm thuộc thủy, là thủy ở trong hỏa, không phãi không thể có thiên hà. Người Mậu Tý được Bính Ngọ, hoặc người Bính Ngọ được Mậu Tý, không có không quý. Bởi vì trong hỏa sinh thủy, trong thủy tàng hỏa, là Thủy Hỏa ký tế, tinh thần vận động, người tất linh thiêng khác thường vậy.
Tân Sửu thổ không sợ ở mộc, Mậu Tuất mộc không sợ ở kim. Là tại sao vậy? Sửu là kim khố, mộc không thành quỷ; trong Tuất có hỏa, kim lại bị tai ương. Như Mậu Tuất mộc, ở trên hai thổ, ở dưới một mộc, chôn vùi ở trong hai thổ, còn mới nảy mầm, hình dạng không thấy, là thổ thịnh mộc nhược. Còn lại theo chỗ này mà suy ra.
Canh Dần mộc, Đinh Tị thổ không sợ Quỷ kim mộc. Kim đến cung Dần, tuy là Quỷ mà kim tuyệt ở Dần, cho nên không là Quỷ; mộc đến cung Tị, mà Tị có sinh kim khắc mộc, cho nên không thành Quỷ. Như Canh Dần mộc gặp Nhâm Thân kim, tương xung bị khắc. Còn lại cứ theo như vậy mà suy.
Canh Ngọ thổ, đón Nam phương hỏa vượng để dưỡng hình thể, Mậu Thân thổ tự sinh, Canh Tý thổ tự đầy, là không kị mộc Quỷ. Bởi vì mộc đến Ngọ thì tử, Thân là tuyệt Tý là bại, lại nói thổ tự cường là sao vậy? Cứ theo vậy mà suy.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Nhâm Thân, Quý Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi là bốn kim khí mạnh mẽ, không sợ ở Quỷ. Mậu Tý hỏa không sợ Quỷ, trong thủy có Phích Lịch hỏa ( lửa sét đánh không sợ thủy), có thần Long, bởi vì có thủy thì sấm mới lóe sáng, nếu gặp Bính Ngọ, thủy không ở trên trời, thì có chỗ kị; có công tương chiến. Thông thường can chi bản mệnh thụ thương, thì chủ lục căn không đủ, có thủy không có chung, như Đinh Tị thấy Quý Hợi, Nhâm Tý thấy Mậu Ngọ. Còn lại theo vậy mà suy.
Mậu Ngọ, Canh Thân, ta và nó đều được, là siêu việt. Canh Thân, là Thạch Lựu mộc, mùa hạ vượng, cho nên hỷ Mậu Ngọ. Bởi vì hỏa Quan vượng, mà tính Thạch Lựu mộc được thời, Mậu Ngọ là hỏa vượng cực, hỷ ở Thân, thấy Thiên Mã tương tư vậy. Thần đầu lộc, tức là thập can chuyên vị lộc, là âm dương chuyên vị, hội thiên địa thần vậy. Xếp chân nguyên Bát quái, diễn ngũ hành thành bại, cương nhu tương suy, có không có hợp hóa. Cho nên Nhâm Tý thủy ứng Khảm ở Bắc phương, Bính Ngọ hỏa ứng cung Ly Nam cung, cho nên Bính Ngọ được Nhâm Tý không phải là phá, Đinh Tị được Quý Hợi không phải là xung, là gốc của Thủy Hỏa tương tế, lý có phu phụ phối hợp, Khảm Ly là dụng tinh thần nam nữ vậy; Nhâm Tý được Bính Ngọ, Quý Hợi được Đinh Tị, thì hỏa thủy trước sau, chưa có tượng cứu tế, không bằng Đinh Tị thấy Nhâm Tý, Bính Ngọ được Quý Hợi vậy.
Canh Thân, Tân Dậu kim ứng với cung Đoài ở Tây phương; Giáp Dần, Ất Mão mộc tượng cung Chấn ở Đông phương, cho nên Giáp Dần được Canh Thân không phải là hình, Ất Mão được Tân Dậu không thành Quỷ, là chính thể mộc nữ kim nam, rõ ràng tả hữu hóa thần vậy. Mộc chủ hồn, Kim chủ phách, cả hai tả hữu, gián cách không không hợp, nếu kim có thể hợp, thì hóa thần sinh là không có ngăn cách vậy. Nếu Canh Thân được Ất Mão, Tân Dậu được Giáp Dần thì không phải là nguyên thần, dụng phải biến thông vậy.
Mậu Thìn, Mậu Tuất thổ là Khôi Cương tương hội, Càn Khôn được dày, phúc lại hàm sinh, bất đắc dĩ thành phản ngâm. Mậu Thìn, Mậu Tuất không phải là xung, thổ được chính vị, là can lấy gốc tụ vậy. Kỷ Sửu, Kỷ Mùi là quý thần thủ trung trinh.
Chỗ này bốn chân thổ có đạo vạn vật thủy chung, không phải đại nhân quân tử, đã có thể có đủ đức này? Huống chi thần đầu lộc tất cả có thần chủ, trái phải vận động ở trong lục hợp, biến đủ co rút ở cát hung vậy.
Kỷ Sửu thổ là Thiên Ất quý nhân, Kỷ Mùi thổ là Phúc thần to lớn, giải cả trăm hung sát, nếu gặp, nên dụng là hỷ tiền của bất chính. Mậu Thìn là Câu Trần, Mậu Tuất là Thiên Không, thổ thần đa số là di dời thay đổi, che chắn ở bên ngoài chỗ tướng soái, xuất ra trấn biên phòng, không có tầm thường vậy;
Đinh Tị là Xà thần, hung lấy dụng hung, cát lấy đón cát, nhiều mê hoặc hay là lo buồn, có tính khôi hài;
Bính Ngọ là thần Chu Tước, ứng thể ánh mặt trời, lời văn mỹ lệ;
Giáp Dần là thần Thanh Long, bố thì giúp nhiều người, được lợi ở bốn phương;
Ất Mão là thần Lục Hợp, chủ phát sinh vinh hoa, hòa nhược thuận đảng;
Nhâm Tý là thần Thiên Hậu, chủ âm chất thiên đức, dung mỹ đa quyền;
Quý Hợi là thần Huyền Vũ, là âm dương chung cực, có khí tiềm phục, như chảy theo dưới, tuy có trí lớn, không phải là kẻ sĩ hiên ngang siêu việt, thuận thì an bình, nghịch thì xấu xa;
Canh Thân là thần Bạch Hổ, lợi ở vũ mà bất lợi ở văn, có tính ôm đường đơn côi, trong thiện ngoài nghiêm, ngoài mạnh trong yếu, có nhân nghĩa, thích trầm tĩnh;
Tân Dậu là thần Thái Âm, ôm khí túc sát, có tác phong thanh bạch, là lợi khẩu văn chương, tài năng không thế, nhưng mà chớ lấy tính tình lục thân chú giải hưu vượng định gặp họa phúc.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Kim

Chú thích: Giáp Tý, Ất Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi nạp âm đều là kim.

Giáp Tý, Ất Sửu: Hải Trung kim
Hải Trung kim, là bảo tàng ở Long cung, châu ngọc mang thai báu vật Giao Long, xuất hiện mặc dù ở Không trung, thành khí không có dựa vào ở hỏa lực, cho nên Đông Phương Sóc lấy danh là ngọc trai, rất có lý vậy. Diệu Tuyển có Châu tàng Uyên Hải cách, lấy Giáp Tý thấy Quý Hợi, là không dụng hỏa; gặp Không thì có Bạng Châu Chiếu Nguyệt cách, lấy Giáp Tý thấy Kỷ Mùi, là muốn Hợp hóa hỗ quý. Bởi vì lấy kim trong biển là vô hình, không phải không xung thì không thể xuất hiện, mà Ất Sửu là kim khố, cho nên không phải hỏa vượng thì không thể đúc rèn vậy. Như Giáp Tý thấy Mậu Dần, Canh Ngọ, là thổ sinh kim, Ất Sửu thấy Bính Dần, Đinh Mão, là hỏa chế kim. Thiên can lại gặp Tam Kỳ, loại cách cục này, thì không có không quý.
Nhâm Dần, Quý Mão: Kim Bạc kim
Kim Bạc kim, dùng để trau chuốt trang sức chén mâm, làm rạng rỡ cung thất, đánh mỏng cần phải mượn ở kim khác, tô màu tất là mượn ở thủy lực. Chỗ này kim rất nhỏ bé, không có mộc thì không có chỗ dựa vào. Lấy đất bằng phẳng là vi thượng, có chỗ này không nên thấy hỏa, có hỏa thì yểu. Gặp Thái Dương lộ rõ ở ban ngày, hai hỏa tương phản, không nên cùng thấy. Sơn Hạ, Sơn Đầu hỏa, có thủy thanh trong trợ giúp cũng cát. Duy chỉ có kị Lô trung hỏa, thì là tương khắc. Loại kim này thể nhược, không thể phản nguyên định là yểu, luận vận hạn cũng giống vậy. Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, Thiên Hà là thủy thanh, hỷ thấy ở ngày giờ, Nguyệt lệnh cần có mộc, mới cát; Khê Lưu, Đại Hải là thủy đục, thấy Khê Lưu chủ phiêu đãng, thấy Đại Hải không có mộc làm gốc, là chủ hung tàn. Kim gặp Kiếm Phong, Soa Xuyến, có thể làm trang sức, lý là có phụ trợ thành tạo hóa, cho nên hỷ thấy; Sa Hải, Bạch Chá kim là vô ích, có hỏa giúp, cũng cát, không có thì cuối cùng là hung. Thành Đầu, Bích Thượng là hai thổ có chỗ dựa mà an thân, Thành Đầu chủ phần đa là gửi cho người, Bích Thượng thêm mộc thì quý, lại gặp Đăng Hỏa chiếu sáng rực rỡ, chủ quyền quý. Bính Tuất thổ trong tàng hỏa, can chi lại không nên quá viêm nóng, cũng là quý cách, tra cứu thêm ở Diệu Tuyển. Mệnh kim mà gặp Mậu Dần, là Côn Sơn phiến Ngọc cách vậy; Quý Mão mà gặp Kỷ Mão, là Ngọc Thỏ Đông Thăng cách vậy, cùng giống như Hải Kim ở trước.
Canh Thìn, Tân Tị: Bạch Chá kim
Bạch Chá kim, là Côn Sơn phiến Ngọc, kim rơi ở sông Lạc, giao lại ánh sáng của Nhật Nguyệt, khí âm dương ngưng tụ, hình rõ thể thanh, là màu sắc chính của kim vậy. Chỗ này kim chỉ có hỷ hỏa luyện, cần Lô Trung viêm hỏa. Nhưng nếu thấy Canh Thìn, không có thủy trợ giúp, là chủ bần yểu, Tân Tị thì lại lấy quý luận, bởi vì Tị là đất kim sinh, cho nên thấy Bính Dần hóa thủy gặp quý vậy; Sơn Hạ hỏa sinh sáng sớm, là chủ vinh quý, cũng cần thủy trợ giúp mới được. Tỉnh Tuyền, Đại Khê đều là quý cách. Canh Quan ở Đinh, Tân Quan ở Bính, cho nên Canh thấy Đinh Sửu, Quan quý đều có đủ; Tân thấy Bính Tý, không bằng Quý Tị thanh hơn, không quý cũng phú. Luận lúc thấy mộc, gặp nhiều là vô ích, vì kim này không thể tương khắc. Nếu trụ gặp hỏa vô khí, lại cần mộc sinh, có Lộc Mã Quý nhân mới cát. Thấy thổ chỉ nên mài xây sát, mới thành đồ dùng, thì cát, thổ khác là vô dụng. Kim kị Hải Sa, là chìm mất, ngày giờ gặp hỏa thì vinh. Nếu thấy kim thanh, thêm thủy tương trợ, hỏa cũng không thích, chỉ sợ xung hình. Diệu Tuyển có Tiếu Phong Mãnh Hổ cách, kim này lấy ngày giờ gặp Tân Tị hoặc Ất Tị là vậy.
Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung kim
Sa Trung kim, đất bố trí hình dạng cứng rắn, tính chất quý báu ẩn ở trong cát, dạy thẳng tẩy rửa mới quý, tất cần phải có thủy quý. Chỗ này kim không phải Lô Trung hỏa không thể chế tạo, nhưng Giáp Ngọ thấy Bính Dần, Dần gặp hỏa sinh, Dần Ngọ hợp cục, trụ không có thổ trường sinh thì khô táo, chớ gặp mộc trợ, chủ tật yểu; Bính Ngọ nạp âm tuy là thủy, mà can chi đều thuần hỏa, gặp thêm càng hung. Sơn Đầu, Sơn Hạ, Phúc Đăng là ba hỏa đã có mộc sinh, khắc chế kim này, lại cần thủy thanh giúp đỡ, quyết chủ thiếu niên vinh quý. Mậu Tý, Kỷ Sửu long hỏa tương phùng, có Tý Ngọ giao cấu là diệu kỳ, lý là Giáp Kỷ có hợp hóa, chủ quý, phàm lấy hỏa tạp là không thành. Thủy duy chỉ có Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, Thiên Hà, thanh tĩnh thì cát; Trường Lưu, Đại Hải thủy, động mà không tĩnh, nếu cùng thấy thì kim phiếm lạm bất an; Hải thủy thì càng kị, thấy mộc thì có quan hệ gì? Hỏa suy lại hỷ sinh phù, có thêm Lộc Mã Quý nhân hỗ hoán triều củng là vi thượng, như trụ không có hỏa, gặp 1,2 mộc thì nguy. Nếu Giáp Ngọ thấy Kỷ Tị, là nói hái kim tinh ở Hoàng Thích (nơi vua ngự), chính là quý cách vậy; kim sinh ở cát, được tạo hóa thì cát, nếu lại gặp Sa thổ, lại sợ bị chôn vùi; Lộ Bàng, Đại Dịch thổ cũng có chỗ kị, có hỏa là thứ; hỷ thấy Mậu Dần, Ất Mùi Thành Đầu thổ, gọi là khai thác tinh kim ở đất cát sạch, chính là quý cách vậy. Duy chỉ có Bính Tuất thổ trong có tàng hỏa, là kim hỉ thấy, là đồng loại, tối hỷ, thanh khí vi thượng. Hải Trung, Bạch Chá kim có hỏa chế cũng được.
Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm Phong kim
Kiếm Phong kim, Bạch Đế nắm quyền, cương nhờ nung luyện, ánh hồng quang bắn ở sao Đẩu Ngưu, gươm sắc tụ ở sương tuyết. Tạo hóa kim này, không có thủy thì không thể sinh, Đại Khê, Hải thủy, ngày giờ cùng gặp là thượng cách; Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, có Phích Lịch hỏa trợ hoặc được Ất Mão phong lôi mới tốt, nếu không có sấm sét, cũng là Kim bạch Thủy thanh cách vậy. Sinh mùa Thu càng cát, ngày giờ gặp Trường Lưu ở Nhâm Thìn, là nói Bảo kiếm hóa thành Thanh Long, Quý Tị cũng được. Kiếm này không thể biến thông. Nhưng Quý Sửu là kiếm khí xung đầu, rất cát. Tùng Bách, Dương Liễu cũng cát, nhưng nhiều tụ tán; Đại Lâm, Bình Địa sợ có thổ chế, chủ lao khổ. Hỏa thấy Thần Long, là âm dương giao ngộ, như Nhâm Thân gặp Kỷ Sửu, Quý Dậu gặp Mậu Tý, mới là thượng cách. Gặp hai hỏa Thiên Thượng, Lư Trung, không có thủy cứu thì yểu. Các chư thổ thấy nhiều đều không cát, vì bị chôn vùi, chỉ có Bích Thượng, Thành Đầu có chỗ dụng để mài kiếm sắc bén, hai thổ này thì được. Kim hỷ đồng loại, như Nhâm Thân thấy Nhâm Thân, Quý Dậu thấy Quý Dậu, có mộc chế, thì gọi là Bàn căn kém tiết, cho nên khác lợi khí vậy, không có mộc chủ mang bệnh tật. Nói chung, Kiếm Phong chính là kim sắc bén nhất, chỉ cần thủy, không cần hỏa hình, như thấy Dần Tị tam hình, là đại hung.
Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến kim
Thoa Xuyến kim, dùng trang sức làm đẹp, làm rạng rỡ da nhầy, là báu vật thân cận nữ sắc, là báu ngọc gối đầu ngũ thơm, chỗ này là kim tàng ở khuê các, duy chỉ cần thủy tĩnh, Tỉnh Giản, Khê Lưu thủy, thấy đều cát, thấy nhiều thì phiếm lạm, gặp Hải thủy thì bần yểu; thấy Tân Hợi Thiên Hà thủy thì không ngại, Bính Ngọ là chân hỏa, chỗ kị của Canh Tuất, vì Ngọ Tuất thấu thành hỏa cục, cho nên là có hại cho kim này vậy. Thái Dương hỏa sinh ban ngày là hiển diệu, còn Phúc Đăng hỏa thì sinh ban đêm là hiển diệu, cho nên đều cần thấy, nhưng Giáp Thìn Ất Tị cùng Canh Tuất Tân Hợi là tương xung, âm dương giao kiến là tốt, Mậu Tý Kỷ Sửu cùng Bính Ngọ Đinh Mùi là không nhân nhượng nhau, hai hỏa kị trùng điệp, thấy thì không bần cũng yểu. Lư Trung hỏa là tối kị của Canh Tuất, thấy Tân Hợi thì Bính và Tân hợp hóa thủy, hơi cát. Sơn Hạ, Sơn Đầu hỏa đều không nên thấy, nếu có thủy cứu tế, cũng được. Trong trụ có thủy, kim này sẽ nhập vào trong hộp, có phúc quý mới cát. Thấy Sa Trung thổ, là tương sinh tương dưỡng, lại có Giản Hạ thủy trợ giúp, thì vinh hoa phú quý.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Hỏa

Chú thích: Mậu Tý, Kỷ Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Thìn, Ất Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi nạp âm đều là hỏa.

Mậu Tý, Kỷ Sửu: Phích Lịch hỏa
Phích Lịch hỏa, là một luồng hào quang, hiệu lệnh là Cửu Thiên, thế điện chớp giật Kim Xà, nói là Kỵ binh đuổi chạy. Hỏa này cần sự giúp đỡ của Phong Thủy Lôi (gió nước sấm sét) mới thành biến hóa, nếu ngũ hành gặp được một lúc, đều chủ hanh thông. Như ngày giờ thấy Đại Hải thủy, Quý Hợi gọi là Dẫn phàm nhập Thánh, Kỷ Sửu là vi thượng, Mậu Tý là thứ; thấy Ất Mão Đại Khê, là lôi hỏa biến hóa, Kỷ Sửu là cát, Mậu Tý là kị; Thìn Tị là gặp gió chuyển động, gặp càng tốt; Thiên Thượng thủy danh là Ký tế, chủ cát, gặp thì có linh tính, thông minh khác thường, Trường Lưu thì vô dụng, Giản Hạ tuy là tụ vị trí tương khắc, chỗ này là hỏa thần vậy, không kị, có gió cũng hiển. Ngũ hành thấy mộc, Tân Mão có lôi, Đại Lâm có phong, Bình Địa có Thiên Môn, cùng giúp đỡ hỏa này, còn mộc là vô dụng. Thấy Lộ Bàng thổ, thêm Tốn thì cát, Đinh Tị Sa Trung có phong, Kỷ Mão có lôi, được Tỉnh Tuyền trợ giúp, cũng chủ quý hiển. Kiếm kim thêm thủy, Hải kim gặp phong, Chá kim gặp Giản, đều cát, kim còn lại vô dụng. Thấy Lô Trung Đinh Mão là cát, Mậu Tý gặp Bính Dần, quá táo thì tính hung, chủ yểu. Kỷ Sửu thấy Bính Thân lại được, Mậu Tý là kị; Đăng Hỏa, Đông Nam Tốn địa, có phong là rất thích hợp; Mậu Ngọ Kỷ Mùi Thiên Thượng hỏa, ngày giờ nếu gặp, đề phòng hình khắc. Lại khảo sát thêm ở Diệu Tuyển, có bày ra Phong Lôi Vũ cách, tức là Phích Lịch thấy Thiên Hà vậy, có Thiên Địa trung phân cách, tức là Mậu Tý thấy Mậu Ngọ vậy, có Lôi Đình Đắc Môn cách, tức là Mậu Tý Kỷ Sửu, ngày giờ gặp Mão là đúng.
Bính Dần, Đinh Mão: Lư Trung hỏa
Lư trung hỏa, là lò lửa giữa trời đất, là than củi âm dương, ánh sáng bốc lên ở giữa vũ trụ, trở thành nung đúc ở Càn Khôn. Hỏa này là Viêm thượng, hỷ được mộc sinh, duy chỉ có Bình Địa mộc là vi thượng, lấy Bính Dần thấy Kỷ Hợi, gọi là Thiên Ất quý, thấy Mậu Tuất, gọi là quy khố, cho nên cát, Đinh Mão là thứ. Nhưng Bính Dần là hỏa tự sinh, không có mộc để tựa, Đinh Mão là hỏa tự bại, nếu không có mộc thì hung, mà hỏa này lấy kim làm dụng, được thêm kim đến, mới ứng cơ hóa, nhưng Đinh Mão không có mộc mà lại gặp kim, chủ mệnh lao khổ. Nói Dần kiến mộc nhiều hỏa, viêm mà không có thủy chế, chủ yểu, thấy 3 Mão, 2 mộc thì không ngại, như Canh Dần Tân Mão là nói tương sinh, Nhâm Ngọ Quý Mùi là hóa chân hỏa, thấy Dần nhiều chủ hung bạo hoặc tật yểu. Nếu trời đất vốn có thủy chế, cũng chủ trung thọ, Đinh Mão không ngại. Hỏa này tuy hỷ được kim là Tài, ở trong Kiếm kim thấy Dần hơi được, Đinh Mão hỏa đã tự bại, lại đến Thân Dậu mà tử tuyệt, làm sao mà khắc! Không bần cũng yểu. Các loại kim như Hải Trung, Sa Chá, cần giúp mộc sinh, mới hỷ thấy, Soa Bạc kim là vô dụng. Thấy thổ trước tiên phải có kim và mộc, nhưng hỷ có đủ thổ, không đến nỗi quá khô táo. Như Thành Đầu, ốc Bích thổ đều thành khí, mới thích thấy thủy, trong mệnh trước tiên là thích mộc, không bằng hỷ gặp nhiều hỏa. Thiên Thượng thanh thủy, mậnh Dần gặp là cát, trong Mão không có mộc thì lo; Đại Hải, Bính Dần thấy Nhâm Tuất là phúc khố, thấy Quý Hợi là Quan tinh, mang hợp thì nửa hung nửa cát; Tỉnh Giản, Khê Lưu thủy đều hung, có mộc thì không luận ở đây. Hỏa thấy đồng loại, nếu trên tháng ngày suy bại thì cát; Phích Lịch hỏa bản tự là vô ích, nếu có mộc sinh, ngày giờ lại có Hải thủy thì tốt, không có mộc gặpp thủy, thì hung; Thiên Thượng hỏa cần có Ốc Thổ chận, Đăng hỏa Tốn phong, lại là khích lệ, Vong Thần phải kiêm tạo hóa, đoán như Bính Dần, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Bính Dần là hỏa vô khí, không mất đại quý, như Bính Dần, Giáp Ngọ, Kỷ Tị, Bính Dần thì phiêu phiếm bất an.
Giáp Thìn - Ất Tị, Phúc Đăng hỏa
Phúc Đăng hỏa, là kim ngọn đèn chiếu sáng, là đài châu ngọc nhả ra xinh đẹp, theo chỗ Nhật Nguyệt không theo, sáng khi lúc trời đất không có sáng. Hỏa này chính là hỏa sáng ở ban đêm trong nhân gian, lấy mộc làm trung tâm, lấy thủy làm dầu, gặp âm thì cát, gặp dương thì bất lợi. Phàm ngày giờ tối kị lại thấy Thìn Tị, địa chi có xung, e rằng gió thổi tắt đèn, chủ yểu. Hoặc lấy Tuất Hợi, Tý Sửu là âm, hoặc lấy từ Mùi đến Hợi là âm. Ngũ hành thấy mộc là bản căn, phàm mộc đều là tốt, gặp thêm Quan tinh, Lộc quý giúp nhau, can đầu hóa thủy, càng cát; vận hạn gặp tương trợ, là đại quý. Lấy Tỉnh Tuyền thủy, Giản Hạ thủy là chân dầu nhớt, dầu chảy dài, ở Diệu Tuyển có Ám Đăng thiêm Du cách, tức là lý này vậy; Đại Hải, Hà thủy thì không thể lấy làm dầu nhớt, gặp là tầm thường. Nói chung hỏa này, thấy thủy phải giúp mộc, không thích trường sinh vượng khí, thủy quá phiếm, lại hung. Mệnh gặp Bạc kim chiếu diệu, rất là thanh quý, cũng cần thủy mộc giúp nhau, mới có thể hiển đạt; Sa Trung, Soa Xuyến hai kim này đều cát; Kiếm Phong kim, gọi là Đăng hoa phất Kiếm, càng cát; Chá kim thì không hợp. Ngũ hành thấy thổ, phải đề phòng khắc phá. Nếu là Bích thổ có thễ an thân, Ốc thổ thì có thể có phúc ấm, ngày giờ cùng thấy, chủ phúc quý, Sa thổ có mộc, cũng có y thực, thổ còn lại là vô dụng. Hỏa yêu đồng loại, lại sợ gió thổi. Phích Lịch là hỏa Thần Long biến hóa, tất là mang gió đến, thì hỏa này khó mà tồn tại; Thiên Thượng, Lư Trung 2 hỏa này nếu cùng thấy, là tối hung. Lại tra thêm Diệu Tuyển, có Khôi Tinh cách, Chỉ Nam cách, lấy người sinh Giáp Thìn, ngày giờ gặp Ngọ Mùi là đúng; có Hỏa Thổ nhập Đường cách, lấy hỏa này sợ gió, ngày giờ gặp Bính Tuất Đinh Hợi Ốc Thượng thổ, thì dđèn ở trong nhà, lại có thêm dầu, là càng quý.
Mậu Ngọ - Kỷ Mùi, Thiên Thượng hỏa
Thiên Thượng hỏa, làm ấ áp núi sông, chiếu sáng vũ trụ, Nhật (mặt trời) đức chiếu sáng đẹp đẽ ở trên trời, Nguyệt Tinh (Mặt trăng và các vì sao) cách ly chiếu sáng ở trên biển, Mậu Ngọ là Thái Dương thì cương, Kỷ Mùi là Thái Âm thì nhu, hoặc lấy lấy Nhật ở mùa hạ thì cương, Nhật ở mùa đông thì ôn nhu, là vu khống vậy. Đều yêu cầu Tuất Hợi là Thiên Môn, Mão Dậu là cánh cửa xuất nhập, đông nam là hành lục địa thì cát. Hỏa này thấy mộc gọi là Chấn chiết, ngày giờ cần có phong cùng thủy mới được. Đại Lâm mộc có Thìn Tị, Tùng Bách, Thạch Lựu có Mão Dậu, cho nên duy chỉ có 3 mộc này là quý. Ngọ thấy mộc nhiều vẫn còn được, 3 Mùi, 4 mộc, là mệnh lao khổ vậy. Thấy kim mà có thể chiếu sáng, không thể khắc cứu. Soa kim có Tuất Hợi, Bạc kim có Dần Mão, chủ cát; thấy kim là Nhật Nguyệt chiếu sáng, tất chủ thiếu niên đăng khoa đệ; kim còn lại thì tai ương. Thủy cần Giản Hạ, cần Mậu Ngọ thấy Đinh Sửu, Kỷ Mùi thấy Bính Tý, âm dương giao hỗ nhau, mới là phúc quý, trong trụ có thêm mộc giúp sinh, phú quý song kim; Đại Khê có Ất Mão, Tỉnh Tuyền có Kỷ Dậu, có cửa xuất nhập, đều cát; Thiên Hà Vũ lộ cứu nhau, không lấy vị trí khắc luận, Mậu Ngọ thấy Đinh Mùi, cũng cát, Bính Ngọ thì không sáng. Hỏa thích Đăng đầu, lại có hỏa khác thì khô táo; Phích Lịch mang mây mưa thì Nhật Nguyệt không có ánh sáng, cho nên chủ hôn mê ngu muội; Lư Trung Ngọ kị Bính Dần, Tị Ngọ là cương hỏa, mới thấy Bính Dần, thì là đất hỏa sinh, nếu không có thanh thủy giải cứu, chủ phạm hình hung tử, Đinh Mão thì hơi được; thổ thấy Sa Trung, có Tốn làm phong; Lộ Bàng, Thành Ốc đều cát, trong trụ có thêm kim mộc trợ nhau, càng cát. Khảo sát Diệu Tuyển, Mậu Ngọ gặp Mão, Kỷ Mùi gặp Dậu, là Nhật Nguyệt phân tú cách, mà Mão lấy Ất Mão, Tân Mão là chính, Kỷ Mão, Đinh Mão là thứ, Dậu lấy Ất Dậu, Quý Dậu là chính, Kỷ Dậu, Đinh Dậu là thứ; có Nhật xuất Phù Tang cách, tức là Nhật phân tú cách, ngày giờ lại thấy Tị Ngọ; có Nhật luân Đương Biểu cách, lấy Mậu Ngọ sinh ở Ngọ, ngày gặp ngày Tị Ngọ, lại lấy Mậu Ngọ thấy Mậu Tý là chính vị trí Khảm Ly; có Nguyệt sinh Thương Hải cách, tức là Nguyệt phân tú cách, mà Dậu được Ất Quý là vậy; có Nguyệt chiếu Hàn Đàm cách, là thủ Nhâm Quý Hợi Tý, nạp âm thuộc thủy là Đàm, nhưng tất phải sinh mùa thu mới quý; có Nguyệt Quế phân phương cách, người sinh là Kỷ Mùi, trụ có 3, 4 mộc củng tập, cùng giống Quế Lâm cách, cùng Quế Lâm Tị ít mới quý, Phân Phương Tị nhiều là quý, nghĩa đều có chỗ dùng vậy. Lại xét trong hung cách, Thái Dương tổn ánh sáng, Mậu Ngọ không chịu được ở thủy tràn, là sợ thủy thịnh; Thái Âm bạc thực, Kỷ Mùi sao kham ở thổ nhiều chứ? Là sợ thổ trọng vậy. Cần phải tham khảo cùng như thế, mới hiểu hết lý.
Bính Thân - Đinh Dậu, Sơn Hạ hỏa
Sơn Hạ hỏa, ánh sáng rực chiếu cây cỏ, hoa Lý lóa sáng, ánh sáng chiếu rừng cây xen cành lá, màu sắc ngăn cách màn che điểm trên quần áo, Phương Sóc lấy danh là Huỳnh Hỏa, cho nên trong Diệu Tuyển có Huỳnh Hỏa chiếu Thủy cách, sinh gặp mùa thu thì quý hàng Khanh Giám, là vì hỏa này hỷ thủy, địa chi phùng Hợi Tý, hoặc nạp âm thủy gặp thêm tháng Thân Dậu là vậy. Hoặc vì Sơn Hạ hỏa tối hỷ mộc và sơn, lại gặp gió đến tăng thêm ánh sáng là quý, thì không lấy Huỳnh Hỏa luận vậy. Đại Lâm mộc có Thìn Tị là phong là gió, Tang Chá mộc có Quý Sửu là sơn, Tùng Bách Bình Địa là tối cát, lại thêm phong trợ giúp, chủ quý, nếu gió nhiều thổi tán, là chủ yểu. Thủy thích Tỉnh Tuyền, Giản Hạ, có mộc trợ giúp, chủ tước vị hiển cao, Đại Hải thủy thì không hợp, nhưng có sơn (núi) cũng ứng quý cách. Dần Mão là đông phương đất mộc vượng hỏa sinh, chỉ có Giáp Dần mới cát, Ất Mão là Chấn, có phong, thấy không tốt. Nếu không có hỏa không có sơn, lại thêm Phích hỏa, chủ yểu. Thiên Thượng thủy là mưa rào, hỏa này không thích thấy, nếu trước có sơn thủy trợ giúp, cũng không đại hại. Mệnh lý có kim, lấy thanh tú là cát, không có gặp nhiều mộc, lấy cướp khí mà luận. Ất Sửu là sơn, chủ quý; kim còn lại nếu không có khắc phá, gặp Quý nhân Lộc Mã, chỉ lấy Tài luận. Thổ thấy Sa Trung, Thìn Tị có phong, nếu có mộc có sơn trợ thêm, chủ đại quý, không có thì hư danh. Hỏa kị Thái Dương, Phích Lịch, Đăng Đầu, Tốn là chủ phần đa là quang hiển. Ngũ hành có hỏa, cần mộc giúp là cát, hạn số hỷ kị, đều theo chỗ này mà đoán.
Giáp Tuất - Ất Hợi, Sơn Đầu hỏa
Sơn Đầu hỏa, cũng là nguyên liệu đốt cháy, cháy lan hết tầm nhìn, là ánh tà dương đi theo phía chân trời, mặt trời lặn phảng phát trên đỉnh núi, chỗ này chính là tháng 9 khai hoang, cây cỏ suy hỏa tàn lụi vậy. Đại khái cần sơn mộc và phong mộc, hỷ Đại Lâm, Tùng Bách, lấy Thìn Tị có phong, Dần Mão là quy lộc, lại thêm Quý Sửu là cây cỏ trên núi, chủ quý. Không có sơn thì mộc không có nơi nương tựa, thì hỏa không có chỗ thấy, dẫu có gió cũng không hiển quang, mộc còn lại thì vô dụng, chỉ lấy Lộc Mã mà xem. Thủy hợp với Giản Hạ, đa số là giao Thái (tốt), chủ cát, Tỉnh Tuyền là thanh thủy, có mộc trợ giúp, cũng cát; Đại Khê, Giáp Tuất thấy Giáp Dần, Ất Hợi thấy Ất Mão, lại là chân Lộc, đều cát; Thiên Thượng cần có mưa sương, mà hỏa đến Ngọ Mùi là đắc địa, lại được thanh thủy cứu giúp, không đến nỗi khô táo, chủ phúc, nếu không thì yểu; Đại Hải vừa đúng chỗ tương khắc, tối hung, có gặp sơn, hơi được. Ngày giờ thấy kim là Tài, phải có sơn mộc trợ giúp thì cát, không có thì hung. Thấy thổ duy chỉ có Sa Trung là có Tốn, có thể giương cao hỏa này, thổ khác là vô ích. Nói chung, hỏa này không có mộc thấy hại, đa số là mệnh hạ tiện. Thấy Lư Trung hỏa quá viêm, Phích hỏa là hung hại, Thái Dương là hôn muội, Sơn Hạ thì hình chiến, đều là chỗ không thích hợp, mệnh mang 2, 3 hỏa, như hạn số phùng mộc, chủ họa sinh bất trắc, hoặc yểu, phần lớn hỏa này rất sợ gặp hình xung.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Nạp âm Mộc

Chú thích: Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, nạp âm đều là mộc.
Nhâm Tý - Quý Sửu, Tang Chá mộc
Tang Chá mộc, là khởi đầu tơ dệt, cội nguồn tơ lụa, tà áo tung bay của nhân dân, chỗ thánh hiền mặc, mộc này cung cấp là từ khung dệt tơ tắm, sử dụng rất nhiều. Thích nhất là Sa thổ, Tị là căn cơ, lại lấy Thìn Tị là đất tằm ăn, không nên hình xung hỗ phá, Lộ Bàng, Đại Dịch hai thổ này là thứ cát, thổ còn lại là vô ích. Thủy hỷ Thiên Hà, là mưa sương giúp đỡ, Trường Lưu, Khê Giản, Tỉnh Tuyền các loại thủy này đều có thể dựa theo nhau, cũng cần trước có thổ làm gốc, lại thêm Lộc Quý là kỳ diệu, Thương Hải thủy phiêu phiếm vô định, không có thổ thì chủ yểu. Thấy Đăng Đầu hỏa là tối cát, cho nên cũng lấy gặp Thìn Tị làm vị trí tằm ăn vậy; Lư Trung vị trí cư Dần Mão, đất mộc vượng; Thiên Thượng, Phích Lịch 2 hỏa cùng mộc này can chi có tình hợp hóa, có Khảm Ly giao cấu là kỳ diệu, đều cát, nhưng các hỏa này không nên thấy nhiều. Lấy kim nói, thì Sa Trung là đệ nhất, Kiếm Phong có thể tu chỉnh mộc này, là thứ, Soa Bạc 2 kim cần gặp thổ làm căn cơ, như phùng xung phá, thì hung. Mộc hỷ Canh Dần Tân Mão, là lấy nhược tựu cường, lấy nhỏ biến lớn, lấy quý cách luận, dẫu không có Sa thổ, cũng cát; Bình Địa, Thạch Lựu, không có thổ thì hung; Đại Lâm là hướng đông nam vị trí tằm ăn, có thổ giúp sinh, chủ đại quý; gặp Dương Liễu là Tang Liễu thành lâm, cũng là quý cách, cần sinh mùa xuân hạ mới cát.
Canh Dần - Tân Mão, Tùng Bách mộc
Tùng Bách mộc, là dội tuyết góp sương, chọc trời che đất, gió lay động tấp thành khèn trúc, bày ra mưa bên ngoài chuôi cờ. Mộc này tàng ở dưới kim, bày ở vị trí chính đông, chính là cực vượng, tối hỷ sơn làm căn cơ, thủy để thấm nhuận. Thiên Hà thủy mưa sương có thể làm thấm nhuận, Giản Hạ Đinh Sửu thuộc sơn, có thể làm căn cơ, Bính Tý không bằng Đại Khê có Ất Mão là lôi, có thể phát vinh, lại sợ gió sét, có gãy ngã là hung; Đại Hải thủy có sơn thì cát, Quý Hợi thanh tĩnh không có sơn, cũng cát. Nếu trụ có Bình Địa, gặp Ốc thổ, thì là lấy thành đống lương, không dụng sơn thủy. Không có hai sự kiện này, là giữa núi có mộc xanh tốt vậy, cũng cần có sơn thủy. Trong mệnh có hỏa, tối kị Lư Trung, thì nói tương sinh, lại thêm phong mộc, thì tan thành mây khói, ngũ hành không có thủy, chủ yểu chiết; Sơn Đầu, Sơn Hạ, Thái Dương, Phúc Đăng đều không thể phạm; người Dần càng kị Mậu Ngọ, Bính Dần, vì mộc không bồn hướng nam, là do Dần Ngọ tam hợp hỏa cục vậy, Tân Mão thì không có hại; Phích hỏa tuy có thể giúp sinh, vận gia thêm hỏa, chủ hung. Thổ kiến Lộ Bàng, tự không đủ quý, nếu không có tử mộc, phúc vẫn còn; Dịch thổ không có sơn thì bần yểu, lại thêm Hải thủy, càng hung. Kim phùng Ất Sửu, là Ấn là sơn; Bạc kim thì là vị trí tự vượng, chủ cát; Kiếm Phong có thể đẽo có thể đục, lại gặp Bích thổ tương thành, Tùng Bách giúp nhau, là chủ quý. Đại Lâm có phong, Dương Liễu hội hỏa, 2 mộc này là tối kị; Tang Chá Quý Sửu là sơn, có thể tương trợ; Thạch Lựu là Tân Dậu kim lại hóa thành Tử mộc, có tạo hóa, lại là cát. Diệu Tuyển có Thương Tùng đông Tú cách, là lấy người sinh mộc này có tháng ngày giờ thuộc tam đông là quý; có 2 cách Nhật hợp Tân Mão, Nhật trị Canh Dần, tuy thủ Mậu Ngọ Kỷ Mùi, sinh ở mùa hạ thu, vẫn chuyên luận mộc này là quý.
Mậu Thìn - Kỷ Tị, Đại Lâm mộc
Đại Lâm mộc, gió lay cành khô, cành nhánh đội trăng, đức hạnh hiên ngang ngẩng cao nhìn trời, có công ngó thẳng che ngang mặt trời. Mộc này sinh ở đông nam, giao mùa xuân hạ, nuôi dưỡng thành rừng, Cấn thổ là nguồn gốc sinh kim, Quý Sửu là sơn, Tam mệnh không có phá hãm, là đứng đầu phúc hậu quyền quý, Mậu Thìn là vi thượng, Kỷ Tị là thứ. Thổ gặp Lộ Bàng, là phụ tải, Mậu Thìn kiến Tân Mùi là quý, Kỷ Tị kiến Canh Ngọ là lộc, chủ phú; 2 thổ Bích, Ốc, lại gặp Kiếm kim, thì thủ Đại Lâm mộc là đống lương, thành cách tối cát, không có chỗ này chính là mộc xinh tốt ở giữa núi vậy. Mộc này không có luận Tử hay Hoạt mộc, đều muốn thấy thổ, như người Kỷ thấy Giáp, tuy là nói hóa thổ, nhưng không bằng Thìn Tuất Sửu Mùi, thổ cục thuần kim là vi diệu. Nếu mộc này lấy tử ở dưới sơn; thấy Giáp Tuất Ất Hợi đốt, là chủ hung yểu; Đăng hỏa là vị trí tương sinh, Ất Tị không bằng Giáp Thìn càng cát; Phích Lịch, Thái Dương 2 hỏa này đều có thể sinh trưởng trong vận, gặp thì cũng cát, nhưng 2 hỏa này sợ cùng thấy, cầm thắng cần có thổ làm căn cơ mới được. Thấy Thiên Hà thủy, Mậu Thìn kiến Đinh Mùi mang quý, tuy không có thổ và sơn, cũng là có y thực, tức linh hoạt theo nhập Thiên Hà cách vậy, sinh ở thu đông là phương tử tuyệt; Khê, Hải 2 thủy này thấy nhiều, chủ bần yểu, có sơn thì được. Diệu Tuyển có Thương Long giá Hải cách, là Mậu Thìn thấy Quý Hợi là quý, Giản Hạ Đinh Sửu là tối cát, Bính Tý thì không bằng. Các chư kim khác đều không nên thấy, Hải Trung có Ất Sửu là sơn, Kiếm Phong có Ốc Bích là bản, còn lại kim khác là vô dụng, phùng thì chủ yểu tiện. Mộc hỷ Tang Chá, duy chỉ có Quý Sửu là tối diệu; Bình Địa vẫn cần có Lộ Bàng thổ, gọi là Bình Lâm tại dã; Tùng Bách, đông phương đất sinh vượng, trụ có Quý Sửu mà gặp Tùng Bách là phúc ấm dày, rất tốt.
Nhâm Ngọ - Quý Mùi, Dương Liễu mộc
Dương Liễu mộc, là dáng vẻ mềm mại trên đê, vườn uyển mềm mại, không tơ tằm vạn sợi, nghìn nhánh không đeo kim châm, Ngọ Mùi mộc ở tử mộ, Nhâm Quý mộc được thấm nhuận. Mộc này căn cơ duy chỉ có hỷ Sa thổ, thấy Cấn sơn thì dựa theo mà lay động kim, gặp Dần Mão đông phương đắc địa; Tân Sửu có sơn, Canh Tý không bằng; Mậu Dần tuy cát, Kỷ Mão thắng hơn; Bính Thìn Đinh Tị lại sợ Tuất Hợi đối xung; nếu thấy Đại Dịch, có Sửu là trạm dịch bên núi, hơi được, không có Sửu chỉ thấy thổ này, chủ yểu tiện; Lộ Bàng thì vị trí lại gặp tử mộ, ngày giờ gặp, chủ người yếu hèn; Ốc thổ Nhâm Ngọ thấy Đinh Hợi, Đinh Nhâm hợp hóa thì cát, Bính Tuất không bằng. Thấy Tỉnh Tuyền, Trường Lưu, Đại Khê, Giản Hạ thủy đều cát, trung gian lại chia vị trí hợp hóa, càng cát. Bính Ngọ Đinh Mùi, Bính Đinh là chân hỏa, Ngọ Mùi cũng là hỏa, mộc này đến Ngọ Mùi là tử mộ, thấy Nhâm Ngọ, là đại hung, Quý thứ Kỷ có phân biệt, thủy cứu là vô hại; mộc này lấy chữ Ngọ Mùi có hỏa, lại thấy hỏa khác, e rằng dẫn đến thọ thương, Đăng Đầu Ất Tị có phong mộc gãy, chủ yểu; Lư Trung Dần Mão là bản vị, mộc vượng lại cát; Phích hỏa như Nhâm Ngọ kiến Kỷ Sửu, Quý Mùi kiến Mậu Tý, âm dương giao ngộ, lại có Sa thổ là gốc, chủ quý, nếu Tý Ngọ Sửu Mùi đối xung thì không cát. Kim thấy mộc là không có tạo hóa, Soa Xuyến, Kim Bạc lại hỷ thành công, Hải, Chá, Kiếm, Sa tuy là kị thấy, tong đó khinh trọng nên lấy Lộc Quý Đức Sát, tham khảo kỷ nếu thấy Tùng Bách mộc, cách Thoát Thể hóa Thần vậy, là quý. Tang Chá Quý Sửu là sơn, lấy dựa vào thành rừng, là cát; Canh Thân Tân Dậu mộc đã tử tuyệt, lại phùng kim khắc, đã nhược gặp nhỏ, người tất là tiện. Diệu Tuyển có Hoa Hồng Liễu Lộc cách, là lấy mộc này gặp Thạch Lựu, sinh ở mùa xuân hạ, thì không lấy tiện luận; có Dương Liễu Tha Kim cách, là lấy mộc này sinh ở mùa xuân mà giờ được một kim, Tân Hợi, Giáp Tý, Quý Mão, Tân Tị là tối diệu, là vì đất Nhâm Quý Lộc Quý vậy.
Canh Thân - Tân Dậu, Thạch Lựu mộc
Thạch Lựu mộc, tính cay như gừng, hoa hồng như lửa, đầu có mấy khối tròn, tích lũy nhiều hạt, bên trong lóng lánh, can chi thuần kim mà nạp âm thuộc mộc, là mộc biến hóa vậy. Có thể dời bên trong chậu mà trang trí làm núi, cho nên thành khí thổ, lấy làm căn cơ, Thành Đầu là vi thượng, Ốc Thượng là thứ, nhưng mà nhất định thấy âm dương giao kiến, thì Bính Tân Đinh Canh hỗ Quan, Mậu Tân Tị Dần hỗ Ấn, chủ cát; Lộ, Bích, Dịch, Sa tứ thổ có sơn trợ giúp, cũng cát, nếu không có thì dụng thế nào? Thấy Sa Trung kim là tối cát, Bạc kim can chi là thủy mộc mà nạp âm là kim, Lựu mộc can chi kim mà nạp âm mộc, đều thoát đi bản tính mà hỗ hoán quy vượng, lấy mộc vượng ở Dần Mão, kim vượng ở Thân Dậu, đều là đắc vị, gọi là Công ngang tạo hóa cách, chủ đại quý; Hải Trung Ất Sửu là sơn, lại gặp thủy trợ thì cát, hoặc Bích Thượng, Thành Đầu, cũng được, gặp Kiếm Phong, thì là vị trí tương khắc, tối hung, nếu trước có Sa kim, có thể chế độc, cũng không là hại. Thấy Thiên Hà thủy, sương mưa giúp nhau, Tỉnh Tuyền, Khê Giản, là thanh thủy tưới nước, Đại Hải thì quá phiếm lạm, không bần thì yểu, có Cấn thổ hơi được. Thái Dương, Phích Lịch 2 hỏa này tuy là hỷ, nhưng không nên cùng thấy; Lư Trung vị trí Dần Mão vượng, vốn cát, lại thêm có hỏa khác thì hung. Nếu mộc này sinh ở tháng 5, ngày giờ chỉ mang một hỏa, gọi là Thạch Lựu phún hỏa, chủ quý. Tang Chá, Đại Lâm, Dương Liễu 3 mộc này đều hỷ thấy, thấy Đại Lâm Mậu Thìn là thoát thể, thấy Dương Liễu Hoa Hồng Liễu Lục, đều chủ công danh; thấy Tang Chá Quý Sửu là sơn, thấy Tùng Bách thì cường, thấy Bình Địa thì lớn, nếu không có vật khác bác tạp, thì Lộc quấn quanh đỏ hồng, cũng chủ phú quý, như được Thành thổ là gốc, vận thủy là trợ, ưu du hưởng phúc, rất là lâu dài.
Mậu Tuất - Kỷ Hợi, Bình Địa mộc
Bình Địa mộc, mới nảy sinh chồi, cành lá mới phát, duy chỉ mưa sương có công giúp cho, không hỷ tích lũy nhiều tuyết sương, chỗ này chính là vật liệu tốt ở trên mặt đất, nhà của mộc ở nhân gian. Mậu Tuất là đống, Kỷ Hợi là lương, tối thích cùng thấy lẫn nhau, cần lấy thổ làm căn, thổ thích Lộ Bàng, là chính cách, gặp thêm Tý Ngọ, càng quý, lấy Tý Ngọ là vì trụ chính của trời đất vậy; Ốc, Bích, Thành Đầu 3 thổ lấy trợ giúp cho mộc này, bên trong có hóa thăng, càng cát; Sa, Dịch là vô dụng, ngày giờ thấy, chủ tai họa; Thái Dương, Phích Lịch, rất là hiển diệu, Lư Trung gặp thủy thì phúc, Đăng Đầu không có phong thì kiên cố, hỏa còn lại không có thủy thì hung; chỗ này mộc đã thành, không nên thấy Kiếm kim, có mộc giúp nhau thì được; Bạc kim tăng sức rạng rỡ, thiên can lại hợp, địa chi vượng, có thêm Bàng Thổ làm căn, chủ đại quý. Kim còn lại đều vô dụng. Thấy Thiên Hà thủy, là nhuận trạch, chủ cát; Khê, Hải không có sơn đều hung; Tỉnh Tuyền, Giản Hạ tuy cát, bên trong có Giáp Thân hợp Kỷ Sửu là sơn, gặp thì càng cát. Thấy Đại Lâm mộc, có gió lay động, chủ ngắn thọ; Tang Chá Quý Sửu là tối cát, Nhâm Tý Kỷ Hợi người thấy là quý, người Mậu Tuất là bất kham; Tùng Bách mộc dựa vào phụ giúp Bình Địa thành đống lương, có thêm thổ trợ, chủ quý. Nói chung, mộc này sợ kim mà thích thủy, thổ, nếu sinh mùa đông, được Dần Mão là Hàn cốc hồi Xuân, cũng luận quý vậy.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Nạp âm Thổ

Chú thích: Canh Tý, Tân Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Bính Thìn, Đinh Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi nạp âm đều là thổ.

Canh Tý - Tân Sửu, Bích Thượng thổ
Bích Thượng thổ, là đống y lương, hưng môn lập hộ, lại có đức nóng chống hàn, có công chận sương hộ tuyết. Đây là bức tường đất ở nhân gian, không phải Bình địa làm sao có chỗ dựa? Tý Ngọ, là trụ chính của trời đất, gặp thì càng là cát khánh. Phàm thấy mộc đề có thể làm chủ. Canh Dần Tân Mão cũng là đống lương, chỉ có Thân Dậu xung phá, Tý Mão tương hình; Đại Lâm có phong, nếu không nhận thổ tải, phàm thêm hỏa, chủ làm việc khó thành, bần tiện mà còn yểu. Thổ thích Lộ Bàng, gọi là Phụ tải, Ốc Thượng, Thành Đầu có thể hộ thân, đều cát. Thấy hỏa thì hoàn toàn không có tạo hóa, Thái Dương, Phích Lịch tuy nói là chiếu rực rõ, rốt cuộc là không thuận lợi nguy hiểm, nếu trước mệnh đã thấy mộc, gặp hỏa trợ, quỷ đốt vận khắc, lại tiếp tục gặp, chủ họa hoạn yểu chiết, trụ có thủy cứu tế, hơi được. Thủy thấy Giáp Thân là tối cát, Ất Dậu là thứ; Thiên Thượng vũ lộ, cũng cát; Đại Hải phù phiếm, thổ này sao mà yên? Dẫu có căn cơ, cũng hung. Kim duy chỉ có thích Bạc kim, mệnh lý trước có mộc thần thì quý, lấy thành cung thất mà nguy nga lộng lẫy, không phải triều đình thì không dám sử dụng vậy; Kiếm kim thương hại, còn lại kim khác đều vô dụng.
Mậu Dần – Kỷ Mão, Thành Đầu thổ
Thành Đầu thổ, là tường ngọc kinh đô, hoàng đế trong đô thành vàng, hình dáng mâm Rồng nghìn dặm, thế hùng cứ Tứ Duy. Thổ này có thành có không thành, lấy cả hai bàn luận. Phàm gặp thấy Lộ Bàng, là lấy tường thổ, bất tất phải dụng hỏa, nếu không có Lộ Bàng, thì không phải tường thổ, tất cần dụng hỏa; phần lớn tường thổ đều cần mộc giúp, Dương Liễu Quý Mùi là tốt nhất, Nhâm Ngọ thì kị; Tang Thác Quý Sửu là vi thượng, Nhâm Tý là thứ; Canh Dần Tân Mão thì là vị trí tương khắc thì tường sụp không yên, làm sao mà người yên chứ? Như thấy mộc không co kẹp phụ, chỉ lấy Quý nhân Lộc Mã mà luận. Thấy thủy có sơn là hiển quý, Giáp Thân, Đinh Sửu đều cát, Thiên Hà trợ giúp, cũng cát, duy chỉ kị Phích Lịch, Đại Hải, Nhâm Tuất không kị, hợp hóa đều là cát. Thổ rất thích Lộ Bàng, phòng thấy các chư hỏa, Đại Dịch phùng sơn, cần lấy quan quý, nếu chỉ thấy mà không có căn bản, bần yểu cô hàn. Ngũ hành thấy kim, chỉ có Bạch Chá, sợ Tốn, cả hai đều làm trở ngại, kim còn lại đều vô dụng, cũng cần phải lấy Quý nhân Lộc Mã mà xem.
Bính Thìn - Đinh Tị, Sa Trung thổ
Sa Trung thổ, là chỗ tích lũy sóng bồi, sóng cồn mà thành, là cung Long Xà ẩn nấp, đất khe đồi biến thiên. Thổ này thanh tú, duy chỉ có hỷ nuôi dưỡng kim thanh, lại mắc phạm thổ tinh khiết, chủ sớm quý; Soa, Sa, Kiếm, Bạc 4 kim này thanh tú tương trợ, như người Bính thấy Tân Hợi là Bính Đinh nhập vào cung Càn, hiệu viết là Giá Hải trường Hồng, lại có luận Tinh củng hướng Bắc, đều là quý cách vậy, lại gặp thủy hàm chứa, là càng thượng cát, nếu không có thủy mà ngày giờ có Thiên Thượng hỏa chiếu, cũng được, như Bính Thìn, Ất Mùi, Quý Dậu, Mậu Ngọ, mệnh này có 2 kim sinh dưỡng, lại hoàn toàn không có thủy, được Thái Dương hỏa chiếu, cho nên quý; như Đinh Tị, Quý Mão, Kỷ Mùi, Nhâm Thân, mệnh này có 2 kim tư dưỡng, được Thiên Thượng hỏa chiếu, cũng quý. Nhưng Mậu Ngọ quá khô táo, Kỷ Mùi hơi trì hoãn, thọ yểu không giống nhau. Thủy lấy Tỉnh Giản thanh khiết là cát, nếu có kim để dưỡng, là quý; như thổ này lấy được kim dưỡng mà ngày giờ có Hải thủy liền phá tạo hóa, Quý Hợi khinh thanh, người Bính thấy vận hạn, gặp cũng chủ vinh hiển, thủy còn lại là vô dụng. Hỏa hỷ Thái Dương, ở hiệu cách là Chu Tước đằng Không, chủ quý; Sơn Đầu, Sơn Hạ, Lư Trung, Phúc Đăng chư hỏa nếu không có thủy cứu, chủ yểu thọ. Mộc viên Tang Thác, Dương Liễu, là do lấy thổ này có thể tải hai mộc vậy, mộc còn lại thì lấy Lộc Mã Quý nhân tham khảo, như mộc ở ngày bị hình phá xung khắc, tuy thấy thì có tạo hóa thế nào? Không bằng không có là cát. Ngũ hành tối kị thổ tương hình, Lộ Bàng là an thân, có kim mộc tư sinh, cũng chủ phúc khánh; Đại Dịch lui tới, rất không nên thấy, dẫu có kim thủy cũng hung, thổ còn lại đều không phải cát.
Canh Ngọ - Tân Mùi, Lộ Bàng thổ
Lộ Bàng thổ, là đường đi nối liền trên mặt đất, bình điền vạn khoảnh, trồng lúa dựa vào để tư sinh, cây cỏ được xanh tốt. Chỗ này chính là hỏa ấm thổ ôn, là thổ nuôi dưỡng vạn vật vậy, cho nên cần có thủy trước tiên, luận là tưới nước thấm nhuận, thứ là càng cần thủy hóa là vi diệu, lại được kim đến tương trợ, thì trồng lúa thành hạt. Như Canh Ngọ kiến Giáp Thân, Tân Mùi kiến Ất Dậu là lộc, nếu không có xung phá, chủ sớm quý; Thiên Thượng thủy là vũ lộ tương tư, Canh Ngọ hỷ kiến Đinh Mùi, Tân Mùi hỷ kiến Bính Ngọ, là Quan quý Lộc hợp rất hay; Giản Hạ Canh Ngọ kiến Đinh Sửu, là Quý Lộc giao trì, Tân Mùi kiến Bính Tý, hóa thủy phùng sinh; Đại Khê Ất Mão là Lôi, có thể phát sinh, thổ này lại có Ất Canh hợp hóa, cho nên đều là cát; Trường Lưu, Đại Hải 2 thủy này không thể lấy tưới nước, cho nên thổ này là tối kị, chủ hung yểu. Hỏa phùng Phích Lịch, Canh Ngọ kiến Kỷ Sửu, Quý Lộc giao xuyên, Tân Mùi kiến Mậu Tý, Ấn Quý triều dương, đều cát, Thiên Thượng hỏa thì là ở vị trí tương sinh, quá khô táo thì thổ lại không thể sinh vạn vật, có thủy nhuận là được, nếu độc thấy, chủ yểu; Lư Trung hỏa cũng khô táo, cũng chủ tổn thọ; Đăng Đầu có Ốc thổ, mới ứng tạo hóa, danh là Siêu phàm Nhập Thánh, nếu không cũng hung. Thấy mộc có thể phát sinh, nhưng có Quý nhân Lộc Mã thì cát, hình sát xung phá thì hung. Chỉ có Canh Dần mộc, gặp thổ này rất tốt, Đại Lâm không thể thắng hơn, như thổ không thấy Bính Thìn, Bính Tuất, Tân Sửu, Tân Mùi, đều cát; nếu Canh Ngọ thấy Tân Mùi, Tân Mùi thấy Canh Ngọ, gọi là Nhị Nghi quý Ngẫu, không có không quý. Soa Xuyến, Sa Trung 2 kim này có thể tư trợ, cùng thấy thanh thủy kim thủy, đại cát, nếu mệnh đã thấy thủy, không có vận kim, gặp kim này cũng phúc; Ất Sửu Hải kim có thế vì sơn luận, nếu thấy Thiên Hà thanh thủy trợ giúp, người Canh là rất tốt. Diệu Tuyển có Kim Mã phong tê cách, lấy người sinh Canh Ngọ, Giáp Ngọ gặp giờ Tân Tị; có Mã hóa Long Câu cách, lại lấy người sinh Ngọ thấy giờ Thìn; có Tiếu Phong Mãnh Hổ cách, lấy người sinh Canh Tân gặp Tân Tị, Ất Tị. Đều lấy quý luận, còn thủy, hỏa, thổ, kim dường như không trói buộc nhau.
Mậu Thân - Kỷ Dậu, Đại Dịch thổ
Đại Dịch thổ, là đường đại đạo, đường đi bằng phẳng, 9 châu không chỗ nào là không thông, vạn quốc không có chỗ nào không tới, đây chính là vị trí thuộc phương Khôn, đức chính là dầy tải, xe di chuyển hàng ngày, là thổ dựa vào biển ngồi trên núi vậy. Phát sinh vạn vật, lấy mộc làm gốc. Mậu Thân, thổ trường sinh, đức dầy vô cương, thấy 3, 4 mộc đều có thể tư sinh, Kỷ Dậu, là thổ tự bại, mộc nhiều thì cướp khí; Đại Lâm trong hợp phùng xung, chủ yểu, mộc khác đều cát, lại lấy Lộc Quý tham khảo. Tỉnh Tuyền, Giản Hạ 2 thủy này thanh quý không khô táo, như Mậu Thân kiến Đinh Sửu hoặc Ất Dậu, Kỷ Dậu kiến Bính Tý hoặc Giáp Thân, gọi là Quan quý, chủ cát; Thiên Hà Bính Ngọ mà được Kỷ Dậu, Đinh Mùi mà được Mậu Thân, cũng là quý lộc, chủ phúc; Trường Lưu Mậu Thân kiến Quý Tị, Kỷ Dậu kiến Nhâm Thìn, cũng cát, gặp nhiều thì không yên tĩnh; Đại Khê Ất Mão nghĩa là Đông Chấn phát sinh, độc thấy cũng cát; Hải thủy đối xuyên, thổ không thể thắng, ngày giờ gặp là chủ yểu, được sơn hơi nhẹ, bên trong Mậu Thân kiến Quý Hợi, Mậu Quý hợp Thân Hợi, là Thiên Địa giao thái, lại cát. Hỏa kiến Thái Dương, Phích Lịch, gọi là Thánh hỏa, rất có thể phát sinh, thổ này như gặp thủy trợ, chủ hiển đạt, phàm ở hỏa, lại gặp mộc sinh, càng khô táo, chủ hung yểu. Ngũ hành kiến thổ, duy chỉ có Lộ Bàng là tối thích, Ốc Thượng, Bích Thượng, Sa Trung dẫu trước có gặp mộc, củng là tiêu tan, Thành Đầu có thủy, hơi cát. Mệnh nếu có kim, thanh tú, là cát; Soa Xuyến gặp Tân Hợi, Kim Bạc gặp Nhâm Dần, gặp Mậu Thân, trong trụ lại thêm thủy trợ, là Địa Thiên giao thái, thủy nhiễu sơn vẫn là đại cách, chủ quý, Kỷ Dậu kiến Canh Tuất, Quý Mão là thứ; Sa kim tạo hóa cũng vậy, Kiếm kim cần mộc dầy đắc dụng, nếu không thì vô ích.
Bính Tuất, Đinh Hợi, Ốc Thượng thổ
Ốc Thượng thổ, là đất sét thành rừng, Thủy Hỏa ký tế, bởi vì tích lũy che tuyết sương, có công chắn cao mưa gió, thổ này là ngói vậy. Không có mộc thì không thể chống đỡ, cho nên lấy mộc làm căn cơ, Bình Địa là vi thượng, Đại Lâm là thứ, còn lại thủ thiên can hóa mộc, cũng cát, chỉ sợ xung phá. Chỗ này không phải thổ tường thành, không nên thấy hỏa, Lư Trung Bính Dần là tối hung, Đinh Mão hơi được; Thái Dương, Phích Lịch có thể lấy giúp nhau; Sơn Hạ, Sơn Đầu, có mộc sinh là họa; Đăng Đầu Bính Tuất kiến Ất Tị là vi thượng, Đinh Hợi kiến Giáp Thìn là thứ, gọi là Hỏa Thổ nhập đường cách, nếu trong trụ có nhiều mộc, cũng không là cát. Thủy thích Thiên Hà, Tỉnh Tuyền, Giản Hạ đều cát, như trước gặp Bình Địa mộc thành cách, đại quý; Khê Lưu không có thì yểu, nếu Bính Tuất mà có Quý Tị, Đinh Hợi mà được Giáp Dần, thì lại luận khá, lại xem chỗ ngày giờ thành tạo hóa như thế nào; Đại Hải không có sơn thì không nên thấy thổ. Thổ kiến Lộ Bàng, như Bính Tuất được Tân Mùi, Đinh Hợi được Canh Ngọ, âm dương hỗ kiến, lại lấy mộc làm gốc, chủ quý; Bích Thổ cũng hợp; còn lại thì không cần. Nếu khuyết mộc mà trụ có tam hình, dẫu có 2 thổ cũng hung, Sa Thổ độc Đinh Tị không ngại. Kim duy chỉ có Kiếm Phong, Soa Xuyến là tối cát, Đinh kiến Nhâm Thân, thiên can hóa mộc, địa chi Càn Khôn thanh sạch, Bính kiến Tân Hợi, thiên can hóa thủy, địa chi Bính nhập hộ Càn, đều là đại quý cách, nếu Đinh Hợi kiến Canh Tuất, Bính Tuất kiến Quý Dậu, thì không là cát; Bạc Kim có dụng trang sức, cũng cát; kim còn lại đều vô dụng, nên lấy Quý Lộc tham khảo.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Nạp âm Thủy

Chú thích: Bính Tý, Đinh Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Nhâm Thuất, Quý Hợi nạp âm đều là thủy.

Bính Tý- Đinh Sửu, Giản Hạ thủy
Giản Hạ thủy, là sóng nhỏ vòng quanh núi, đem tuyết phun trào, chảy liền nhau nam bắc, mạch Khảm Ly đối nhau. Thủy này trong thanh, hỷ kiến kim dưỡng, Sa Trung, Kiếm Phong 2 kim là tối thích. Soa Xuyến Canh Tuất Đinh Sửu không hợp, lấy Sửu Tuất tương hình, Tân Hợi kiến Bính Tý thì Bính Tân hóa thủy, càng quý; kim còn lại nên lấy Lộc Quý tham khảo, thủ kỳ tư sinh, ác kỳ xung phá. Kiến mộc một vị không ngại, 2, 3 vị thì chủ lao khổ, cũng lấy Quý nhân Lộc Mã tham khảo. Trong mệnh thấy thổ, Thiên nguyên người chủ nhiều đục trọc, nếu mộc hoặc có hóa thủy, thì chủ thanh cát; Sa Trung, Ốc Thượng 2 thổ, khí hơi thanh, Lộ Bàng, Đại Dịch thì rất đục vậy, chủ tài tán họa sinh, như Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thổ cục, hung càng nặng, là vì lấy thổ hỗn thủy đục vậy. Hỏa kiến Thái Dương, tuy viêm, trong đó có luận Ký tế Vị tế; Phích Lịch thì lại là vị trí tương tranh, rất không hợp. Nếu hai hỏa hợp luận, không có kim tư trợ, chủ hoang dâm, có kim thì chớ luận; Sơn Hạ, Sơn Đầu cũng cát, nếu cùng lâm ở ngày giờ thì nguy hiềm. Trong mệnh gặp thủy, lại thành phiêu đãng, kiến Thiên Hà là Dẫn Phàm nhập Thánh, kiến Đại Hải là phúc quý triều tông, đều cát, độc Đinh Sửu kiến Nhâm Tuất, thì Sửu Tuất tương hình, Đinh Nhâm dâm hợp, chủ phong thanh bất nhã; Đại Khê tính nóng, Trường Lưu không yên tĩnh, đều không là cát, đại để thủy này cần lấy nhiều làm chủ, mà không có hỏa thổ bác tạp, lại gặp Giáp Dần Ất Mão thủy, thì nguồn chảy trong thanh rất xa, là người chân quân tử vậy.
Giáp Dần - Ất Mão, Đại Khê thủy
Đại Khê thủy, là sóng đánh bờ nhỏ, thiên nhiên nổi cơn sóng biển, chiều rộng cảnh vật bao hàm nghìn dặm, ảnh xanh xuyên đảo nghìn núi, tối hỷ có chỗ quay về có chỗ nuôi dưỡng, gặp Khảm thì là có chỗ quay về, được kim thì có nuôi dưỡng, chỗ sợ là, trong ngày tháng giờ có Thân Dậu xung động, hoặc Thìn Tị gió thổi, chủ phiêu lưu; Tỉnh Tuyền thủy tịnh mà dừng, Giản Hạ có Sửu là núi, Thiên Hà thấm nhuận, Đại Hải triều tông, 4 thủy này đều cát; Trường Lưu có gió, độc không nên thấy. Thủy này lấy thanh kim làm trợ dưỡng, duy chỉ có Soa, Sa là tối thích, Chá kim cũng thanh, nếu có Soa kim đối xung thì không nên; Hải Trung tuy không có tạo hóa, Giáp Tý thuộc Khảm, Ất Sửu là Cấn, là đất quy nguyên, cũng cát; Bạc Kim là rất bé, không thể tương sinh, sao có lý là siêu hiển? Kiếm kim tuy hóa ở Đại Khê, nhưng kị Mão lôi Tốn phong, chủ tính bất định. Ngũ hành có thổ, đều là vô ích, Ốc Thượng, Thành Đầu cản trở thủy này, Lộ Bàng hơi được, cũng không là tốt; Bích Thượng độc có Tân Sửu là sơn, Đại Dịch duy chỉ có Kỷ Dậu có hợp, Mậu Thân thì xung, Canh Tý thì hình, đều không cát. Hỏa kiến Thái Dương, tuy là chiếu rực rỡ, Phích Lịch càng kị gặp nhau, nếu 2 hỏa cùng thấy nhau, chủ bần, đơn kiến thì chớ luận. Mộc kiến thủy này, là bị phiêu đãng, duy chỉ có Tang Thác mộc Nhâm Tý có Khảm, Quý Sửu là Sơn, là Thủy nhiễu quanh núi, trong người Giáp Dần kiến Nhâm Tý là cát, người Ất Mão kiến Quý Sửu là cát; còn lại mộc khá lấy Lộc Quý tham khảo, càng kị xung phá.
Nhâm Thìn, Quý Tị - Trường Lưu thủy
Trường Lưu thủy, hỗn hỗn vô cùng, thao thao không kiệt, đã đi xuống tất nạp ở đông nam, thuận chảy tự quy về ở Thìn Tị. Thủy này hỷ kim sinh dưỡng, kim cần Bạch Chá, Soa Xuyến, lấy thiên can có Canh Tân chân kim, địa chi Thìn Tị vừa đúng vị trí tương sinh, Tuất Hợi là đất quy nguyên; Kiếm Phong thuần là kim thủy, Bạc kim thủy mộc cư hướng đông, đều lấy cát luận; Hải Trung, Sa Trung không thủ. Ngại là thổ khô cạn, mà thổ có cọng dụng làm đê phòng, trong lục thổ, thủ Canh Tân Bính Đinh là cát, Mậu Kỷ là vô dụng. Gặp hỏa thì tương hình, mà có kỳ diệu ký tế, trong Nhâm Thìn hỷ kiến Đinh Mão, Đinh Dậu, Quý Tị hỷ kiến Mậu Tý, Mậu Ngọ, là vì lấy thiên can hợp hóa vậy; Đăng Đầu Quý Tị càng hỷ kiến Giáp Thìn, Sơn Đầu Nhâm Thìn càng hỷ gặp Ất Hợi, là Hóa Long quy Lộc, thủ nghĩa càng tốt. Phùng mộc tuy là phù phiếm, mà Tang Thác Quý Sửu là Sơn, Dương Liễu Quý Mùi là Viên, năm giờ cùng được chỗ này là tốt, là Thủy nhiễu Hoa đê, cách đại quý vậy; Tùng Bách, Thạch Lựu, thiên can có kim tương sinh; Đại Lâm, Bình Địa, tuy ngại có thổ, mà Quý Tị kiến Mậu Thìn, Nhâm Thìn kiến Kỷ Hợi, đều cát. Thủy là đồng loại, Giản Hạ thì Đinh Nhâm hợp hóa, Thiên Thượng thì vũ lộ tương tư; Tỉnh Tuyền, Đại Khê là vô ích; Hải biển là chỗ chúng chảy về, mà Nhâm Thìn Long được Quý Hợi thì Long nhảy Thiên Môn, sinh mùa xuân hạ thu là cát, hoặc Long tiềm Đại Hải, thì sinh mùa đông là hợp, trong trụ cần trước tiên có kim là vi diệu. Nhâm Thìn lại là thủy tự Ấn, lại thấy Nhâm Thìn thì hình, hình thì tự hại, thấy Mậu Tuất thì xung, xung thì phiếm lạm, chủ hung; Quý Tị, là thủy tự tuyệt, danh là Hạc Lưu, nếu gặp các thổ Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, có thể đợi khô cạn, trong trụ như có tam hợp sinh vượng kim sinh thì cát.
Bính Ngọ, Đinh Mùi - Thiên Hà thủy
Thiên Hà thủy, là vẩy tung loạn xạ vậy, là mật phái trời giao, chảy cuồn cuộn ở dưới dãi Ngân Hà, tinh tế bay đến không trung, chỗ này chính là mưa sương trên trời, phát sinh vạn vật, không khỏi nhờ cậy. Thủy Ngân Hà, thổ không thể khắc, cho nên thấy thổ không kị, hơn nữa còn có ích thấm nhuận vạn vật; thủy trên trời, mà kim khó sinh, cho nên thấy kim khó ích, mà cũng có hàm chứa tú tình; sinh vượng thái quá thì là dâm lạm, lại hại ở vật, tử tuyệt quá nhiều thì là khô cạn, lại không thể sinh vật, phải sinh mùa thu đắc thời là quý vậy. Thủy hỷ Trường Lưu, Đại Hải, bên trong Bính Ngọ cần Quý Tị, Quý Hợi, Đinh Mùi cần Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, âm dương hỗ kiến, càng cát; Đại Khê Ất Mão là Lôi, Tỉnh Tuyền Kỷ Dậu là quý, đều lấy cát luận. Hỏa hỷ Phích Lịch, là hỏa Thần Long, cùng thủy này là cứu nhau. Mà bỗng nhiêu thúc giục biến hóa, mây đến làm mưa, sao không có quý? Lư Trung hỏa vượng, Đại Hải thủy vượng, như trong trụ có 2 hỏa 2 thủy, trên dưới cứu nhau, gọi là Tinh Thần câu túc, cách đại quý vậy; Đăng Đầu có phong, Sơn Đầu có quý, đều lấy cát luận, lại phải lấy thủy khác cứu mới cát; Thiên Thượng thì vừa đúng vị trí tương khắc, thì kị thấy. Thạch Lựu mộc, Dương Liễu đều cát, Đại Lâm có Tị Tốn, Bình Địa có Hợi, cũng cát; Tùng Bách, Thạch Lựu gặp Bính Tân hợp hóa, cũng lấy cát luận. Diệu Tuyển có Linh Tra nhập Thiên Hà cách, là thủ mộc tử tuyệt vô căn, trụ không có thổ bồi thì phiêu lưu Thiên Hà là vậy. Thổ tuy không thể khắc, mà trụ phùng Canh Ngọ Tân Mùi, thì vừa đúng vị trí tương khắc, thổ ủng thủy trệ, hoặc thủy lại sinh đông, thì thủy kết ao đầm, tất chủ trọc lạm; còn lại thổ khác như Sa Trung, Ốc Thượng đều cát, Thành Đầu, Đại Dịch là vô dụng, Bích Thượng là đối xung, cũng phá tạo hóa. Thủy, kim tuy không thể sinh, độc chỉ có Tân Hợi Soa kim lại thuộc cung Càn, thủy ở trên trời, chỉ chỗ này là tối cát; còn lại kim khác cũng thủ thiên can có Canh Tân, Nhâm Quý là dụng, Giáp Ất là vô ích, lại lấy Lộc Mã Quý nhân tham khảo khi gặp thủy. Diệu Tuyển lại lấy người sinh thủy được Canh Tý, Nhâm Tý là mây đến làm mưa, sinh mùa xuân thì hạn, mùa hạ thì mưa to, mùa đông thì hàn, chỉ có mùa thu là tối cát; gặp Giáp Thìn Ất Tị, Canh Thìn Tân Tị, trong trụ có Nhâm là mây, có Thìn là Long, là mưa gió đều đến; nếu tháng sinh mùa đông, gọi là Sương ngưng tuyết lộ, ngày giờ hỷ gặp Dần Mão khí ôn hòa, có thể giải băng hàn, đều là quý cách vậy.

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
Giáp Thân - Ất Dậu, Tỉnh Tuyền thủy
Tỉnh Tuyền thủy, là suối trong mát lạnh, nuôi dưỡng không cùng, mọi nhà đục lấy cùng uống, vạn dân dùng để sinh hoạt. Thủy này sinh ở kim mà xuất ở mộc, cho nên hỷ thấy kim là phúc, Sa Trung có thổ, cùng tính là tối thích, Soa Xuyến thanh tú là thứ, Chá kim cùng Soa kim tương xung, cho nên không nên thấy nhau; Kiếm Phong Thân Dậu thái vượng, e rằng có họa phiếm lạm; Hải kim không lấy, Ất Sửu là Cấn, Sơn Hạ xuất nguồn suối, cũng cát. Chỗ này không có mộc thì không thể xuất, thí dụ như cái thùng, cho nên thấy mộc đều cát, như thấy Bình Địa, Đại Lâm, cần có Kiếm kim gọt đẽo, mới có thể thủ dụng; Tang Thác, Dương Liễu là vô dụng; Tùng Bách thì hỗ hoán Quy Lộc, chỗ này là tối cát. Chư hỏa âm dương hỗ kiến thì cát, Phích Lịch danh là Nhập Thánh, Thái Dương hiệu là Hiển Chiếu, thấy 2 hỏa này là tối cát, nhưng không nên cùng có thì hung. Chư thổ như Lộ Bàng, Sa Trung là tối cát, Ốc Thượng có Thiên Môn vốn sinh thủy, cũng cát; Thành Đầu, Bích Thượng cùng thủy này thì không có can thiệp; Đại Dịch thì vừa đúng vị trí tương khắc, thủy làm thổ yểm thì giếng không ăn, phải có mộc khử mới được. Thủy hỷ Đại Hải, là Dẫn Phàm nhập Thánh; Thiên Thượng, Giản Hạ, Trường Lưu cũng không là ở tai; Đại Khê Giáp Dần Ất Mão là cát, như Giáp Thân kiến Ất Dậu, Ất Dậu kiến Giáp Thân, Quan tinh hỗ hoán, là tối cát; như 2 thủy này ở năm và giờ, 2 mộc ở tháng và ngày, gọi là Thủy nhiễu Hoa Đê, là quý cách vậy.
Nhâm Tuất - Quý Hợi, Đại Hải thủy
Đại Hải thủy, là tổng nạp trăm sông, uông dương không có cứu, bao quát lớn cả Càn Khôn, Nhật Nguyệt chiếu thăng giáng. Thủy này vốn có thanh trọc, lấy cả 2 bàn phân luận: Nhâm Tuất có thổ khí là trọc, Quý Hợi can chi thuần thủy mà nạp âm lại là thủy, cho nên thanh. Người Nhâm Tuất sợ sơn, lấy thổ khí thái thịnh, có kim thanh mới cát, Quý Hợi tối hỷ kiến sơn, sau đó tính Hải thủy mới an; Giản Hạ Đinh Sửu là sơn, Thiên Hà cùng Hải trên dưới tương thông, trong trụ có mộc là bè gỗ thì ngồi bè gỗ mà nhập vào Thiên Hà, cực là thượng cách; Trường Lưu, Đại Khê các thủy này tất càng cần quy về biển, lấy Hải thủy không chọn dòng chảy, cho nên có thể thành Đại hải vậy; Nhâm Thìn là Long quy Đại Hải, càng cát, trong đó có phân âm dương hỗ kiến, can chi hợp hóa mới được; Tỉnh Tuyền thì có chỗ chế, cùng hải không thông, cho nên không thích thấy. Chư kim độc chỉ có Hải Trung là đệ nhất, lấy Nhâm Tuất Quý Hợi hỷ kiến Giáp Tý Ất Sửu; Sa Trung cũng được, còn lại kim khác lại nên lấy Quý nhân Lộc Mã tham khảo. Hỏa hỷ Thiên Thượng, cùng Hải Thủy cùng nhau chiếu rực rỡ, là tối cát; Phích Lịch Kỷ Sửu là sơn, Mậu Quý hợp hóa, trụ được mộc hỏa đất vượng, cũng cát; Sơn Hạ, Sơn Đầu, Phúc Đăng các hỏa đều không nên thấy. Mộc duy chỉ có Nhâm Tý Quý Sửu, Nhâm Ngọ Quý Mùi đều cát; Đại Lâm có phong xung động, tính thủy bất an; Bình Địa tải dầy, thì vừa đúng vị trí tương đắc; Tùng Bách, Thạch Lựu nếu không có thổ chế thì phiêu bạc vô định. Thổ thích Lộ Bàng, Đại Dịch, duy hai thổ này đủ lấy chấn không tiết, huống chi Quý Hợi kiến Mậu Thân là Thiên Quan địa Trục đại cách, ngày giờ gặp chỗ thổ dầy này, dẫu có phong lôi, cũng không là hại; Thành Đầu Kỷ Mão cần giúp Cấn thì cát, như phùng Phích Lịch, thì Lôi Hỏa biến hóa, Hải thủy hung dũng, cũng chủ bần hàn.

Thủ tượng nạp kim Lục thập Giáp Tý, thập can có thể lấy là kim, có thể không lấy là kim, tuy vì chỗ gặp số khác nhau mà ngũ hành loại hóa loại tòng kỳ diệu, lý cũng không thể không biết. Như Giáp Ất, Canh Tân, Nhâm Quý, 3 hành này có thể lấy là kim, còn Bính Đinh, Mậu Kỷ không cùng chỗ này; Canh Tân vốn là kim, cho nên là vật bản gia, Nhâm Quý không phải là kim vậy, lại là ở kim? Lý này là kim thủy tương sinh, mà thủy cũng có thể là kim, cho nên thế vật có Thủy bích Kim minh; Giáp Ất mộc, tính chất kiên cường, thế có mộc hóa thành đá, có thể thấy ví dụ, cho nên cả hai chỗ này đều có thể thủ tượng là kim, cùng vật bản gia là đồng vậy. Bính Đinh thuộc hỏa, táo cương khác nhau, Mậu Kỷ thuộc thổ, nhu cương khác nhaug, cùng kim là tương phản, tự không thể lấy kim luận. Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý 6 can này có thể là mộc, mà Giáp Ất Bính Đinh không giống chỗ này. Lấy Bính Đinh vốn là hỏa, cho nên đốt mộc, tự không thể lấy; Giáp Ất vốn là mộc, sao không thủ? Ai không biết trong ngũ hành kim vẫn là kim, thủy vẫn là thủy, hỏa vẫn là hỏa, thổ vẫn là thổ, chỉ có mộc là biến hóa, lấy mộc sinh hỏa, tính thủy, thổ, hợp mà sinh, mạch tuyệt mà khô thì vẫn còn thủy vậy, đốt là hỏa thì vẫn còn hỏa vậy, thối rữa là thổ thì vẫn còn thổ vậy. Cho nên không dụng mộc, cho nên Thoát Thể mà hóa Thần vậy. Lục Giáp luân hoàn, chỗ số gặp, ngũ hành đan chéo nhau, chỗ lý lẽ được, tự có thể nhận thức vậy. Phàm mộc đều từ chỗ thủy sinh, nước miếng cũng là thủy vậy, cho nên Nhâm Quý có thể là mộc, chất Canh Tân, cứng cùng Giáp Ất giống nhau, cho nên Giáp Ất có thể là kim, còn Canh Tân có thể là mộc, hỗ hoán giao thông, lý cũng không là hai vậy. Bính Đinh, Giáp Ất, Nhâm Quý thủ tượng là thủy, lấy Nhâm Quý nguyên là thủy vậy, Bính Đinh hóa vậy, nước miếng Giáp Ất tức là thủy vậy; cho nên Mậu Kỷ thổ khắc thủy, cho nên Canh Tân kim làm khô táo thủy, khí có khác vậy, tự không thể lấy thủy luận. Giáp Ất, Bính Đinh, Mậu Kỷ thủ tượng là hỏa, lấy Bính Đinh nguyên là hỏa vậy, Mậu Kỷ hóa vậy, châm lửa Giáp Ất tức là hỏa vậy, cho nên Nhâm Quý thủy khắc hỏa, cho nên Canh Tân kim làm táo hỏa, loại khác nhau vậy, tự không thể lấy hỏa luận. Bính Đinh, Mậu Kỷ, Canh Tân nạp âm thuộc thổ, Mậu Kỷ nguyên là thổ vậy, Bính Đinh hỏa hóa mà thành tro bụi, tro bụi tức là thổ vậy, Canh Tân kim hỗn ở trong thổ, là chỗ kết của tinh khí thổ, cho nên đều có thể lấy là thổ. Nếu Nhâm Quý thủy nhuận hạ không ngưng tụ, Giáp Ất mộc tản ra ở trên không dừng, tự không thể lấy thổ luận. Nghiên cứu thủ tượng, có khinh trọng, có lớn nhỏ, có cương nhu, có mùi vị, có thể chất, có công dụng, từng cái khác nhau, chỗ này lại kiêm địa chi phương vị góc, vượng tướng hưu tù khác nhau, mà chỗ gặp thiên can hoặc là tòng theo bản tượng, hoặc là tòng hóa tượng, hoặc là tòng theo tượng khác, thiên nhân giao tận, lý lẽ sinh khắc, hỗ thành nghĩa, cho nên kim này có phân biệt Hải Trung, Sa Trung, Kim Bạc, Bạch Chá, Kiếm Phong, Soa Xuyến, mà tượng kim không có bao hàm khác vậy, còn lại mộc, hỏa, thủy, thổ có thể ví dụ thấy. Cho nên chỗ nạp âm thủ tượng này là tạo hóa cũng rất vi diệu vậy!

(Hết quyển 1)

2.4.2016

descriptionQuyển 1-Ngũ hành EmptyRe: Quyển 1-Ngũ hành

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết