Nói đến luận hôn nhân, khi xưa không bàn đến tình cảm trai gái, mà chỉ nêu lên các tiêu chí xác định thành bại của Tài hay Quan trong tứ trụ. Nữ mệnh dùng Quan Sát tinh đại biểu cho chồng, nam mệnh dùng Tài tinh đại biểu cho vợ. Tài vượng sinh Quan, hay Thực sinh Tài trong những điều kiện tốt đều là những nguyên nhân tạo nên hôn nhân tốt. Nhưng luận chính yếu như thế vẫn là luận cho nam, còn nữ thì vẫn xem là "tòng phu", tức là chồng có mệnh tốt thì bản thân được hưởng lây, ngược lại thì không.
Ngày nay, cũng dùng các luận cứ căn bản mà luận giải cho nam nữ như nhau. Điều đáng nói là thời nay chúng ta đã chú trọng thêm về hiểu biết tâm lý, tình cảm cá nhân, nhân sinh quan cận đại để tìm hiểu cho các mệnh số mà không vướng mắc vào việc bỏ sót hay từ chối những qui luật âm dương ngũ hành tiền nhân đã dầy công nghiên cứu.
Các nguyên tắc truyền thống luận hôn nhân như sau:
(Duới đây ghi chung "chồng, vợ hoặc người sống chung thời gian lâu" là chồng/vợ)
1. Quan Sát đối với nữ là chồng, Thiên tài và chính tài là vợ đối với nam.
2. Trụ ngày (cung phu thê): địa chi đại biểu cho chồng/vợ
Nữ: Bính Thìn, nhật chủ lấy Quí là quan tinh làm chồng. Quí tàng trong Thìn, nằm ở cung phu thê là 1 trong những tiêu chí tốt. Đắc vị tốt nhất là Bính tọa Tí, vì Quí là bản khí của Tí.
Nam: Ất Sửu, nhật chủ lấy Kỉ làm thiên tài. Trong cung phu thê Sửu tàng Kỉ bản khí, tức Tài tinh đắc vị.
3. Vai trò của các thập thần gây nên nhiều vấn đề khác biệt về tình cảm hôn nhân:
- Tỉ Kiếp nhiều hợp Tài/Quan
- Tượng tranh hợp
- Quan suy nhược hoặc khuyết hẳn Quan tinh trong tứ trụ, gặp Thương quan vượng
....a- Chồng/vợ có lực hấp dẫn đối tượng khác hoặc ngoại tình
....b- Trước khi kết hôn, chồng/vợ đã có tình cảm sâu đậm với đối tượng khác hay đã ly dị
....c- Quan hệ tình cảm của chính mình đối với chồng/vợ hời hợt, thậm chí lợi dụng nhau
Thí dụ 2 Quí ở năm, ngày tranh hợp Mậu ở tháng, hoặc 2 Canh ở tháng và giờ tranh hợp Ất nhật chủ.
4. Cung phu thê tĩnh là lý tưởng cho một hôn nhân vững bền hay tình cảm sâu đậm. Tĩnh tức là không bị Xung, Hình, Hại, Phá. Tam hợp, lục hợp, tam hội cũng thường thay đổi tính chất của Tài tinh, Quan tinh.
Nam: tháng Tân Dậu, ngày Quí Tị, giờ Sửu: nhật chủ lấy Bính làm chính tài. Bính là bản khí của Tị. Nhưng tam hợp Tị Dậu Sửu đã làm suy yếu tính chất của Tị hỏa. Hôn nhân có thể chỉ ngắn hạn hay không sâu đậm.
5. Đặc biệt nhất là luận thần sát để xác định rõ hơn về thành hay bại của Hôn Nhân.
...a- Đào Hoa: Tí Ngọ Mão Dậu
...b- Hồng Diễm
Đào Hoa và Hồng Diễm là sao "tình ái". Trong tứ trụ biểu lộ sức hấp dẫn, ý tình rõ rệt đối với đối tượng. Tứ trụ nào không có 2 sao này gọi là bớt đi nhiều tính cách hấp lực về tình cảm ở cả 2 bên. Ở đại vận và lưu niên cũng được luận có hay không có Đào Hoa, Hồng Diễm, chúng nói lên thử thách, tiến tới tình cảm và đôi khi có kết quả về hôn nhân.
...c- Mộc Dục và Mộ: định theo 12 cung TSTT
Mộc Dục là trạng thái ẩn dụ của trẻ mới sinh còn đang tắm rửa chưa có y phục, nên luận ở trường hợp không thuận lợi ám chỉ tình dục thái quá hoặc đè nén, biến hóa tính cách.
Mộ là trạng thái thập can sau Tử đến nhập Mộ, ẩn ý là tàng chứa trong địa chi và không thấu lộ ra thiên can.
Cả hai Mộc Dục và Mộ trong ý nghĩa trên ám chỉ tâm lý ẩn hình trong nhật chủ. Nếu Tài hay Quan tàng trong địa chi Mộc Dục hay Mộ thường nói lên sự kiếm khuyết tình cảm sâu sắc của nhật chủ, hoặc là nhất thời, hay là không có ý tiến đến sự lâu dài của hôn nhân.
Ở đại vận và lưu niên, dĩ nhiên sẽ có ý hướng tình cảm nổi lên, nhưng còn tùy các cảnh tình khác mà luận hôn nhân hay không. Đây cũng là tùy câu hỏi chân thật của chính bản thân chúng ta.
Nữ: Quí Sửu, Nhâm Tuất, Giáp Ngọ, Bính Dần: tướng mạo rất đẹp, quan tinh Tân tàng trong Sửu Tuất, cung phu thê có Hồng Diễm Đào Hoa, chồng cũng là người lịch thiệp thanh tú.
...d- Cô Thần Quả Tú: cô quả là ám chỉ tình trạng cô đơn, sinh ly tử biệt trong tình cảm và hôn nhân
Tóm tắt nội dung trên, những điểm sau đây cần chú ý khi luận hôn nhân bất thuận lợi:
1. Tài tinh, Quan tinh suy nhược hoặc gặp Xung
2. Khuyết Tài, Quan trong tứ trụ (và cung mệnh)
3. Tài, Quan bị Tỉ Kiếp hợp, hoặc nhật chủ bị tranh hợp
4. Thiên ấn quá mạnh và là kị thần, hoặc Thương quan vượng chế ngự Quan
5. Hoa Cái, Cô Thần, Quả Tú vượng thịnh
Thời gian kết hôn bình thường từ tuổi 20 đến 35. Trước hoặc sau thời gian này là sớm hay muộn. Nói đến điều này là cách xác định tuổi của các trụ. Đời người bình thường trung bình được 60 năm, vậy có thể chia ra:
năm: 1-17
tháng: 18-34
ngày: 35-51
giờ: từ 52 trở đi
Ở từng trụ, chúng ta xác định các yếu tố đã nói trên để nhận định kết hôn có thể sớm hay muộn. Như 1 thí dụ nữ đã nêu, Quan tinh, sao Đào hoa, Hồng diễm tọa ở 1 trong 3 trụ đầu là có thể kết hôn sớm (ưu tiên cung phu thê). Nếu Tài Quan suy nhược ở trụ giờ, lại gặp Cô Thần Quả Tú, có thể nhận định không kết hôn hoặc kết hôn muộn.
Tài, Quan hợp với trụ đại vận hoặc lưu niên cũng khả dĩ tạo ra quan hệ tình cảm hay hôn nhân, đặc biệt xác định điều này cho những tứ trụ khuyết hẳn Tài, Quan.
(Thường nghe nói, không phải tứ trụ khuyết hành gì thì bổ sung ngay hành đó làm dụng thần. Điều này không thể đơn giản như vậy, vì còn phải phân tích dụng kị thần của tứ trụ. Thế nhưng, về tâm lý và nhất là để hiểu Tài và Quan là 2 mặt tinh thần không thể thiếu được, nên vẫn phải xét yếu tố Tài Quan xuất hiện ở đại vận, lưu niên là một điều không thể bỏ qua.
Bởi vì nếu khuyết Tài mà tứ trụ kị Tài, người này chỉ có thể biểu lộ sự tránh né tình cảm hoặc không có hấp lực đối với đối tượng, người khác vẫn có thể tiến đến hôn nhân, nhưng tình cảm càng về hậu vận càng phai nhạt. Tài còn là nguồn lộc nuôi sống chúng ta, nên luận "kị Tài" cũng không phải là hoàn toàn không làm ra tiền, mà rất có thể biểu lộ ở tính cách không xem trọng đồng tiền.
Đối với Quan tinh ở nữ mệnh cũng thế. Nếu khuyết hẳn Quan tinh ở bát tự thuộc ngoại cách, hoặc như Nhuận hạ cách là kị Thổ, ta cũng không thấy những người này đều không kết hôn! Ngược lại, về thực tế, đôi khi kết hợp với sự bổ sung Thổ Quan tinh này mà tự chế ngự hay điều hòa bát tự rất tốt.
Các cách cục của Tử Bình ở phần nhập môn vì vậy chỉ xác định ở hình thể ban đầu là chủ yếu. Phần vận dụng thực tế là Ngũ Hành Âm Dương đều cần phải có suy tưởng sâu sắc hơn. Khó mà nói hết được, cũng bởi vì từng bát tự với điều kiện sinh trưởng ở môi trường con ngưòi sinh sống làm cho sự hiểu biết của chính mình và đối nhân xử thế đều khác nhau.
Chính vì sự tinh tế này mà có những trường phái bất luận Cách Cục, bất luận dụng hỉ kị thần, chỉ luận diễn tiến sự việc thông qua các biểu lộ của thập thần, tương tác xung khắc hợp trong vận hạn để giải đoán số mệnh.)
Ngày nay, cũng dùng các luận cứ căn bản mà luận giải cho nam nữ như nhau. Điều đáng nói là thời nay chúng ta đã chú trọng thêm về hiểu biết tâm lý, tình cảm cá nhân, nhân sinh quan cận đại để tìm hiểu cho các mệnh số mà không vướng mắc vào việc bỏ sót hay từ chối những qui luật âm dương ngũ hành tiền nhân đã dầy công nghiên cứu.
Các nguyên tắc truyền thống luận hôn nhân như sau:
(Duới đây ghi chung "chồng, vợ hoặc người sống chung thời gian lâu" là chồng/vợ)
1. Quan Sát đối với nữ là chồng, Thiên tài và chính tài là vợ đối với nam.
2. Trụ ngày (cung phu thê): địa chi đại biểu cho chồng/vợ
Nữ: Bính Thìn, nhật chủ lấy Quí là quan tinh làm chồng. Quí tàng trong Thìn, nằm ở cung phu thê là 1 trong những tiêu chí tốt. Đắc vị tốt nhất là Bính tọa Tí, vì Quí là bản khí của Tí.
Nam: Ất Sửu, nhật chủ lấy Kỉ làm thiên tài. Trong cung phu thê Sửu tàng Kỉ bản khí, tức Tài tinh đắc vị.
3. Vai trò của các thập thần gây nên nhiều vấn đề khác biệt về tình cảm hôn nhân:
- Tỉ Kiếp nhiều hợp Tài/Quan
- Tượng tranh hợp
- Quan suy nhược hoặc khuyết hẳn Quan tinh trong tứ trụ, gặp Thương quan vượng
....a- Chồng/vợ có lực hấp dẫn đối tượng khác hoặc ngoại tình
....b- Trước khi kết hôn, chồng/vợ đã có tình cảm sâu đậm với đối tượng khác hay đã ly dị
....c- Quan hệ tình cảm của chính mình đối với chồng/vợ hời hợt, thậm chí lợi dụng nhau
Thí dụ 2 Quí ở năm, ngày tranh hợp Mậu ở tháng, hoặc 2 Canh ở tháng và giờ tranh hợp Ất nhật chủ.
4. Cung phu thê tĩnh là lý tưởng cho một hôn nhân vững bền hay tình cảm sâu đậm. Tĩnh tức là không bị Xung, Hình, Hại, Phá. Tam hợp, lục hợp, tam hội cũng thường thay đổi tính chất của Tài tinh, Quan tinh.
Nam: tháng Tân Dậu, ngày Quí Tị, giờ Sửu: nhật chủ lấy Bính làm chính tài. Bính là bản khí của Tị. Nhưng tam hợp Tị Dậu Sửu đã làm suy yếu tính chất của Tị hỏa. Hôn nhân có thể chỉ ngắn hạn hay không sâu đậm.
5. Đặc biệt nhất là luận thần sát để xác định rõ hơn về thành hay bại của Hôn Nhân.
...a- Đào Hoa: Tí Ngọ Mão Dậu
...b- Hồng Diễm
Đào Hoa và Hồng Diễm là sao "tình ái". Trong tứ trụ biểu lộ sức hấp dẫn, ý tình rõ rệt đối với đối tượng. Tứ trụ nào không có 2 sao này gọi là bớt đi nhiều tính cách hấp lực về tình cảm ở cả 2 bên. Ở đại vận và lưu niên cũng được luận có hay không có Đào Hoa, Hồng Diễm, chúng nói lên thử thách, tiến tới tình cảm và đôi khi có kết quả về hôn nhân.
...c- Mộc Dục và Mộ: định theo 12 cung TSTT
Mộc Dục là trạng thái ẩn dụ của trẻ mới sinh còn đang tắm rửa chưa có y phục, nên luận ở trường hợp không thuận lợi ám chỉ tình dục thái quá hoặc đè nén, biến hóa tính cách.
Mộ là trạng thái thập can sau Tử đến nhập Mộ, ẩn ý là tàng chứa trong địa chi và không thấu lộ ra thiên can.
Cả hai Mộc Dục và Mộ trong ý nghĩa trên ám chỉ tâm lý ẩn hình trong nhật chủ. Nếu Tài hay Quan tàng trong địa chi Mộc Dục hay Mộ thường nói lên sự kiếm khuyết tình cảm sâu sắc của nhật chủ, hoặc là nhất thời, hay là không có ý tiến đến sự lâu dài của hôn nhân.
Ở đại vận và lưu niên, dĩ nhiên sẽ có ý hướng tình cảm nổi lên, nhưng còn tùy các cảnh tình khác mà luận hôn nhân hay không. Đây cũng là tùy câu hỏi chân thật của chính bản thân chúng ta.
Nữ: Quí Sửu, Nhâm Tuất, Giáp Ngọ, Bính Dần: tướng mạo rất đẹp, quan tinh Tân tàng trong Sửu Tuất, cung phu thê có Hồng Diễm Đào Hoa, chồng cũng là người lịch thiệp thanh tú.
...d- Cô Thần Quả Tú: cô quả là ám chỉ tình trạng cô đơn, sinh ly tử biệt trong tình cảm và hôn nhân
Tóm tắt nội dung trên, những điểm sau đây cần chú ý khi luận hôn nhân bất thuận lợi:
1. Tài tinh, Quan tinh suy nhược hoặc gặp Xung
2. Khuyết Tài, Quan trong tứ trụ (và cung mệnh)
3. Tài, Quan bị Tỉ Kiếp hợp, hoặc nhật chủ bị tranh hợp
4. Thiên ấn quá mạnh và là kị thần, hoặc Thương quan vượng chế ngự Quan
5. Hoa Cái, Cô Thần, Quả Tú vượng thịnh
Thời gian kết hôn bình thường từ tuổi 20 đến 35. Trước hoặc sau thời gian này là sớm hay muộn. Nói đến điều này là cách xác định tuổi của các trụ. Đời người bình thường trung bình được 60 năm, vậy có thể chia ra:
năm: 1-17
tháng: 18-34
ngày: 35-51
giờ: từ 52 trở đi
Ở từng trụ, chúng ta xác định các yếu tố đã nói trên để nhận định kết hôn có thể sớm hay muộn. Như 1 thí dụ nữ đã nêu, Quan tinh, sao Đào hoa, Hồng diễm tọa ở 1 trong 3 trụ đầu là có thể kết hôn sớm (ưu tiên cung phu thê). Nếu Tài Quan suy nhược ở trụ giờ, lại gặp Cô Thần Quả Tú, có thể nhận định không kết hôn hoặc kết hôn muộn.
Tài, Quan hợp với trụ đại vận hoặc lưu niên cũng khả dĩ tạo ra quan hệ tình cảm hay hôn nhân, đặc biệt xác định điều này cho những tứ trụ khuyết hẳn Tài, Quan.
(Thường nghe nói, không phải tứ trụ khuyết hành gì thì bổ sung ngay hành đó làm dụng thần. Điều này không thể đơn giản như vậy, vì còn phải phân tích dụng kị thần của tứ trụ. Thế nhưng, về tâm lý và nhất là để hiểu Tài và Quan là 2 mặt tinh thần không thể thiếu được, nên vẫn phải xét yếu tố Tài Quan xuất hiện ở đại vận, lưu niên là một điều không thể bỏ qua.
Bởi vì nếu khuyết Tài mà tứ trụ kị Tài, người này chỉ có thể biểu lộ sự tránh né tình cảm hoặc không có hấp lực đối với đối tượng, người khác vẫn có thể tiến đến hôn nhân, nhưng tình cảm càng về hậu vận càng phai nhạt. Tài còn là nguồn lộc nuôi sống chúng ta, nên luận "kị Tài" cũng không phải là hoàn toàn không làm ra tiền, mà rất có thể biểu lộ ở tính cách không xem trọng đồng tiền.
Đối với Quan tinh ở nữ mệnh cũng thế. Nếu khuyết hẳn Quan tinh ở bát tự thuộc ngoại cách, hoặc như Nhuận hạ cách là kị Thổ, ta cũng không thấy những người này đều không kết hôn! Ngược lại, về thực tế, đôi khi kết hợp với sự bổ sung Thổ Quan tinh này mà tự chế ngự hay điều hòa bát tự rất tốt.
Các cách cục của Tử Bình ở phần nhập môn vì vậy chỉ xác định ở hình thể ban đầu là chủ yếu. Phần vận dụng thực tế là Ngũ Hành Âm Dương đều cần phải có suy tưởng sâu sắc hơn. Khó mà nói hết được, cũng bởi vì từng bát tự với điều kiện sinh trưởng ở môi trường con ngưòi sinh sống làm cho sự hiểu biết của chính mình và đối nhân xử thế đều khác nhau.
Chính vì sự tinh tế này mà có những trường phái bất luận Cách Cục, bất luận dụng hỉ kị thần, chỉ luận diễn tiến sự việc thông qua các biểu lộ của thập thần, tương tác xung khắc hợp trong vận hạn để giải đoán số mệnh.)