Chương 17. Phản Cục
Quân dựa Thần sinh lý rất tinh,
Lộ thiên cơ Nhi có cứu Mẫu,
Mẫu từ diệt Tử vì cửa khác,
Nam khỏe vì sao lại sợ thê.
Nguyên chú: Mộc là Quân, thổ là Thần vậy. Thủy phiếm mộc phù, thổ ngăn thủy thì sinh mộc, mộc vượng hỏa sí, kim phạt mộc thì sinh hỏa, hỏa vượng thổ tiêu, thủy khắc hỏa lthì sinh thổ; thổ trọng kim mai, mộc khắc thổ thì sinh kim, kim vượng thì thủy trọc, hỏa khắc kim thì sinh thủy, đều là Quân dựa vào Thần sinh vậy, lý này là rất huyền diệu.
Nhâm thị viết : Quân dựa vào Thần sinh, ý nói Ấn thụ quá vượng vậy. Chỗ này nhắm nhật chủ mà luận, như nhật chủ thuộc mộc là Quân, thổ trong cục là Thần, tứ trụ gặp nhiều Nhâm Quý Hợi Tý, thế thủy tràn lan, khí mộc lại hư, chẳng những không thể sinh mộc, ức chế mà mộc cũng không thể nạp được thủy, mộc tất trôi nổi vậy; tất cần dụng thổ ngăn thủy, thì nhờ căn ở trong mộc, thủy mới có thể sinh mộc mà cũng nhận được thủy vậy. Phá Ấn mà tựu Tài, là ý phạm thượng, cho nên gọi là Phản cục vậy. Tuy nhắm vào nhật chủ mà luận, tứ trụ cũng luận giống như thế. Như thủy là Quan tinh, mộc là Ấn thụ, thế thủy quá vượng, cũng làm cho mộc trôi nổi, mộc cần thấy thổ mà có thể nhận thủy, để thành diệu dụng phản sinh. Cho nên lý này rất thâm thúy vậy. Hỏa thổ kim thủy, đều luận giống như vậy.
Nhâm Thìn - Nhâm Tý - Giáp Dần - Mậu Thìn
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, tuy nhật chủ tọa lộc, không đến nỗi phù phiếm, còn thế thủy thái vượng; Thìn thổ tuy có thể tích thủy, hỉ Mậu thổ thấu lộ, Thìn là mộc dư khí. Đủ để ngăn thủy gửi căn, gọi là Quân dựa vào Thần sinh vậy. Cho nên sớm đăng khoa Giáp, danh cao Hàn uyển; càng đẹp là vận một mạch nam phương hỏa thổ, lộc vị là không thể giới hạn vậy.
Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Giáp Tý - Mậu Thìn
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, tạo trước tọa Dần mà thực, tạo này thì tọa Tý mà hư, cho nên chi năm mang hỏa Tuất thổ, so với Thìn thổ lực lượng quá lớn vậy. Bởi do căn Mậu thổ kiên cố, đủ để bổ hư cho nhật chủ, hành vận cũng vậy, công danh cũng vậy, làm quan đến chức Thượng Thư.
Kỷ Tị - Mậu Thìn - Tân Dậu - Kỷ Hợi
Đinh Mão/ Bính Dần /Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất
Tạo Trần Đề đốc, Tân sinh tháng Thìn, thổ tuy trùng điệp, xuân thổ cuối cùng thuộc khí loại bỏ mà buông; mộc có dư khí, trong Hợi có Giáp mộc phùng sinh, Thìn Dậu gián tiếp tương sinh, lại trợ căn nguyên cho mộc, xung xa Tị hỏa, khiến cho không sinh thổ Mậu Kỷ, cũng là Quân dựa vào Thần sinh vậy. Thi Hương không thành, là do nguyên thần mộc không thấu vậy, nhưng hỉ sinh hóa không nghịch, vận đến đông bắc đất thủy mộc, cho nên là vũ chức siêu quần.
Mậu Ngọ - Đinh Tị - Kỷ Mão - Canh Ngọ
Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi
Kỷ thổ sinh vào đầu mùa hạ, trong cục Ấn tinh nắm lệnh, hỏa vượng thổ tiêu, lại có thể đốt mộc, đến năm Canh Tý kỳ thi mùa xuân chiến thắng, thủy mang kim đủ để chế hỏa mãnh liệt, nhuận táo thổ vậy. Kỳ không thể hiển đạt, đường quan lận đận, là do trong cục không có thủy vậy.
Quân dựa Thần sinh lý rất tinh,
Lộ thiên cơ Nhi có cứu Mẫu,
Mẫu từ diệt Tử vì cửa khác,
Nam khỏe vì sao lại sợ thê.
Nguyên chú: Mộc là Quân, thổ là Thần vậy. Thủy phiếm mộc phù, thổ ngăn thủy thì sinh mộc, mộc vượng hỏa sí, kim phạt mộc thì sinh hỏa, hỏa vượng thổ tiêu, thủy khắc hỏa lthì sinh thổ; thổ trọng kim mai, mộc khắc thổ thì sinh kim, kim vượng thì thủy trọc, hỏa khắc kim thì sinh thủy, đều là Quân dựa vào Thần sinh vậy, lý này là rất huyền diệu.
Nhâm thị viết : Quân dựa vào Thần sinh, ý nói Ấn thụ quá vượng vậy. Chỗ này nhắm nhật chủ mà luận, như nhật chủ thuộc mộc là Quân, thổ trong cục là Thần, tứ trụ gặp nhiều Nhâm Quý Hợi Tý, thế thủy tràn lan, khí mộc lại hư, chẳng những không thể sinh mộc, ức chế mà mộc cũng không thể nạp được thủy, mộc tất trôi nổi vậy; tất cần dụng thổ ngăn thủy, thì nhờ căn ở trong mộc, thủy mới có thể sinh mộc mà cũng nhận được thủy vậy. Phá Ấn mà tựu Tài, là ý phạm thượng, cho nên gọi là Phản cục vậy. Tuy nhắm vào nhật chủ mà luận, tứ trụ cũng luận giống như thế. Như thủy là Quan tinh, mộc là Ấn thụ, thế thủy quá vượng, cũng làm cho mộc trôi nổi, mộc cần thấy thổ mà có thể nhận thủy, để thành diệu dụng phản sinh. Cho nên lý này rất thâm thúy vậy. Hỏa thổ kim thủy, đều luận giống như vậy.
Nhâm Thìn - Nhâm Tý - Giáp Dần - Mậu Thìn
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, tuy nhật chủ tọa lộc, không đến nỗi phù phiếm, còn thế thủy thái vượng; Thìn thổ tuy có thể tích thủy, hỉ Mậu thổ thấu lộ, Thìn là mộc dư khí. Đủ để ngăn thủy gửi căn, gọi là Quân dựa vào Thần sinh vậy. Cho nên sớm đăng khoa Giáp, danh cao Hàn uyển; càng đẹp là vận một mạch nam phương hỏa thổ, lộc vị là không thể giới hạn vậy.
Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Giáp Tý - Mậu Thìn
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, tạo trước tọa Dần mà thực, tạo này thì tọa Tý mà hư, cho nên chi năm mang hỏa Tuất thổ, so với Thìn thổ lực lượng quá lớn vậy. Bởi do căn Mậu thổ kiên cố, đủ để bổ hư cho nhật chủ, hành vận cũng vậy, công danh cũng vậy, làm quan đến chức Thượng Thư.
Kỷ Tị - Mậu Thìn - Tân Dậu - Kỷ Hợi
Đinh Mão/ Bính Dần /Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất
Tạo Trần Đề đốc, Tân sinh tháng Thìn, thổ tuy trùng điệp, xuân thổ cuối cùng thuộc khí loại bỏ mà buông; mộc có dư khí, trong Hợi có Giáp mộc phùng sinh, Thìn Dậu gián tiếp tương sinh, lại trợ căn nguyên cho mộc, xung xa Tị hỏa, khiến cho không sinh thổ Mậu Kỷ, cũng là Quân dựa vào Thần sinh vậy. Thi Hương không thành, là do nguyên thần mộc không thấu vậy, nhưng hỉ sinh hóa không nghịch, vận đến đông bắc đất thủy mộc, cho nên là vũ chức siêu quần.
Mậu Ngọ - Đinh Tị - Kỷ Mão - Canh Ngọ
Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi
Kỷ thổ sinh vào đầu mùa hạ, trong cục Ấn tinh nắm lệnh, hỏa vượng thổ tiêu, lại có thể đốt mộc, đến năm Canh Tý kỳ thi mùa xuân chiến thắng, thủy mang kim đủ để chế hỏa mãnh liệt, nhuận táo thổ vậy. Kỳ không thể hiển đạt, đường quan lận đận, là do trong cục không có thủy vậy.