Chương 4. Tri Mệnh
Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội
(Muốn cùng nhân gian loại trừ bệnh điếc, nên để ý tới sự thuận nghịch.)
- lung hội: điếc từ khi mới sinh, ý nói là sự u mê-
Nguyên chú: Không biết mệnh như người điếc, nếu có thể để ý tri mệnh ở cơ cấu thuận nghịch, thì có thể khai nhĩ cho thiên hạ.
Nhâm thị viết: Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy Thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, Đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, Kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi Quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho Ấn Thực là phúc, Kiêu Kiếp là tai ương, mà không biết rằng Tài Quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn Tài có thể dưỡng mệnh, Quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!
Ví như nguồn Tài có thể dưỡng mệnh mà Tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có mà bần tiện đó sao, Quan có thể vinh thân mà thân suy Quan vượng chỉ là quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỷ kỵ, ấy thế mà lĩnh hội được. Đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. Thư viết: “dụng thần Tài tinh không nên gặp Kiếp tài, dụng thần Quan tinh không nên gặp Thương quan, dụng thần Ấn tinh không nên gặp Tài, dụng thần Thương thực không nên gặp Kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chữ “Dụng”. Người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy Tài Quan làm trọng, mà không biết rằng: “chẳng dụng Tài tinh có thể dụng Kiếp, chẳng dụng Quan tinh có thể dụng Thương quan, chẳng dụng Ấn tinh có thể dụng Tài, chẳng dụng Thương thực có thể dụng Kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mông muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!
Càn tạo: Tân Mão / Đinh Dậu / Canh Ngọ / Bính Tý
Đại vận: Bính thân / ất mùi / quý tị / nhâm thìn / canh dần / kỷ sửu / mậu tý / đinh hợi
Thiên can Canh Tân Bính Đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi Tý Ngọ Mão Dậu, cư ở bốn cung Khảm Ly Chấn Đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. Rất cần Tý Ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho Ngọ hỏa chẳng khắc phá Dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại Mão Dậu gặp xung, kim khắc mộc, tất Mão mộc không thể sinh trợ Ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão Dậu tức Chấn Đoài chủ nhân nghĩa hơn người; Tý Ngọ tức Khảm Ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại Khảm Ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, Thủy Hỏa Ký Tế. Cho nên tám phương quy phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy.
(Thanh Cao tông - Càn Long. Trích trong Ái tân giác la mệnh phổ).
Đổng trung đường tạo mệnh: Canh Thân / Canh Thìn / Mậu Thìn / Mậu Ngọ
Đại vận: Tân tị / mậu ngọ / quý mùi / giáp thân / ất dậu / bính tuất / đinh hợi / mậu tý
Nhật can Mậu thổ, sinh vào tiết quý xuân vào giờ Ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi Thìn thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưỡng Canh, chi hội Thân Thìn, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là Đinh hỏa tàng trong chi Ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ Ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung hạ. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái bình sự nghiệp, mãi đến vận Mậu Tý hội Thân Thìn thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.
Càn tạo: Tân Dậu / Tân Sửu / Kỷ Dậu / Bính Dần
Đại vận: Nhâm dần / quý mão / giáp thìn / ất tị / bính ngọ / đinh mùi / mậu thân / kỷ dậu
Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại thì cũng như thế. Nhật can Kỷ thổ, tuy sinh vào tháng Sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh Sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai Tân, chi bán hội Sửu Dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn Bính hỏa. Rất may thời trụ Dần mộc, hàn cực sinh dương, Bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận Nhâm Quý thủy thi hương trắc trở, sang vận Tị Ngọ Mùi hỏa địa, tiền trình tốt đẹp không thể nói hết (Tân Tăng).
Càn tạo: Nhâm Thìn / Nhâm Dần / Giáp Dần / Canh Ngọ
Đại vận: Quý mão / giáp thần / ất tị / bính ngọ / đinh tị / mậu thân / kỷ dậu / canh tuất
Họ vương tạo mệnh, luận theo lẽ thường cho rằng thân cường Sát thiển, lấy Canh kim Thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đống, cố gắng độc thư tất sau nên danh; mãi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng Dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai Nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm Thìn thổ là thủy khố, chứa thủy dưỡng mộc, không thể sinh kim, một Canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị Ngọ hỏa chế khắc, Nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà cản trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy Ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển quý, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận Bính Ngọ, khắc mất Canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên Canh kim là khắc thần vậy.
Càn tạo: Quý Dậu / Giáp Tý / Quý Hợi / Tân Dậu
Đại vận: Quý hợi / nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn
Một người ở Phúc Kiến không tính danh, mùa đông năm Canh Ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳng nên lấy hỏa thổ làm dụng. Người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ gì lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gì chăng? Sách xưa thường viết: “vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc, thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận Quý Hợi, Quý thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận Nhâm Tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị hình phạt hao tán; Tân Dậu Canh Thân, Đinh Tài lưỡng vượng; Kỷ Mùi Mậu Ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo dòng nước chảy, hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi dòng, không nên nghịch dòng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.
Càn tạo: Quý Dậu / Quý Hợi / Quý Hợi / Tân Dậu
Đại vận: Nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn / ất mão
Theo “Trích thiên tủy” chép cách tạo mệnh trên như quý dậu / giáp tý / quý hợi / tân dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày Giáp Tý mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày Quý Hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ Nhâm Thiết Tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẽ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy được, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lý, đại khái bát tự thuộc loại hình dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ý tứ sâu xa vượt thời đại, chẳng kiềm hãm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngả lòng người vậy.
Lời người dịch:
Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” vậy.
29.5.12, người dịch: vnn1269
Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội
(Muốn cùng nhân gian loại trừ bệnh điếc, nên để ý tới sự thuận nghịch.)
- lung hội: điếc từ khi mới sinh, ý nói là sự u mê-
Nguyên chú: Không biết mệnh như người điếc, nếu có thể để ý tri mệnh ở cơ cấu thuận nghịch, thì có thể khai nhĩ cho thiên hạ.
Nhâm thị viết: Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy Thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, Đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, Kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi Quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho Ấn Thực là phúc, Kiêu Kiếp là tai ương, mà không biết rằng Tài Quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn Tài có thể dưỡng mệnh, Quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!
Ví như nguồn Tài có thể dưỡng mệnh mà Tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có mà bần tiện đó sao, Quan có thể vinh thân mà thân suy Quan vượng chỉ là quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỷ kỵ, ấy thế mà lĩnh hội được. Đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. Thư viết: “dụng thần Tài tinh không nên gặp Kiếp tài, dụng thần Quan tinh không nên gặp Thương quan, dụng thần Ấn tinh không nên gặp Tài, dụng thần Thương thực không nên gặp Kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chữ “Dụng”. Người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy Tài Quan làm trọng, mà không biết rằng: “chẳng dụng Tài tinh có thể dụng Kiếp, chẳng dụng Quan tinh có thể dụng Thương quan, chẳng dụng Ấn tinh có thể dụng Tài, chẳng dụng Thương thực có thể dụng Kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mông muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!
Càn tạo: Tân Mão / Đinh Dậu / Canh Ngọ / Bính Tý
Đại vận: Bính thân / ất mùi / quý tị / nhâm thìn / canh dần / kỷ sửu / mậu tý / đinh hợi
Thiên can Canh Tân Bính Đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi Tý Ngọ Mão Dậu, cư ở bốn cung Khảm Ly Chấn Đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. Rất cần Tý Ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho Ngọ hỏa chẳng khắc phá Dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại Mão Dậu gặp xung, kim khắc mộc, tất Mão mộc không thể sinh trợ Ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão Dậu tức Chấn Đoài chủ nhân nghĩa hơn người; Tý Ngọ tức Khảm Ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại Khảm Ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, Thủy Hỏa Ký Tế. Cho nên tám phương quy phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy.
(Thanh Cao tông - Càn Long. Trích trong Ái tân giác la mệnh phổ).
Đổng trung đường tạo mệnh: Canh Thân / Canh Thìn / Mậu Thìn / Mậu Ngọ
Đại vận: Tân tị / mậu ngọ / quý mùi / giáp thân / ất dậu / bính tuất / đinh hợi / mậu tý
Nhật can Mậu thổ, sinh vào tiết quý xuân vào giờ Ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi Thìn thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưỡng Canh, chi hội Thân Thìn, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là Đinh hỏa tàng trong chi Ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ Ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung hạ. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái bình sự nghiệp, mãi đến vận Mậu Tý hội Thân Thìn thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.
Càn tạo: Tân Dậu / Tân Sửu / Kỷ Dậu / Bính Dần
Đại vận: Nhâm dần / quý mão / giáp thìn / ất tị / bính ngọ / đinh mùi / mậu thân / kỷ dậu
Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại thì cũng như thế. Nhật can Kỷ thổ, tuy sinh vào tháng Sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh Sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai Tân, chi bán hội Sửu Dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn Bính hỏa. Rất may thời trụ Dần mộc, hàn cực sinh dương, Bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận Nhâm Quý thủy thi hương trắc trở, sang vận Tị Ngọ Mùi hỏa địa, tiền trình tốt đẹp không thể nói hết (Tân Tăng).
Càn tạo: Nhâm Thìn / Nhâm Dần / Giáp Dần / Canh Ngọ
Đại vận: Quý mão / giáp thần / ất tị / bính ngọ / đinh tị / mậu thân / kỷ dậu / canh tuất
Họ vương tạo mệnh, luận theo lẽ thường cho rằng thân cường Sát thiển, lấy Canh kim Thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đống, cố gắng độc thư tất sau nên danh; mãi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng Dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai Nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm Thìn thổ là thủy khố, chứa thủy dưỡng mộc, không thể sinh kim, một Canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị Ngọ hỏa chế khắc, Nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà cản trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy Ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển quý, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận Bính Ngọ, khắc mất Canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên Canh kim là khắc thần vậy.
Càn tạo: Quý Dậu / Giáp Tý / Quý Hợi / Tân Dậu
Đại vận: Quý hợi / nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn
Một người ở Phúc Kiến không tính danh, mùa đông năm Canh Ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳng nên lấy hỏa thổ làm dụng. Người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ gì lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gì chăng? Sách xưa thường viết: “vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc, thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận Quý Hợi, Quý thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận Nhâm Tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị hình phạt hao tán; Tân Dậu Canh Thân, Đinh Tài lưỡng vượng; Kỷ Mùi Mậu Ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo dòng nước chảy, hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi dòng, không nên nghịch dòng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.
Càn tạo: Quý Dậu / Quý Hợi / Quý Hợi / Tân Dậu
Đại vận: Nhâm tuất / tân dậu / canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn / ất mão
Theo “Trích thiên tủy” chép cách tạo mệnh trên như quý dậu / giáp tý / quý hợi / tân dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày Giáp Tý mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày Quý Hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ Nhâm Thiết Tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẽ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy được, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lý, đại khái bát tự thuộc loại hình dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ý tứ sâu xa vượt thời đại, chẳng kiềm hãm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngả lòng người vậy.
Lời người dịch:
Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” vậy.
29.5.12, người dịch: vnn1269