KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionLuận Hôn nhân  EmptyLuận Hôn nhân

more_horiz
-lesoi, 2014-

Ở Tiết mục này, tôi thấy bạn PL có đưa ra một vài ví dụ để chứng minh về thuyết hôn nhân, nhưng có nhiều bạn vẫn còn nhiều ưu tư thắc mắc, thật ra Luận Hôn nhân không đơn giản như chúng ta thường nghĩ. Nếu cứ theo các ông thầy ở ngoài đời, thì cứ ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc chọn một ngày nào đó cho là cát tường thì vỗ tay "OK", thế là răm rắp từng cặp nườm nượp thay nhau cưới. Rồi sau đó thì có người hoặc là chia tay sau đó một năm, có người thì đại nạn, có người thì phất lên giàu có ... thế thì do đâu mà có những việc như trên? Tại sao có người ưu sầu, có người vui vẽ ... còn nhiều và rất nhiều lý do để nói.

Sau đây tôi xin trích lục bài viết của một đại sư tổng hợp nhiều tài liệu, nhiều thư tịch kinh điển để chúng ta tham khảo, hi vọng cũng có thể giúp ích cho các bạn mới nhập môn và nhiều người cần đến. Tất nhiên, nếu ai đã nắm yếu lĩnh thì cũng ủng hộ một tràng pháo tay vậy.

Luận Hôn nhân

Tử bình phán đoán hôn nhân, chủ yếu xem Thê tinh và Thê cung, hoặc Phu tinh và Phu cung. Thê tinh là chỉ Chính Tài, Chính Tài không thấy, Thiên Tài cũng được, Thê cung là chỉ chi ngày, tức là nhật chủ tọa chi; Phu tinh là chỉ Chính Quan, Chính Quan không thấy có quyền lấy Thất Sát ( Thiên Quan ) là chồng, Phu cung cũng như Thê cung giống nhau là chỉ chi ngày mà nói. Có điều, có vài bát tự Chính Thiên Tài hoặc Chính Thiên Quan một chữ đều không thấy, thì phải căn cứ vào Trích Thiên Tủy ban hành phương pháp lấy dụng thần, sử dụng dụng thần luận vợ hoặc là chồng.

+ Luận vợ, trên nguyên tắc lấy Chính Tài làm chuẩn, bát tự hiện rõ Chính Tài, chỉ cần nhật chủ không suy nhược mạnh, sẽ được cưới vợ tốt; nếu là nhật chủ vượng, lại hiện rõ Chính Tài, lấy Tài làm hỷ dụng, mà không yêu cầu can chi khác đến xung khắc, thì chủ có vợ đẹp mà hiền, sau kết hôn gia đình hài hòa, sự nghiệp thành công. Tiên hiền Kim Tử Tiều từng nói: "Tài nhiều thê thiếp, xem thêm chi ngày, phàm thân vượng tài vượng, đại để phú mà nhiều thê thiếp, nhật tọa Tài cung mà đắc dụng, tất vì vợ mà được phú quý."

+ Luận chồng, lấy Chính Quan làm chuẩn, trong bát tự nếu thấy Chính Quan hiện rõ, nhật chủ vượng tướng được cân bằng, lấy chỗ này Chính Quan làm hỷ dụng, đem chỗ này mà được một người chồng tốt, gọi là phu xướng phụ tùy, chồng đắc lực mà có chỗ dựa.

+ So với, Tài là kị thần. ( thông thường là thân nhược, bát tự cần phải có Ấn sinh hoặc Tỉ kiên, Kiếp tài phù trợ, mà Tài thích đủ để phá Ấn cùng tiết khí Tỉ Kiếp), thì kim sinh thế kim không những không dễ dàng phát đại tài, mà còn cũng rất khó được vợ đẹp. ( nếu như thân nhược, chỗ này Tài thích đủ để điều hậu hoặc thông quan, vậy nên luận cách khác).

+ Lấy Quan làm kị thần, thông thường là thân nhược bát tự cần có Ấn cùng Tỉ Kiếp đến sinh phù, mà trong bát tự thấy Tài đến phá Ấn sinh Quan mà khắc thân, hoặc có đủ can chi Quan Sát hỗn tạp không có chế, địa chi phu cung hình xung mà không có giải thần, Thương quan thái vượng Ấn thiếu Tài nhiều, thì rất khó được đến một hôn nhân ổn định, lại còn cũng không dễ dàng đến được một người chồng tốt.
Hệ thống Mệnh lý lấy dụng thần là Tử, hỷ thần là Thê, cùng kiêm xem chi ngày là vợ, trụ giờ xem Tử, phu thê cung cố định ở chi ngày, chi ngày thuộc loại ngũ hành nào, đối với nhật chủ bang phù, hoặc ức hoặc tổn, kĩ thuật thì căn cứ ngũ hành chi ngày đối với nhật chủ có sinh khắc tiêu trưởng để phán đoán vợ chồng tốt hay xấu, loại phương pháp này khá khoa học, tức là dựa sát tình hình cách cục hỷ dụng cùng hành vận để xem, cũng đại thể không sai, bởi vì bát tự, hỷ dụng ở chi ngày, thì đa số trụ năm tháng là chỗ kị thần ở, do ở can chi tuế vận đều từ năm tháng mà đến, cho nên tuế vận ban đầu phần đa không phải là đất hỷ dụng, tất phải chờ đợi sau này lấy ở năm tuế, tuế vận mới có thể chuyển vào đất hỷ dụng, còn sinh mệnh có thể cưới vợ sinh con, cũng phải ở sau khi sinh lý thành thục, cho nên trung niên hưởng phúc vợ con, chính là gặp tuế vận ở cát địa, hiển nhiên lo không có hình thê khắc tử.

Trái lại, nếu như bát tự hỷ thần ở năm tháng, thì ngày giờ đa số là chỗ kị thần ở, hành tuế vận ban đầu cho nên là đất cát khánh, được che chỡ của bề trên, sau khi tuế vận nghịch chuyển, được chỗ kị thần, lấy xung khắc hỉ dụng thần ở năm tháng, là phá cách hại dụng, thì không những vợ con không thể bảo toàn, mà tài sản, địa vị, danh dự, sinh mệnh, cũng e rằng phải phát sinh biến hóa trọng đại. Là lấy mệnh cục hỷ dụng đắc lực, ngũ hành lưu thông, khắp nơi hộ vệ lẫn nhau, hành nghịch vận như được nguyên cục hỷ thần cứu hộ, thì vợ con có thể bảo toàn, mà tài sản, địa vị, danh dự, sinh mệnh, cũng không đến nỗi phát sinh biến hóa trọng đại. Bát tự có phu thê cung đều tốt, không quá khả năng gả chồng đến với người chồng tầm thường, cưới vợ đếu với vợ hung dữ; cùng lý, phu thê cung đến cực điểm ác liệt, chưa bao giờ nghe nói qua cuộc sống hôn nhân tốt đẹp, ở trên mệnh lý Tử Bình, đây là định luật, chẳng qua nếu như có thể hợp hôn nói là tốt, cũng có thể thu lại cái tốt.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Tiên hiền Lưu Bá Ôn chú thích nói: "Trong cục có hỷ lưu, cả đời phú quý ở chỗ này, vợ con ở chỗ này." Thực ra không phải bày theo không nói. Là lấy để suy luận thê tử.

Thứ nhất, tất phải dựa sát nguyên cục thần hỷ dụng là không đắc lực, phối hợp với tuế vận mà suy luận, phàm hỷ dụng đắc địa, tất chủ được vợ được con, Vận Thông ca nói: "Tam hợp Tài Quan đắc ý thời, lụa dệt thơm lót hẹn ngày cưới." Theo Tài tinh địa điểm xuất hiện, vẫn có thể tiến một bước phán đoán kết hôn hoặc thời gian luyến ái, lấy thấy đơn độc Chính Tài hoặc Thiên Tài làm hạn định, nếu Tài ở trụ tháng là hỷ dụng, chủ trước 25 tuổi có động Hồng Loan tinh, có phát sinh tình hình luyến ái hoặc giá thú; như tự tọa Tài ( Nhật chi là Tài ) là hỷ dụng, tất ở khoảng 25 tuổi đến 30 tuổi, ngộ nhở Tài chỉ hiện ra ở trụ giờ, thì chủ kết hôn muộn, nhất định người ở chỗ này sẽ công thành danh toại, sự nghiệp phát đạt hùng hậu, nhân tài xuất ra trong thời gian thành lập gia đình.

Thứ hai, phàm hỷ dụng thần nhập Thê cung, có thể bang trợ cách cục thành công, đều là có vợ đắc lực, như kị thần nhập Thê cung, có thể phá hoại cách cục, đều chủ vợ không đắc lực, không nhất định chi ngày không phải tọa Tài là Tài đắc lực, có vài người không biết đã theo ai học được bí quyết, phát hiện chi ngày là Ấn thụ, lập tức đoán định hôn nhân không tốt căn bản không để ý tới chỗ Ấn thụ này đối với nhật chủ có hay không có dụng, phép đoán loại này, thường xuyên xảy ra sai lầm. Nhưng mà thần hỷ dụng nhập vào thê cung, nếu như qua xung khắc phá hoại hoặc hợp hóa là kị thần, thì tất thiếu trợ lực, thì thê tinh cùng thê cung, tổng hợp mà luận đoán, như phát giác toàn cục thê tinh đắc lực mà thê cung tọa kị thần, thì luận mất nhiều hơn được, như thê tinh mất lực, mà thê cung tọa hỷ thần, thì luận là được nhiều hơn mất, bởi vì thê cung trọng ở thê tinh vậy. Nói chung, phu thê cung là xu thế luận hôn nhân, chỉ cần ngũ hành đắc dụng, không nhất định không phải Tài tinh mới đoán định tốt đẹp, về phần thường sử dụng các loại Tỉ Kiếp, Thực Thương, Ấn thụ, chẳng qua là sử dụng để phân biệt rõ quan hệ cái chữ nhật chủ và chi ngày mà thôi, cùng với kị là kim, căn bản là không có quan hệ.

Tiên hiền Kim Tử Tiều nói: "Tài là thê thiếp, xem thêm chi ngày, phàm thân cường Tài vượng, đại để phú còn nhiều thê thiếp, nhật tọa Tài cung mà đắc dụng, tất có thể nhờ vợ mà làm phú quý. Tài tinh không ở chi ngày, mà lấy Tài là hỷ dụng, Thương Thực trợ giúp, thì vợ hiền mà hiền thục; nhật chủ tọa hỷ thần, Tài không trở ngại, vợ tất giúp đỡ; như lấy Tài là Nhàn thần, vợ thì bình thường, nếu lấy Tài là kị thần mà nhật chủ tọa hỷ, hoặc xung phá hoặc hợp khử chi ngày hỷ thần, vợ tất xấu xa hoặc bị hình khắc; lấy Ấn là dụng, bị Tài phá hoại mà không có Quan Sát hoặc chỗ khác giải cứu, tất do vợ mà gây họa. Kiếp trọng Tài khinh, không có giải cứu, tất khắc vợ, khinh là một, hai, trọng là ba, năm; Tài trọng thân nhược, không có Tỉ Kiếp, cũng khắc vợ, Kiếp Nhận trọng Tài tinh khinh, có Thương Thực, gặp Kiêu thần, vợ gặp hung chết; Tài tinh suy, Quan Sát vượng, không có Thực Thương, có Ấn thụ, vợ suy nhược nhiều bệnh. Tỉ Kiếp vượng mà không có Tài, có Thương Thực, vợ hiền tất khắc, xấu thì không hại, Quan Sát vượng mà dụng Ấn, thấy Tài tinh, vợ xấu mà khắc; thân vượng Sát suy thấy Tài tinh, gặp Tỉ Kiếp vợ đẹp mà khắc. Hỷ Tài mà Tài hợp Nhàn thần, hóa thành Kị thần, vợ không trinh khiết; kị Tài mà Tài hợp Nhàn thần và hóa thành Tài tinh, vợ chồng bất hòa.

Tóm lại, Tài là hỷ dụng, sinh hóa có tình, vợ tất hiền mà đắc lực; Tài là kị thần, xung hợp tranh đố vợ tất nghịch mà không hòa thuận. Nếu như nguyên cục bát tự hỷ dụng tương hỗ duy chỉ có hộ có lực, lại gặp hỷ dụng nhập vào thê cung, không gặp xung khắc, hoặc hóa thành kị thần, sau trung niên hành vận lại không trở ngại hỷ dụng, thì không những vợ hiền, mà còn có thể được trợ lực. Trái lại, như có một phần khuyết điểm, thì tất giảm một phần trợ lực, khuyết điểm càng nhiều thì trợ lực càng ít.

Bây giờ đưa ra thê cung có quan hệ cách cục, cung cấp cho bạn đọc tham khảo:

1, Thê cung không gặp xung khắc, mà trái lại thành lúc hỷ dụng, vợ chồng có thể hoàn hảo. Còn phù ức được thời thích hợp, vợ chồng sống đến già.

2, Địa chi ngày sinh là phu thê cung, trên chi ngày có Chính Tài, mà thành Chính Tài cách thân vượng, nếu ở trên chi ngày có Thực Thần và phía dưới cách địa chi lúc tương sinh, vợ chồng có thể đồng tâm hợp lực, chủ hôn nhân tốt đẹp, cuối cùng có thể được bạn hiền thông minh, sau hôn nhân gia đạo ngày càng hưng thịnh, thanh anh ngày càng tiến, nhận được địa vị xã hội, bởi vì thê tài phân thành có lợi ích, càng thêm tốt cho dệt thêu thêm gấm, ở trên vận mệnh có thể có danh vọng, cùng có thể dương danh ở xã hội, Tài là vật dưỡng mệnh, đồng thời, cũng có thể trở thành thần khen mệnh, cho nên danh lợi song thâu.

3, Chính Tài cách, thân vượng, trong mệnh gặp Chính Quan, là mệnh thức điều hòa cân bằng, bợ chồng nhất định tình cảm hòa thuận. Lúc nam mệnh, có duyên với cô gái hiền thông minh, nữ mệnh cũng rất hiền lương, có thể gả cho một người chồng có sự nghiệp phát đạt.

4, Chi ngày nếu là hỷ dụng thần, nam mệnh thì vợ hiền thục, cùng có thể kết hợp trợ giúp cho bản thân mà có thể có hạnh phúc. Nhưng chi ngày vốn là cát thần, nhưng cùng phân biệt chi hóa hợp thành là kị thần, thì vợ con dù là hiền thục, nhưng dễ dàng ít được gần nhau, hoặc vợ dễ dàng do ở có một vài sự việc sai lầm, khiến bản thân gặp chịu đả kích.

5, Trong mệnh có Tài vượng, lúc thân cường, có thể đến được vợ, mà còn dễ dàng do được vợ mà phú quý, cùng chủ vợ đẹp nhiều tài năng, có công giúp đỡ nội trợ.

6, Nhật chủ tọa tài, mà Tài là hỷ dụng, tất được thê tài; nhật chủ hỷ Tài mà Tài hợp Nhàn thần và hóa Tài, hoặc là chi ngày hợp thần khác mà hóa thành Tài, tất được lực của vợ.

7, Như nhật chủ kị Tài, mà Tài hợp Nhàn thần và hóa Tài, dễ dàng vợ chồng có bất hòa, hoặc là nhật chủ kị Tài mà chi ngày cùng với chi khác hóa thành Tài, vợ chồng dễ dàng có hiện tượng không hòa thuận.

8, Thất Sát tọa chi ngày, lại là lúc kị thần, chủ cá tính vợ quá kiên cường, vợ chồng không hòa thuận, đột nhiên miệng mắng chửi hay làm nhục, giữa vợ chồng dễ xảy ra cãi vả.

9, Nhật chủ rất vượng, mà Dương Nhận lại tọa chi ngày, chủ vợ hung hãn, hiếu chiến, vì lực Dương nhận có tính phản nghịch và phá hoại, tọa phu thê cung thời tránh hành động theo cảm tính, nặng thì vợ phá sản vong thân, nhẹ thì vợ nhiều bệnh tật.

10, Nhật chủ quá nhược, Dương Nhận tọa chi ngày, phàm trợ lực mà được vợ phi thường, còn chủ vợ nhanh nhạy thông minh, đa mưu đa trí, ứng chủ hôn nhân mỹ mãn.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
11, Trong bát tự Tài quá nhược, hành vận gặp nhiều Tỉ kiên, Kiếp tài đến xung khắc, nặng thì có hiện tượng sinh ly tử biệt, nhẹ thì vợ có tật bệnh.

12, Bốn can chi hợp quá nhiều (nhất là hợp Thê tinh ), số mệnh vợ e rằng có thay đổi, thân vượng mà nhiều Dương Nhận, vợ chồng dễ ly biệt, duyên vợ đạm bạc. Nhiều Tỉ kiên, Kiếp tài, nam nữ đều có dấu hiệu kết hôn muộn.

13, Nhật can có hai Tài tinh đến hợp ( như nhật can Giáp, thấy hai Kỷ thấu kề gần nhật can, hoặc nhật can Canh thấy hai Ất thấu kề mà hợp, nhật can Bính thấy hai Tân thấu kề bên mà hợp) là ám thị dễ dàng có hai vợ.

14, Chi ngày tọa Thực thần, mà Thực thần này ở trong bát tự là chỗ hỷ dụng, mà không có Thương mạnh có lực khắc chế, chủ vợ có thân thể mập phì, tâm đạo khoan hậu, hiền tuệ giữ nhà, được y thực và tài bạch.

15, Chi ngày tọa Chính Quan, Chính Quan này là chỗ hỷ dụng trong bát tự, bên cạnh không có Thiên Ấn mạnh có lực khắc chế, chủ vợ có tướng mạo đôn hậu, trang nghiêm đoan chính, ôn nhu hiền thục, đắc lực giữ gia đình.

16, Trong bát tự có Chính Tài sinh Chính Quan, mà Chính Tài, Chính Quan là yếu tố cân bằng trong bát tự, tất được vợ trợ giúp chồng, tất vì vợ mà quý.

17, Chi ngày tọa hỷ thần, kiêm tọa Thiên Nguyệt Đức, chủ vợ tính thiện tâm từ, khảng khái làm việc tốt, tất được vợ hiền lành có cả hai phúc tuệ.

18, Nhật chủ nhược tọa Ấn, chủ vợ hiền thục đắc lực, có đức giúp chồng.

19, Nhật chủ nhược, Tỉ kiên tọa dưới chi, thì chủ vợ có tài năng, đồng tâm hợp lực, phần đa được bang trợ, tọa Tỉ Lộc càng tốt.

20, Thân cường Sát yếu có Tài tinh sinh Sát, hoặc Quan khinh Thương trọng, Tài tinh hóa Thương, đều chủ vợ hiền mà phú, hoặc được vợ có tài làm giàu.

21, Tài tinh nhược, có Thực Thương trợ Tài; hoặc Tài vượng thân nhược, có Tỉ kiếp; hoặc có Tài đến hại Ấn, có Quan tinh hóa Tài sinh Ấn, chỗ này là vợ hiền.

22, Tài tinh được Thiên ất quý nhân, hoặc tọa Thiên ất quý nhân, mà sao này ở trong bát tự lai là hỷ dụng thần ( như Bính Đinh Tài thấy Hợi Dậu, Ất Kỷ Tài thấy Thân Tý... ) gọi là được quý nhân. Tọa quý nhân là Thiên ất quý nhân cùng Tài tinh ở một trụ mà lại là hỷ dụng thần chủ vợ có tướng mạo xinh đẹp, bẩm tính thông minh, lại chủ lấy vợ phú quý.

23, Tài tinh là dụng thần lại được trường sinh, ( như mộc Tài thấy Hợi, hỏa Tài thấy Dần, thủy Tài thấy Thân... ) chủ vợ thọ lâu dài.

24, Nhật chủ vượng, chi ngày tọa Tỉ Kiếp, chủ vợ hao tài nhiều khẩu thiệt tranh chấp, nặng thì phá sản khắc vợ, thân vượng Tài nhược càng ứng nghiệm.

25, Chi ngày bất lợi ở thần, vợ không đắc lực.

26, Phía dưới địa tinh bị chỗ khác có can Tỉ kiên hoặc Kiếp tài hợp ( như nhật chủ Canh thấy Ất là Chính Tài, mà can khác vừa có Canh thấu ra đố hợp chỗ này là phía dưới địa tinh) lúc này Tài tinh tự tọa dưới mộc dục Hàm Trì, đất Đào hoa, chủ vợ có tình cảm tư thông.

27, Vợ chồng sống chung đến già, đều là vì Tài vượng thân cường, dương can trên dưới gặp hợp, dễ được vợ nhiều. Nam nhi cưới vợ sớm, định là vận vào đất Tài, tam hợp Tài cục, tất chủ điềm cát có Hồng Loan, đại vận lưu niên, đến vận gặp tam hợp đất Tài, cũng có hiện tượng luyến ái, cưới vợ.

28, Chi ngày là thê cung có mang Hoa Cái tinh, chủ phối ngẫu thông minh có tài nghệ, tư tưởng đặc biệt mà thích nghiên cứu triết lý hoặc tôn giáo, có tâm niệm xuất thế và tự gặp cô đơn, nếu như lại có Không Vong cùng trụ, lực lượng càng có thể tăng nặng.

29, Sát trọng có Tài sinh Sát, hoặc là Quan nhiều dụng Ấn, có Tài tinh phá Ấn, đều chủ vợ không đắc lực, dễ vì vợ mà phá sự.

Nữ mệnh cùng nam mệnh, phép xem khác nhau, không phải là mệnh lý có khác biệt, là phụ nữ ở tập quán xã hội địa vị có khác nhau vậy. Nam mệnh không luận cách cục cao thấp, nói chung lấy vận hành vượng địa, sự nghiệp phát đạt là tốt, phụ nữ theo chồng là chính, chồng có lợi thì vợ có lợi, chồng khổ thì vợ khổ, tức là khiến cho bản thân vận đồ bình thường, mà hành vận phu vượng hoặc tử vượng, cùng lấy vận tốt luận, chồng quý vợ vinh, con quý mẹ có phúc. Vận đẹp như đứa bé, ở dưới cha mẹ bảo vệ, chỉ cần cha mẹ kiện vượng đắc ý, tức là được che chở phúc ấm, vận bản thân xấu, chẳng qua đi học không tiến bộ, nhiều họa tật bệnh mà thôi, nữ mệnh cũng như vậy, cho nên luận nữ mệnh, tất nhiên trước tiên xem hai sao Phu Tử, trung niên nếu hành đất Phu tinh vượng, về già nếu hành đất Tử tinh vượng, bản thân giao vận vượng, vui vẽ mà hướng vinh, thành lập sự nghiệp, thân tâm đều vất vã, ở trên thực tế không phải đầu tiên khắc phu, tức là xa gia đình, bỏ đi việc làm vợ, bản thân không lấy làm phúc, trên xã hội thì cũng không lấy làm phúc vậy, trong nữ mệnh, bản thân thuận vận thiếu gì, hai sao Phu Tử đồng thời cùng vượng, nhưng ở vào địa vị trái ngược, thiểu số không còn nữa, nữ mệnh vì dụng Tài Quan là hỷ, Thương quan là kị, tức lấy chỗ này là nguyên nhân, ngoại trừ mệnh lý, tất phải xem thêm tập tục của xã hội, cho nên chỗ này nữ mệnh xem khác so với nam mệnh là vậy.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Tiên hiền Vạn Dục Ngô nói: "Hoặc nói: Lợi ích phụ nữ ở đâu chứ? Là lợi ở Phu tinh, chồng có lợi thì vợ tất có lợi, chồng khó thì vợ tất khó; vợ theo chồng, trước tiên xem Phu tinh để định ra thân quý hay tiện, lại xem Tử tinh để xem cuối đời là vinh hay nhục. Quan Sát Tài đắc địa, chồng có lợi vậy; Thực thần đắc địa, con có phúc vậy. Chồng có lợi thì xuất thân phú quý, cả đời hưởng phúc; con có lợi cảnh về sau được nuôi dưỡng phong phú, được tán dương phong tặng sủng ái. Vượng phu là lấy Thực sinh Tài, do đó Tài sinh Quan vậy. Trái lại, thì không phải. Nữ mệnh lấy khắc Ta làm phu tinh, Ta sinh làm Tử tinh, đều phải đắc thời thừa khí sinh vượng, nếu vượng khí chỉ tụ ở giờ cũng tốt, dụng Quan là chồng, không nên thấy Sát, dụng Sát là chồng, không nên thấy Quan, một vị là tốt ( sợ hỗn tạp vậy ); có hai vị Quan vận, không có Sát cũng tạp; tứ trụ thuần Sát, không có Quan làm hỗn tạp, đều là chồng tốt, càng được bản thân tự vượng thì càng tốt, nhưng mà vượng không thể thái quá. Thực là Tử tức dẫn quy về trụ giờ gặp vượng, thì được Nhị Đức phù thân, là mệnh Phu quý Tử vinh. Không nên thân vượng thái quá, ám tàng Phu tinh chính là Thương quan, Thất Sát, Khôi Cương, tương hình, Dương Nhận quá nhiều, có tình hợp nhiều, đều không phải tốt, tuế vận cũng vậy. Phép xem có bát cách là: Thuần, Hòa, Thanh, Quý, Trọc, Lạm, Xướng, Dâm vậy."

Tiên hiền Lưu Bá Ôn chú thích nói: " Trong cục Quan tinh lộ rõ, chồng quý mà tốt, lý là tự nhiên vậy! Nếu Quan tinh quá vượng, lấy Thương quan làm chồng; Quan tinh quá nhỏ, lấy Tài làm chồng; Tỉ Kiếp vượng mà không có Quan, lấy Thương quan làm chồng; Thương quan vượng mà không có Tài Quan, lấy xâm phạm làm chồng. Cục đầy Quan tinh bắt nạt nhật chủ, hỷ Ấn thụ mà chồng không thể khắc thân vậy; cục đầy Ấn thụ tiết khí Quan tinh, hỷ Tài tinh mà không thể khắc phu vậy. Đại thể cùng với nam mệnh luận con luận địa vị là lý lẽ giống nhau, cục Thương quan hiển lộ, con quý mà thân, bất tất phải nói vậy, nếu Thương quan quá vượng, lấy Ấn làm con; Thương quan quá nhỏ bé, lấy Tỉ Kiếp làm con; Ấn thụ vượng mà không có được Thương quan, lấy Tài làm con vậy; Tài thần vượng mà tiết khí Thực Thương, lấy Tỉ Kiếp làm con vậy. Bất tất phải chuyên lấy Quan mà luận chồng, chuyên lấy Thương Thực mà luận con, nhưng mà lấy an tường, thuận tĩnh làm quý, Nhị Đức, Tam Kỳ không luận, Hàm Trì, Dịch Mã dù có ứng nghiệm, tóm lại ở lý lẽ không bền, trong đó nghiên cứu luận, không thể không rõ." ( Chỗ này là nói rõ luận nữ hợp với cách cục mà không chú trọng Thần Sát )

Tiên hiền Trần Tố Am nói: "Phàm xem nữ mệnh, hỷ nhu mà không hỷ cương, hỷ tĩnh mà không hỷ động; Tử tinh hỷ vượng mà không hỷ suy, hỷ sinh mà không hỷ tuyệt; Tài Ấn hỷ hòa mà không hỷ ác, quý hợp hỷ không hòa không hỷ nhiều; Thương, Nhận, Tỉ Kiếp, xung chiến hình hại, hỷ không có mà không hỷ có, chỗ này là đại pháp vậy. Nhưng nhật chủ quá nhược, cũng nên trợ nên giúp; Phu, Tử quá vượng, cũng cần tiết hoặc tổn. Có lúc dụng Tài chế Ấn, dụng Kiêu chế Thực, dụng Thương chế Quan, dụng Sát chế Kiếp, dụng Kiếp chế Tài, dụng Hợp mời cát thần, dụng hình xung khử Kị thần, dụng nên thích hợp, hung phản thành cát. Lại có cục không có Phu tinh mà chồng quý, cục không có Tử tinh mà con nhiều, chỗ này tất có ám sinh ám hội; có Phu tinh thấu lộ ra mà chồng lại tiện, có Tử tinh lộ rõ mà con thiếu lại yểu, vậy phải quy về nhiều cách mà suy đoán; nhưng bên trong có cục cùng ám xung ám hợp cương kiện uy vũ, loại dụng Nhận dụng Mã, nữ mệnh không nên mà thôi! Nếu phân biệt hoặc là Trinh (trung hiếu) hoặc là Tà (không trung hiếu) hoặc là Thuận (lợi) hoặc là Lệ (ác), phải xem nhật chủ cùng chỗ dụng cách cục, Thuần Tĩnh là Trinh, kiên cường là Lệ, cũng chỉ sẽ lấy ngũ hành mà đoán, chớ cố chấp theo sách xưa, lấy Thần Sát bậy bạ vậy. Về phần phép xưa luận nữ mệnh, chỉ chấp nhận một Quan, không nên thấy nhiều, chỗ này sợ hai can hai chi, không nên thấy nhiều mà thôi! Như Giáp là Quan kèm theo Dần mà được Lộc, Ất là Sát kèm theo Mão mà có chế, chỗ này chính là cát mà có lực, tức là Quan Sát cùng gặp, khử lưu hợp pháp, cũng không có hại, phàm Ấn Tài Thực Thương đều như vậy." Cho nên Phu tinh nếu không đắc lực, thì tất phải sẽ luận dụng thần là không đắc lực, không thể khư khư giữ cái cũ mà không thay đổi, cho là nữ mệnh cứ nói phải có "Lấy dụng thần xem là Phu tinh, hỷ thần xem là Tử tinh", cho nên độc giả đặc biệt chú ý.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Tiên hiền Nhậm Thiết Tiều nói: "Phàm Phu tinh nữ mệnh, tức là dụng thần; Tử tinh nữ mệnh tức là hỷ thần; không thể chuyên luận Quan tinh là chồng, Thương Nhận là con. Nữ mệnh, trước tiên xem Phu tinh là thịnh hay suy, thì biết là quý tiện vậy! Thứ xem cách cục là thanh hay trọc, thì biết hiền hay ngu vậy! Dâm tà hay đố tật, tình ý không ngoài tứ trụ; trinh tĩnh đoan trang, lý lẽ đều ở ngũ hành, nếu quan sát kĩ càng sẽ tinh thông, trinh phụ không gặp sai lầm bậy bạ; xác định nghiên cứu tường tận, nói chính xác là dâm ô khó tránh.

Nhị Đức Tam Kỳ, ngông cuồng làm ra là việc tốt; Hàm Trì, Dịch Mã, nói si bởi hậu nhân. Bất hiếu với ông bà, chỉ vì Tài khinh Kiếp trọng; bất kính với chồng, đều vì Quan nhược Thân cường. Quan là lộ rõ, chồng chủ có danh; khí tĩnh hòa bình, đạo phụ nữ nhu thuận. Nếu là Quan tinh thái vượng, không có Tỉ Kiếp lấy Ấn làm chồng; có Tỉ Kiếp mà không có Ấn, lấy Thương Thực làm chồng; Quan tinh quá nhược, có Thương quan lấy Tài làm chồng, không có Tài tinh mà có Tỉ Kiếp, cũng lấy Thương Thực làm chồng; cục đầy Tỉ Kiếp mà không có Ấn không có Quan, lại lấy Thương Thực làm chồng; cục đầy Ấn thụ mà không có Quan không có Thương, lấy Tài làm chồng; Thương quan vượng Nhật chủ suy, lấy Ấn làm chồng; Nhật chủ vượng, Thực Thương nhiều, lấy Tài làm chồng; Quan tinh khinh, Ấn thụ trọng, cũng lấy Tài làm chồng. Tài là ân tinh của chồng, nữ mệnh thân vượng không có Quan, Tài là lệnh đắc cục, là thượng cách vậy. Như luận hình thương, lại có lý lẽ sinh khắc tồn tại! Là Quan tinh, không có Tài đạo, nhật chủ cường, Thương quan trọng, tất khắc phu; Là Quan tinh, không có Tài tinh, Tỉ Kiếp vượng, tất coi thường chồng; Là Quan tinh, không có Tài tinh, nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, tất khinh chồng là khắc phu; Quan tinh nhược, Ấn thụ nhiều, không có Tài tinh, tất khắc phu; Tỉ Kiếp vượng mà không có Quan, Ấn tinh không có Tài, có Thương quan, Ấn thụ trọng, tất khắc phu; Thực thần nhiều, Quan tinh ít, có Ấn thụ, nhiều Tài tinh, tất khắc phu."

Lại nói: "Nữ nhân lấy dụng thần làm phu tinh, hỷ thần làm Tử tinh, không thể chuyên luận Quan Thực là Phu Tử. Nhật chủ vượng, Thương quan vượng, không có Ấn thụ, có Tài tinh, con nhiều mà quý; nhật chủ vượng, Thương quan vượng, không Tài Ấn thì con nhiều mà mạnh; nhật chủ vượng, Thương quan khinh, có Ấn thụ, Tài đắc cục, con nhiiều mà phú; nhật chủ vượng, không có Thực Thương, Quan đắc cục, con nhiều mà hiền; nhật chủ vượng, không có Thực Thương, có Tài tinh, không có Quan Sát, con nhiều mà có tài năng. Nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, có Ấn thụ, không có Tài tinh, không có Quan Sát, con nhiều mà có tài năng. Nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, có Ấn thụ, không có Tài tinh, tất có con; nhật chủ nhược, Thực Thương khinh, không có Tài tinh, tất có con; nhật chủ nhược, Tài tinh khinh, Quan Ấn vượng, tất có con; nhật chủ nhược, Quan tinh vượng, không có Thương quan, có Ấn thụ, tất có con; nhật can nhược, không có Quan tinh, có Thương Kiếp, tất có con.

Nhật chủ vượng, có Ấn thụ, không có Tài tinh, con tất thiếu; nhật chủ vượng, Tỉ Kiếp nhiều, không có Quan tinh, có Ấn thụ, con tất thiếu. Nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, không có Tài tinh, tất thiếu con; nhật chủ nhược, Thương quan trọng, Ấn thụ khinh, thì ít con! Nhật can nhược, Tài tinh trọng, gặp Ấn thụ, tất thiếu con; nhật chủ nhược, Quan Sát vượng, tất thiếu con; nhật chủ nhược, Thực Thương vượng, không có Ấn thụ, tất thiếu con.

Hỏa viêm thổ táo thiếu con, thổ kim thấp trệ thiếu con, thủy phiếm mộc phù thiếu con, kim hàn thủy lãnh thiếu con, trùng điệp có Ấn thụ thiếu con, Tài Quan quá vượng thiếu con, cục đầy Thực Thương thiếu con.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Về phần thuyết dâm tà, cũng nghiên cứu thần tứ trụ: Nhật chủ vượng, Quan tinh bé, không có Tài tinh, nhật chủ đủ để đối địch; nhật chủ vượng, Quan tinh bé, Thương quan trọng, không có Tài tinh, nhật chủ đủ để coi thường; nhật chủ vượng, lệnh Quan tinh, Thương quan trọng, không có Tài tinh, nhật chủ đủ để coi thường; nhật chủ vượng, Quan tinh nhược, khí nhật chủ, sinh trợ thần khác mà khử mất; nhật chủ vượng, Quan tinh nhược, khí Quan tinh, hợp nhật chủ mà hóa; nhật chủ vượng, Quan tinh nhược, khí Quan tinh, dựa thế nhật chủ; nhật chủ nhược, không có Tài tinh, có Thực Thương, gặp Ấn thụ, nhật chủ chủ tự chuyên nhất; nhật chủ vượng, không có Tài tinh, Quan tinh khinh, Thực Thương trọng, Quan tinh không có chỗ dựa; nhật chủ vượng, Quan vô căn, nhật chủ không để ý Quan tinh, hợp Tài mà khử mất; nhật chủ nhược, Thương Thực trọng, Ấn thụ khinh; nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, không có Ấn thụ, có Tài tinh. Thực thương nắm lệnh, Tài Quan thất thế; Quan không có Tài sinh, Tỉ Kiếp sinh Thực Thương; cục đầy Thương quan, không có Tài; cục đầy Quan tinh, không có Ấn; cục đầy Tỉ Kiếp, không có Thực Thương; cục đầy Ấn thụ, không có Tài, đều là mệnh có Phu tinh bất thuận vậy. Tóm lại, Thương Thực không nên nhiều, nhiều tất không nghiêm túc mà nhiều dâm tà vậy; Thương Thực trọng Thân nhược có Ấn, thân vượng có Tài, giữ thông minh xinh đẹp mà trinh khiết vậy. Bởi vì Thương quan, Thực thần tiết khí quá mức, tất chủ người thông minh mà phóng đãng, không giữ lễ nghi, mà còn kiêu ngạo tự do, nhật can cường không thấy Tài tinh lưu thông hoặc nhật can nhược không thấy Ấn thụ phù trợ, thì tùy hứng mà không có kiêng sợ.

Nữ mệnh lấy năm tháng làm nhà mẹ, lấy ngày giờ làm nhà chồng, chi ngày là chồng, giờ là con, hỷ dụng phúc thần tụ ở trên trụ giờ, bởi vì chồng con mà quý, là phúc cho phụ nữ, ở chồng và con, nếu hỷ dụng phúc thần thai tụ ở trên trụ năm tháng, chẳng qua là sinh ở gia đình phú quý, cuối cùng không phải là phúc của chồng con.

Hỷ dụng kị thấy xung động, nữ mệnh lấy Quan tinh làm chồng, càng kị thấy xung, không nên có Quan Sát hỗn tạp, phương thành nhiều chồng, phàm phu tinh thấy xung động, mệnh tụ dâm lạm nhiều chồng, chỗ này có thể bổ túc cho bát pháp và bát cách còn thiếu vậy.
Nữ mệnh lại kị hợp, can hợp và chi hợp. Đều không phải chỗ hỷ, càng lấy Song Uyên hợp là kị, Song Uyên hợp là, như một Kỷ thấy hai Giáp, một Ất thấy hai Canh, một Tân thấy hai Bính, một Đinh thấy hai Nhâm, một Quý thấy hai Mậu …, hoặc tứ trụ vốn có Giáp Ất, lại có Ất Canh, Tý Sửu, Dần Hợi, 2-2 đối hợp, gọi là Song Uyên hợp, nữ mệnh thấy, đều phải là tốt, lại kèm theo Đào Hoa, gọi là Song Uyên Sát, lại càng không tốt.

Luận nữ mệnh phải đặc biệt chú ý, không thể thấy trong bát tự có Cô quả, Đào hoa, Kiếp sát, Hồng diễm, Vọng môn quả, Tử hồn tử, Thiết tảo trửu... sẽ phán định là phá bại dâm tà hoặc mệnh khắc phu hình tử. Bởi vì luận bát tự tất phải phối hợp toàn cục cùng hành vận được hay mất, không thể thấy trong bát tự có một, hai loại hình phá, mà lấy một nói cả trăm, cứ lấy một loạt không hợp với quy luật mà đoán định, là không thể tin, vừa nhìn cũng biết!

Tiên hiền Lưu Bá Ôn phụ họa Trích Thiên Tủy nói: ôm một nửa thái độ giữ lại, không luận lấy Nhị Đức Tam Kỳ, Hàm Trì Dịch Mã dù có ứng nghiệm, tóm lại là không có lý lẽ; tiên hiền Trương Nam đau khổ than trách; Tiên hiền Trần Tố Am cho rằng làm ra điều xằng bậy;

Tiên hiền Thẩm Hiếu Chiêm lấy Thần Sát cuối cùng không có quan hệ ở cách cục bần tiện. Hầu như tất cả học giả trải qua từ thời Minh và Thanh nghiên cứu tinh hoa mệnh lý, hầu như không có người nào xác nhận các loại Thần Sát, đối với mệnh người đã có sẵn lực ảnh hưởng quyết định. Cho nên luận nữ mệnh tất phải lấy toàn cục kiêm hợp lại tuế vận toàn bộ mà xem, dù sao cũng không thể cứ thấy Đào hoa, Dịch mã, Hồng diễm, nói bừa là dâm tà, để xỏa bỏ trinh phụ gặp phải sự phỉ báng, mà hậu hối nói lỡ lời.

Mệnh lý nói chỗ gọi là "Khắc cha, khắc mẹ, khắc chồng, khắc vợ, khắc con", thực ra có nghiên cứu thảo ra từ đầu tính tất yếu.

Tiên hiền Trần Tố Am nói: "Thế tục tương truyền, mệnh phụ nữ hung thì có thể khắc con, mệnh con hung thì có thể khắc cha, mệnh vợ hung thì có thể khắc chồng, mệnh chồng hung thì có thể khắc vợ, vì thế cốt nhục oán ghét." Lòng người quan tâm đến thói đời, cho nên ứng với chú ý cùng chỗ này, nghiên cứu mệnh lý, thành thật coi trọng khiêm tốn, nếu không, bảo sao làm vậy, tuần tự cha mẹ, anh em, con cháu, hoặc vợ chồng, ngày đêm oán hận, lục thân bất hòa, mong muốn từ gần đến xa, ban ân tích đức, không giống như trèo cây mà bắt cá!

Khắc chồng khắc vợ, nếu đối chiếu chữ xem hàm ý, biểu thị phối ngẫu hội một phương chủ động khử khắc hại đối phương, hoặc hại hoặc chết, là mức độ khắc sát lớn nhỏ, mà định, chữ "Khắc" hàm nghĩa áp chế, sát hại, ý là sát thương, rất giống trong bát tự có hiện tượng khắc chồng, khắc vợ, sẽ vĩnh viễn không có cách tự thay đổi.

Bản thân của mỗi mệnh đều có đủ đặc tính độc lập, một mệnh thuộc về một sự việc, mà không phụ thuộc ở một hoặc hai mệnh ở trên mà bị gặp cưỡng chế hoặc bị hợp trói, cho nên phó thác không dễ dàng theo một mệnh mà làm mất đi suy nghĩ một mệnh khác.

Chỗ gọi là “Khắc”, cách nói chính xác phải là " Ám chỉ", theo một cá nhân trong bát tự phát hiện mệnh vận đối phương tiêu hay trưởng, cát hay hung chỗ đối phương thường bị khắc, trong bát tự cũng có thể xem rõ ràng ra hung tượng, cho nên cũng không thể lấy trách nhiệm đến bản thân mà đoán.

Trong bát tự có một số người xác thực là khắc phu, ám chỉ ly hôn cùng hiếm con, hôn nhân đối phương đã tan vỡ, nói xảy ra trực tiếp, cũng rất có thể dừng lại tức là nó bị tổn hại, nhưng người chưa lập gia đình hoặc tiếp cận sự tan vỡ, thì không biết phải từ đâu mà đến, tài năng không đến nỗi khiến cho tác dụng ra ngoài ý muốn. Một cá nhân phải chăng không có khắc, là không phải tuyệt đối, thực chất nó hoàn toàn liên lụy tới rất nhiều nhân tố ở trên, như đại vận cát hung cùng hành vận bát tự của người chồng là cát hung hay họa phúc mới có thể luận đoán. Hai cá thể độc lập, cũng như hai loại nguyên tố hóa học đồng thời tương phản, đồng thời phát sinh một cục diện khác, khắc và không khắc, cũng không đơn độc phân biệt dễ dàng như vậy.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Nữ tính có ám chỉ khắc phu, tất nhiên không có người dám sánh đôi. Xã hội ngày xưa bầu không khí chưa mở, nam kết hôn nữ, phần lớn đều đem trai chưa vợ thay mặt hợp lại bát tự, trong đó nhất định không thiếu mệnh có bát tự mang khắc tinh, việc này phải chăng nữ nhân đều không lấy chồng được chứ? Đáp án đương nhiên là không phải. Tôi tin tưởng bọn họ nhất định có người bất hòa đạt được hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Hôn nhân ở xã hội hiện đại tối đa sẽ nhờ người chọn lựa một ngày hoàng đạo thật tốt mà thôi, cho nên một vài nữ nhân có phu cung hình khắc rất tệ hại, rốt cuộc vẫn có người rất tốt, cũng không phải mệnh khắc phu sẽ lấy không được người chồng tốt, hoặc là chồng nhất định sẽ bị khắc chết.

Thông qua nguyên tắc ở trên mà nói, mệnh khắc phu nếu lấy nam nhân trong mệnh cục hòa thuận, tình huống gây ra khắc và chịu khắc thì giảm bớt rất nhiều, hoặc sử dụng phương pháp lấy dài nuôi ngắn trả lại bát tự giống như kim thủy thái vượng, lấy mộc hỏa thổ là dụng thần, nếu là tìm một bát tự có cá mộc hỏa thổ đều vượng để phối hợp, hai mệnh trung hòa, tất nhiên vợ chồng sẽ ân ái lâu dài, hoặc nữ mệnh có Thương quan vượng, dĩ nhiên có hiện tượng khắc Quan Sát, nếu như lấy chồng có nhật chủ vượng Tỉ Kiếp nhiều Tài nhiều, thì biến thành không khắc, chẳng những không khắc, mà còn giống như cá gặp nước. Nếu mệnh nhật chủ kiện vượng Tỉ Kiếp tranh Tài là họa, nam mệnh lấy Tài là vợ, Thê tinh gặp Tỉ Kiếp nhiều, dĩ nhiên sẽ khắc vợ, bát tự có 2 Tỉ, tất cả mệnh nam nữ lấy chỗ cần, đều được chỗ, vừa khéo một phương kị thần, đúng lúc là dụng thần đối phương, cho nên nữ mệnh có Thực thương trọng khắc phu, gặp phải mệnh có Tỉ Kiếp trọng khắc thê, một lúc trung hòa, thì có thể gặp hung hóa cát.

Cho nên luận mệnh là, đàm luận sự việc cùng lục thân tương khắc, cần phải đàm luận cho ra chỗ phức tạp, tận lực đề phòng lục thân gây ra oán hận, cốt nhục ly tán, là nguyên nhân mất tình cảm vợ chồng. Tối đa chỉ có thể khiến cho hiểu rõ hết tất cả cát hung họa phúc, đều có quan hệ từ mệnh vận bản thân, làm sao đáp ứng tu tâm dưỡng tính như thế nào cùng với chú ý cuộc sống hàng ngày, nhân rộng phúc đức, thì có thể gặp hung hóa cát, do họa mà được phúc, không giận trời trách người, khiến cho mọi người thấy nhau đều có thể giúp nhau nhường nhịn nhau, tôn trọng lẫn nhau, không có ngỗ nghịch lẫn nhau, coi trời bằng vung, mà lừa gạt nhau theo thói thường tình, vốn cũng ô nhục bỉ ổi, ăn năn hối cải. Chỗ này là nhân loại lợi dụng tự nhiên để khống chế tự nhiên ứng với thủ pháp văn hóa đặc trưng là đối nhân xử thế, cũng là một mục đích nghiên cứu mệnh học, thật không có thể túy tiện đối xử.

Thông thường luận mệnh, đối với mệnh tốt hoặc là vận tốt, nhiều hơn khen ngợi, chỉ là làm cho thêm roi mà thúc ngựa chạy, đa số quốc gia, phục vụ xã hội; đối với mệnh hung hoặc là vận hung, đổi ra cái giáo, chỉ là làm cho "Định, tĩnh, an, lự, đắc", loại trừ nhiều thứ tâm thần hoảng hốt, ngày đêm không yên. Cuối cùng làm cho không có "Suy tính hơn thiệt" hoặc là "Giận trời trách người" là thích hợp, bị hung họa không có cách nào tránh khỏi, cũng ứng với làm cho có dũng khí tiếp nhận cái đã tới, nhất thiết là do bản thân thừa nhận mà không xoay chuyển chỗ họa hại ở người khác, như suy luận một người ở một vận tất chết, một người cho là cái chết không xa, mà phát sinh thay đổi tâm lý, hoặc là làm tận lực để hưởng thụ, lãng phí tài sản, hoặc là trộm cướp gian dâm, không chuyễn ác nào mà không làm, gia tăng làm hại, không thể nói hết. Người người sợ chết, mà chết đều như nhau, sợ thì tích gì, cho nên nhà giáo dục, nhà tôn giáo, cùng với hết thảy thế đạo lòng người gian nan khốn khó, chớ không khuyên trong lòng bỏ phí nghe theo thông đạt, nhà mệnh lý học, nếu không tiếp thu triết học nhân sinh mở đường chỉ lối, thì làm nhiễu loạn thế đạo lòng người. Khổng Tử nói: " Kẻ nào khởi xướng làm xấu, sẽ không có hậu !" Thầy tướng mệnh giang hồ có nói người không có đức, sẽ rước họa chỗ làm hại, mà không chỉ lấy ở người khác làm giới hạn, tự thiêu cửa nhà, thân bại danh liệt, sự việc còn lại cũng vậy. Đúng thói quen vận mệnh răn đáp sợ hãi răn cấm.

Như đối diện vực sâu, như bước lên miếng băng mỏng, tất phải lấy đám người xã hội lợi hại là lợi hại, có thể thấy đồng loạt. Hi vọng mọi người chú ý cho!

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Trong sách mệnh lý, có khắc vợ mà ly hôn, vì việc ly hôn không phải không thể tránh khỏi, tức làm cho vợ chồng bất hòa, mà do ở dưới điều kiện lễ giáo trói buộc mà tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục, không hề không có cứu vãn, thời đại hiện tại, mọi người đều tự do, các vụ án ly hôn, liên tiếp xuất hiện, trong không gian mệnh tạo, tượng trưng như thế nào là ly hôn, vấn đề này có thể nghiên cứu vậy. Tài là thê tinh, chi ngày là thê cung, nhật chủ quá vượng lại thấy Tỉ Kiếp, tượng trưng là khắc vợ, như tọa ở dưới Dương Nhận, chi ngày là chuyên lộc, thê cung vượng lại thấy Ấn mạnh, thì có khả năng ly hôn, lại thấy xung Tài tinh, nhất quyết là khó hợp, Tài Ấn không khoan dung, ắt là không hợp vậy, nữ mệnh chi ngày là phu cung, tọa dưới Thương quan mà lại thân cường khí vượng, cũng là biểu hiện ly hôn, vì nữ mệnh lấy Quan là phu tinh, tọa dưới Thương quan, tình nghĩa khó hợp, nhưng mà ly hôn không phải không thể tránh khỏi, là người luận mệnh, thấy loại mệnh tạo này, thì phải lấy nhẫn nại khuyên giải là chủ, tức lấy chứng cớ mà luận, cũng chỉ là điềm làm trái, không nhất định ly hôn vậy. Tôi có một bát tự khắc chế không quá mãnh liệt, nhiều nhất giữa vợ chồng nữ tính hoặc nam tính gặp không hòa thuận hoặc miệng giải thích không ngừng, không đến nỗi bất hòa thành cừu địch, thích hợp kết hôn muộn, cho nên thấy mệnh bát tự kể trên, tôi cho rằng phải nói kết hôn muộn, tình huống sẽ có hơi chút thay đổi, bởi vì thân tâm đôi bên đã chín muồi, suy xét tăng thêm, đều có trợ giúp cho việc giữ gìn hôn nhân.

Bác sĩ trị bệnh, kéo nguy thành an, suy đoán mệnh lý, nghèo không thể làm cho giàu, tiện không thể làm cho quý, không có kĩ thuật cứu vãn, trở thành thiếu sót đáng tiếc vậy, nhưng đường vợ con chưa hề không thể cứu vãn một, hai, không nói chuyện giải cầu an, phương diện chuyên theo học lý lẽ tính toán bổ cứu, tức là như phép hợp hôn.

Xã hội Trung quốc thời cận cổ đại, tuyển lựa hôn nhân nam nữ, mệnh đa số đều dựa vào cha mẹ, người làm mai mối nói, trước hôn nhân nam nữ giao tiếp nhau, hoàn toàn phổ biến không nhiều, nữ nhân càng ít ra khỏi cửa nhà, vì do cha mẹ, trưởng bối, ngoại trừ điều kiện chú ý thông thường, ở trong bát tự hợp hôn, cũng cấu thành quyền quyết định khá lớn, có thể thấy bát tự hợp hôn ở xã hội Trung quốc, việc tuyển lựa hôn nhân đã có nguồn gốc từ lâu, thâm căn cố đế, bền vững không thể phá, trước kia Trung quốc nam kết hôn nữ lấy chồng, một loại thủ tục lúc đầu, là tìm ra bát tự, chính là lấy cầm tinh năm sinh của nữ cùng năm sinh ra, tháng, ngày sinh thần, viết bát tự màu đỏ dán ở trên, nhờ người làm mai đưa đến nhà đàng trai, sau đó nhà đàng trai tiếp nhận, sẽ khai với trước mặt bàn thờ thần Táo quân, cùng một vài đồ cúng, hoa quả, điểm hương thỉnh Táo thần định đoạt cát hung, lại đem bát tự cô gái đi mời thầy suy đoán vận mệnh bát tự tốt hay xấu, cùng mệnh nam có hay không có tương xung hoặc phối hợp, hoặc là tiếp tục hướng về thần linh xin quẻ, để cầu cát hung.

Bát tự phái Nữ, kể từ sau khi người làm mai mối đưa đến nhà đàng trai, không có luận là cát hay là hung. Phải chăng có thể sinh ra hay không, tuyệt đối không thể đem tất cả bát tự đặt vào sang năm, nếu như ở trên nửa năm, đều sẽ không thể qua tháng 5, nếu không, không khỏi tránh phải tranh chấp lộn xộn, nên đem bát tự nữ giới sử dụng không khéo gặp phải tay khoác lác, đem đến cho đàng gái, tỏ ý lấy xin lỗi thận trọng, chỗ này chính là tập tục thông thường dân gian tín ngưỡng không quan hệ đến mệnh lý bát tự hôn nhân chính xác đầy đủ. Theo trên quan điểm khách quan, mức độ hợp hôn bát tự có thể tin cậy, bởi vì bát tự là một kết cấu tâm tính của một cá nhân, tâm tính hai người kết bạn, có thể xem ra lợi và hại, nghiên cứu thảo luận lợi và hại, có thể tăng thêm mức độ hai người sống với nhau đến bạc đầu.

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
Thông thường lúc nghiên cứu bản thân cung vợ chồng, đều đúng với tướng mạo bên ngoài cảm thấy hiếu kỳ đối với việc phối duyên, nghề nghiệp, cá tính, nhân phẩm, sự nghiệp, giàu có, lúc vừa nhìn đến phu thê cung cát lợi, sẽ cho rằng việc phối ngẫu nhất định là rất lý tưởng, cuộc sống hôn nhân tất phài "Chỉ ao ước đôi uyên ương chứ không ao ước thần tiên" như vậy vĩnh viễn ân ái mỹ mãn; một khi lúc phát hiện phu thê cung không tốt, đối với hôn nhân sẽ mất đi lòng tin, cho rằng các loại bi thảm từ việc sinh ly tử biệt, tựa như giáng xuống trên đầu mình.

Thật ra, quan niệm này cũng không chính xác, bởi vì nếu phán đoán hôn nhân mỹ mãn hay không, không thể chỉ do một phương phu thê cung của đội nam nữ làm căn cứ, mà nhất định phải phối hợp bát tự đôi bên nam nữ hỷ kị để luận. Chỗ này cũng là chỗ cổ nhân gọi là "Hợp hôn", chỉ cần ngũ hành bát tự đôi vợ chồng có thể điều hòa qua lại lẫn nhau, mà chỗ đôi bên đến đại vận, lưu niên, không có nói xung khắc nghiêm trọng, như vậy sẽ biểu thị tính tình vợ chồng là tương đầu, hôn nhân mỹ mãn, lúc này cung phu thê cát hay hung, cũng không phải là tuyệt đối quan trọng, chẳng qua chỉ là, cơ hội gặp phải tình hình này là rất ít, tạo hóa trêu người, chớ gọi người là tại vì sao chứ?

Phép tắc nam mệnh tuyển lựa nữ giới, lấy trước tiên tất phải xem mệnh thức của đối phương, điều kiện quan trọng là xem ở người chồng, nữ nhi hưng hay bại, nữ lấy Quan làm chồng, nhật can cường lấy Quan tinh là dụng, mà có Tài tinh sinh phù, hoặc là nhật can cường lấy Tài tinh làm dụng, mà có Quan tinh bảo vệ Tài, đều lấy Tài Quan luận chồng con, còn nữ nhi, nếu như nguyên cục và hành vận, Tài Quan đều không bị xung khắc phá hoại hoặc hội tụ hợp kị thần, người này có trợ giúp chồng, mệnh che chỡ cho con.

+ Hoặc nhật can vượng lấy Thương Thực làm dụng, mà có Tài tinh sinh phát, hoặc lấy Tài tinh làm dụng, mà có Thực đầy đủ lưu thông ở các nơi, hoặc nhật can cường Ấn cường lấy Tài tinh làm dụng, mà có Thương Thực sinh Tài, đều lấy Thực Thương Tài luận Phu, Tử, nếu như nguyên cục cùng hành vận, Thương Thực Tài đều không bị xung khắc phá hoại hoặc hội tụ thành kị thần, thì Phu, Tử đều tốt, có giúp chồng, có phúc khí che chở.

+ Hoặc bát tự theo Quan Sát mà có Tài tinh sinh Quan Sát, tòng Tài mà có Thực Thương sinh Tài hoặc Quan Sát bảo vệ Tài, tòng Thực Thương mà có Tài tinh khí lưu thông, tòng thế tòng khí mà khí thế có thể lưu thông, nguyên cục cùng hành vận, không gặp xung khắc phá hoại hoặc hội tụ hợp thành kị thần, phu, tử đều tốt, có trợ giúp chồng, có phúc khí che chở.

+ Hoặc nhật can cường Quan Sát cùng thấy Thực Thương, có Tài tinh khí lưu thông , lực Quan Sát lớn hơn Thực Thương thì lấy Quan Sát Tài luận Phu, Tử, lực Thực Thương lớn hơn Quan Sát, thì lấy Thực Thương luận phu, tử, nếu như nguyên cục cùng hành vận, hỷ dụng không phá xung khắc phá hoại hoặc hợp hóa thành kị thần, thì phu, tử đều tốt, có trợ giúp chồng, có phúc khí che chở.

+ Hoặc nhật can nhược Quan Sát nhiều lấy Ấn làm dụng, mà có Tỉ Kiếp chế Tài bảo vệ Ấn, hoặc nhật can nhược Thương Thực nhiều cũng lấy Ấn làm dụng, cũng có Tỉ Kiếp chế Tài bảo vệ Ấn, hoặc nhật can cường Quan Sát và Thực Thương khắc tiết giao nhau, nhật can chuyển nhược, lấy Ấn hóa Sát sinh thân chế Thực Thương làm dụng, còn có Tỉ Kiếp bang thân thay mặt tiết khí, hoặc nhật can nhược Tài nhiều lấy Tỉ Kiếp làm dụng, mà có Ấn tinh sinh phù, đều lấy Ấn Tỉ Kiếp luận phu, tử, nếu như nguyên cục cùng hành vận, Ấn Tỉ Kiếp không bị xung khắc phá hoại hoặc hội tụ hợp thành kị thần, thì phu, tử đều tốt, có trợ giúp chồng, mệnh có che chở.

+ Hoặc ngũ hành bát tự, có 4, hoặc có 3 hành đều đủ, khí thế lưu thông, hỷ dụng hỗ tương hộ vệ, hành vận được chỗ hoặc là bát tự hợp hóa thành cách, khí thế lưu thông, nguyên cục cùng hành vận không bị khắc xung hoặc hội hợp hóa thành kị thần mà phá cách, phu, tử đều tốt, có trợ giúp chồng, có phúc khí che chở.

Nữ mệnh lúc chọn chồng, đại thể cùng với nam mệnh phép xem là giống nhau, chẳng qua nữ mệnh là lấy Quan Sát làm chồng, nam mệnh lấy Tài làm vợ, chỉ cần bát tự đối phương, khí thế ngũ hành lưu thông, hỷ dụng hỗ tương hộ vệ, hành vận không bị xung khắc nghiêm trọng hoặc thê cung không bị thương tổn nghiêm trọng, mệnh thức trung hòa, không có thái quá hoặc bất cập, cùng chế hóa thích hợp, cơ bản làm cho cuộc sống gia đình hạnh phúc mà ổn định.
1, Bát tự nam mệnh có Tỉ Kiếp thái vượng, mà lúc tổn thương Tài thần thê tinh, nữ mệnh Thương quan nhiều. Trái lại, nếu bát tự nữ mệnh, Tỉ kiên, Kiếp tài quá nhiều, thì ứng với phối hợp nam mệnh có Thực thần, người có Thương quan nhiều, như vậy mới có thể hỗ tương điều hòa, mà hóa hung thành cát, các thần khác có thể loại suy thì có thể biết.
2, Không có luận bát tự nam nữ, hỗ tương phối hợp, có thể ngũ hành trung hòa, tất cả lấy chỗ cần, tất cả chỗ được, không thiên khô, mới là hợp hôn tốt. Như bát tự kim thái vượng, ứng với phối hợp bát tự hỷ kim là hỷ dụng thần ... thì có thể trở thành lương duyên.
3, Phép lấy nhật can phối hợp: Nếu như bát tự đôi bên trung hòa, không có khắc hại nghiêm trọng mà nhật can đôi bên hợp hóa thành một thể mà thành hỷ dụng thần, như vậy càng tốt, thông thường lúc này đối với vợ chồng, là một thể đồng tâm, làm cho kẻ khác ao ước. Ví dụ như: Người sinh ngày Giáp cùng người sinh ngày Kỷ, hoặc người sinh ngày Ất và người sinh ngày Canh, hoặc người sinh ngày Bính và người sinh ngày Tân, hoặc người sinh ngày Đinh và người sinh ngày Nhâm, hoặc người sinh ngày Mậu và người sinh ngày Quý hỗ tương nhau kết hợp, âm dương có tình kết thành một khí, mà trở thành bạn đời hạnh phúc.
4, Phép xem địa chi ngày sinh, chi ngày nam mệnh là thê cung, hoặc chi ngày nữ mệnh là phu cung, có thể phối hợp với nhau, không phát sinh hình xung khắc hại lẫn nhau, hoặc hợp hóa thành kị thần, hướng hại dụng thần trong mệnh, tức là kết hợp tốt, nếu như có thể hội hợp mà trở thành hỷ dụng thần trong mệnh, như vậy sẽ càng tốt. Nếu như chi ngày xung lẫn nhau, nhưng có một thần khác hợp mà giải trừ chỗ xung, tức có thể gặp hung hóa cát, thường không ứng nghiệm.
5, Trong bát tự Mệnh cung tốt nhất là không nên gặp lục xung, xung thì không yên ổn, tính cách ở trên thông thường có hiện tượng phát sinh là không thể điều hòa.
Ví dụ như: Một phương mệnh cung là Tý đối phương là Ngọ, hoặc một phương là Dần và một phương khác là Thân, hoặc một phương là Mão còn phương kia là Dậu, hoặc một phương là Thìn còn một phương khác là Tuất, hoặc một phương là Tị còn một phương là Hợi.

Tóm lại, xem duyên phận hợp hôn, phái lấy hai bát tự nam nữ để xem, nhất định phải làm cho cân bằng cường nhược, kị hình xung khắc hại. Tất nhiên, cũng phải chọn áp dụng nguyên tắc thái quá hoặc bất cập, ức chế hoặc sinh hóa, hỷ kị, không nên tổn hại dụng thần lẫn nhau, để làm hợp hôn duyên phận, đây là nguyên lý phối hợp lý tưởng nhất.

Mệnh kết hôn muộn: mệnh nam nữ, Thương quan hiện rõ, là điều kiện đứng đầu để tuyển lựa phối ngẫu, dễ kết hôn muộn.
+ Nữ mệnh có Kiêu thần hiện rõ, dễ thay đổi hôn nhân. Kiêu Kiếp quá nhiều, là vãn hôn (kết hôn muộn).
+ Nam mệnh, Tài Quan không hiện rõ kết hôn muộn.
+ Nữ mệnh có Thương, Kiếp, Kiêu hiện rõ, kết hôn muộn dễ mất cơ hội hôn nhân.

(Hết)

descriptionLuận Hôn nhân  EmptyRe: Luận Hôn nhân

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply