-lesoi, 2014-
Ở Tiết mục này, tôi thấy bạn PL có đưa ra một vài ví dụ để chứng minh về thuyết hôn nhân, nhưng có nhiều bạn vẫn còn nhiều ưu tư thắc mắc, thật ra Luận Hôn nhân không đơn giản như chúng ta thường nghĩ. Nếu cứ theo các ông thầy ở ngoài đời, thì cứ ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc chọn một ngày nào đó cho là cát tường thì vỗ tay "OK", thế là răm rắp từng cặp nườm nượp thay nhau cưới. Rồi sau đó thì có người hoặc là chia tay sau đó một năm, có người thì đại nạn, có người thì phất lên giàu có ... thế thì do đâu mà có những việc như trên? Tại sao có người ưu sầu, có người vui vẽ ... còn nhiều và rất nhiều lý do để nói.
Sau đây tôi xin trích lục bài viết của một đại sư tổng hợp nhiều tài liệu, nhiều thư tịch kinh điển để chúng ta tham khảo, hi vọng cũng có thể giúp ích cho các bạn mới nhập môn và nhiều người cần đến. Tất nhiên, nếu ai đã nắm yếu lĩnh thì cũng ủng hộ một tràng pháo tay vậy.
Luận Hôn nhân
Tử bình phán đoán hôn nhân, chủ yếu xem Thê tinh và Thê cung, hoặc Phu tinh và Phu cung. Thê tinh là chỉ Chính Tài, Chính Tài không thấy, Thiên Tài cũng được, Thê cung là chỉ chi ngày, tức là nhật chủ tọa chi; Phu tinh là chỉ Chính Quan, Chính Quan không thấy có quyền lấy Thất Sát ( Thiên Quan ) là chồng, Phu cung cũng như Thê cung giống nhau là chỉ chi ngày mà nói. Có điều, có vài bát tự Chính Thiên Tài hoặc Chính Thiên Quan một chữ đều không thấy, thì phải căn cứ vào Trích Thiên Tủy ban hành phương pháp lấy dụng thần, sử dụng dụng thần luận vợ hoặc là chồng.
+ Luận vợ, trên nguyên tắc lấy Chính Tài làm chuẩn, bát tự hiện rõ Chính Tài, chỉ cần nhật chủ không suy nhược mạnh, sẽ được cưới vợ tốt; nếu là nhật chủ vượng, lại hiện rõ Chính Tài, lấy Tài làm hỷ dụng, mà không yêu cầu can chi khác đến xung khắc, thì chủ có vợ đẹp mà hiền, sau kết hôn gia đình hài hòa, sự nghiệp thành công. Tiên hiền Kim Tử Tiều từng nói: "Tài nhiều thê thiếp, xem thêm chi ngày, phàm thân vượng tài vượng, đại để phú mà nhiều thê thiếp, nhật tọa Tài cung mà đắc dụng, tất vì vợ mà được phú quý."
+ Luận chồng, lấy Chính Quan làm chuẩn, trong bát tự nếu thấy Chính Quan hiện rõ, nhật chủ vượng tướng được cân bằng, lấy chỗ này Chính Quan làm hỷ dụng, đem chỗ này mà được một người chồng tốt, gọi là phu xướng phụ tùy, chồng đắc lực mà có chỗ dựa.
+ So với, Tài là kị thần. ( thông thường là thân nhược, bát tự cần phải có Ấn sinh hoặc Tỉ kiên, Kiếp tài phù trợ, mà Tài thích đủ để phá Ấn cùng tiết khí Tỉ Kiếp), thì kim sinh thế kim không những không dễ dàng phát đại tài, mà còn cũng rất khó được vợ đẹp. ( nếu như thân nhược, chỗ này Tài thích đủ để điều hậu hoặc thông quan, vậy nên luận cách khác).
+ Lấy Quan làm kị thần, thông thường là thân nhược bát tự cần có Ấn cùng Tỉ Kiếp đến sinh phù, mà trong bát tự thấy Tài đến phá Ấn sinh Quan mà khắc thân, hoặc có đủ can chi Quan Sát hỗn tạp không có chế, địa chi phu cung hình xung mà không có giải thần, Thương quan thái vượng Ấn thiếu Tài nhiều, thì rất khó được đến một hôn nhân ổn định, lại còn cũng không dễ dàng đến được một người chồng tốt.
Hệ thống Mệnh lý lấy dụng thần là Tử, hỷ thần là Thê, cùng kiêm xem chi ngày là vợ, trụ giờ xem Tử, phu thê cung cố định ở chi ngày, chi ngày thuộc loại ngũ hành nào, đối với nhật chủ bang phù, hoặc ức hoặc tổn, kĩ thuật thì căn cứ ngũ hành chi ngày đối với nhật chủ có sinh khắc tiêu trưởng để phán đoán vợ chồng tốt hay xấu, loại phương pháp này khá khoa học, tức là dựa sát tình hình cách cục hỷ dụng cùng hành vận để xem, cũng đại thể không sai, bởi vì bát tự, hỷ dụng ở chi ngày, thì đa số trụ năm tháng là chỗ kị thần ở, do ở can chi tuế vận đều từ năm tháng mà đến, cho nên tuế vận ban đầu phần đa không phải là đất hỷ dụng, tất phải chờ đợi sau này lấy ở năm tuế, tuế vận mới có thể chuyển vào đất hỷ dụng, còn sinh mệnh có thể cưới vợ sinh con, cũng phải ở sau khi sinh lý thành thục, cho nên trung niên hưởng phúc vợ con, chính là gặp tuế vận ở cát địa, hiển nhiên lo không có hình thê khắc tử.
Trái lại, nếu như bát tự hỷ thần ở năm tháng, thì ngày giờ đa số là chỗ kị thần ở, hành tuế vận ban đầu cho nên là đất cát khánh, được che chỡ của bề trên, sau khi tuế vận nghịch chuyển, được chỗ kị thần, lấy xung khắc hỉ dụng thần ở năm tháng, là phá cách hại dụng, thì không những vợ con không thể bảo toàn, mà tài sản, địa vị, danh dự, sinh mệnh, cũng e rằng phải phát sinh biến hóa trọng đại. Là lấy mệnh cục hỷ dụng đắc lực, ngũ hành lưu thông, khắp nơi hộ vệ lẫn nhau, hành nghịch vận như được nguyên cục hỷ thần cứu hộ, thì vợ con có thể bảo toàn, mà tài sản, địa vị, danh dự, sinh mệnh, cũng không đến nỗi phát sinh biến hóa trọng đại. Bát tự có phu thê cung đều tốt, không quá khả năng gả chồng đến với người chồng tầm thường, cưới vợ đếu với vợ hung dữ; cùng lý, phu thê cung đến cực điểm ác liệt, chưa bao giờ nghe nói qua cuộc sống hôn nhân tốt đẹp, ở trên mệnh lý Tử Bình, đây là định luật, chẳng qua nếu như có thể hợp hôn nói là tốt, cũng có thể thu lại cái tốt.
Ở Tiết mục này, tôi thấy bạn PL có đưa ra một vài ví dụ để chứng minh về thuyết hôn nhân, nhưng có nhiều bạn vẫn còn nhiều ưu tư thắc mắc, thật ra Luận Hôn nhân không đơn giản như chúng ta thường nghĩ. Nếu cứ theo các ông thầy ở ngoài đời, thì cứ ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc chọn một ngày nào đó cho là cát tường thì vỗ tay "OK", thế là răm rắp từng cặp nườm nượp thay nhau cưới. Rồi sau đó thì có người hoặc là chia tay sau đó một năm, có người thì đại nạn, có người thì phất lên giàu có ... thế thì do đâu mà có những việc như trên? Tại sao có người ưu sầu, có người vui vẽ ... còn nhiều và rất nhiều lý do để nói.
Sau đây tôi xin trích lục bài viết của một đại sư tổng hợp nhiều tài liệu, nhiều thư tịch kinh điển để chúng ta tham khảo, hi vọng cũng có thể giúp ích cho các bạn mới nhập môn và nhiều người cần đến. Tất nhiên, nếu ai đã nắm yếu lĩnh thì cũng ủng hộ một tràng pháo tay vậy.
Luận Hôn nhân
Tử bình phán đoán hôn nhân, chủ yếu xem Thê tinh và Thê cung, hoặc Phu tinh và Phu cung. Thê tinh là chỉ Chính Tài, Chính Tài không thấy, Thiên Tài cũng được, Thê cung là chỉ chi ngày, tức là nhật chủ tọa chi; Phu tinh là chỉ Chính Quan, Chính Quan không thấy có quyền lấy Thất Sát ( Thiên Quan ) là chồng, Phu cung cũng như Thê cung giống nhau là chỉ chi ngày mà nói. Có điều, có vài bát tự Chính Thiên Tài hoặc Chính Thiên Quan một chữ đều không thấy, thì phải căn cứ vào Trích Thiên Tủy ban hành phương pháp lấy dụng thần, sử dụng dụng thần luận vợ hoặc là chồng.
+ Luận vợ, trên nguyên tắc lấy Chính Tài làm chuẩn, bát tự hiện rõ Chính Tài, chỉ cần nhật chủ không suy nhược mạnh, sẽ được cưới vợ tốt; nếu là nhật chủ vượng, lại hiện rõ Chính Tài, lấy Tài làm hỷ dụng, mà không yêu cầu can chi khác đến xung khắc, thì chủ có vợ đẹp mà hiền, sau kết hôn gia đình hài hòa, sự nghiệp thành công. Tiên hiền Kim Tử Tiều từng nói: "Tài nhiều thê thiếp, xem thêm chi ngày, phàm thân vượng tài vượng, đại để phú mà nhiều thê thiếp, nhật tọa Tài cung mà đắc dụng, tất vì vợ mà được phú quý."
+ Luận chồng, lấy Chính Quan làm chuẩn, trong bát tự nếu thấy Chính Quan hiện rõ, nhật chủ vượng tướng được cân bằng, lấy chỗ này Chính Quan làm hỷ dụng, đem chỗ này mà được một người chồng tốt, gọi là phu xướng phụ tùy, chồng đắc lực mà có chỗ dựa.
+ So với, Tài là kị thần. ( thông thường là thân nhược, bát tự cần phải có Ấn sinh hoặc Tỉ kiên, Kiếp tài phù trợ, mà Tài thích đủ để phá Ấn cùng tiết khí Tỉ Kiếp), thì kim sinh thế kim không những không dễ dàng phát đại tài, mà còn cũng rất khó được vợ đẹp. ( nếu như thân nhược, chỗ này Tài thích đủ để điều hậu hoặc thông quan, vậy nên luận cách khác).
+ Lấy Quan làm kị thần, thông thường là thân nhược bát tự cần có Ấn cùng Tỉ Kiếp đến sinh phù, mà trong bát tự thấy Tài đến phá Ấn sinh Quan mà khắc thân, hoặc có đủ can chi Quan Sát hỗn tạp không có chế, địa chi phu cung hình xung mà không có giải thần, Thương quan thái vượng Ấn thiếu Tài nhiều, thì rất khó được đến một hôn nhân ổn định, lại còn cũng không dễ dàng đến được một người chồng tốt.
Hệ thống Mệnh lý lấy dụng thần là Tử, hỷ thần là Thê, cùng kiêm xem chi ngày là vợ, trụ giờ xem Tử, phu thê cung cố định ở chi ngày, chi ngày thuộc loại ngũ hành nào, đối với nhật chủ bang phù, hoặc ức hoặc tổn, kĩ thuật thì căn cứ ngũ hành chi ngày đối với nhật chủ có sinh khắc tiêu trưởng để phán đoán vợ chồng tốt hay xấu, loại phương pháp này khá khoa học, tức là dựa sát tình hình cách cục hỷ dụng cùng hành vận để xem, cũng đại thể không sai, bởi vì bát tự, hỷ dụng ở chi ngày, thì đa số trụ năm tháng là chỗ kị thần ở, do ở can chi tuế vận đều từ năm tháng mà đến, cho nên tuế vận ban đầu phần đa không phải là đất hỷ dụng, tất phải chờ đợi sau này lấy ở năm tuế, tuế vận mới có thể chuyển vào đất hỷ dụng, còn sinh mệnh có thể cưới vợ sinh con, cũng phải ở sau khi sinh lý thành thục, cho nên trung niên hưởng phúc vợ con, chính là gặp tuế vận ở cát địa, hiển nhiên lo không có hình thê khắc tử.
Trái lại, nếu như bát tự hỷ thần ở năm tháng, thì ngày giờ đa số là chỗ kị thần ở, hành tuế vận ban đầu cho nên là đất cát khánh, được che chỡ của bề trên, sau khi tuế vận nghịch chuyển, được chỗ kị thần, lấy xung khắc hỉ dụng thần ở năm tháng, là phá cách hại dụng, thì không những vợ con không thể bảo toàn, mà tài sản, địa vị, danh dự, sinh mệnh, cũng e rằng phải phát sinh biến hóa trọng đại. Là lấy mệnh cục hỷ dụng đắc lực, ngũ hành lưu thông, khắp nơi hộ vệ lẫn nhau, hành nghịch vận như được nguyên cục hỷ thần cứu hộ, thì vợ con có thể bảo toàn, mà tài sản, địa vị, danh dự, sinh mệnh, cũng không đến nỗi phát sinh biến hóa trọng đại. Bát tự có phu thê cung đều tốt, không quá khả năng gả chồng đến với người chồng tầm thường, cưới vợ đếu với vợ hung dữ; cùng lý, phu thê cung đến cực điểm ác liệt, chưa bao giờ nghe nói qua cuộc sống hôn nhân tốt đẹp, ở trên mệnh lý Tử Bình, đây là định luật, chẳng qua nếu như có thể hợp hôn nói là tốt, cũng có thể thu lại cái tốt.