Chương 9. Can Chi Tổng luận
Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “Lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất
Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “Lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như Giáp mộc Tử ở chi Ngọ, Ngọ hỏa tiết khí Giáp mộc, lý lẽ tất nhiên là như thế, nhưng Ất mộc Tử ở chi Hợi, Hợi tàng Nhâm thủy sinh Ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại Tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẽ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.
Nhâm thị viết: Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “Lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thoái, âm khí tính hay tán, nên lấy thoái làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như Trường sinh Mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh, suy, hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đầu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là Mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là Quan đới, Lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, Đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tất suy cho nên thời kỳ này gọi là Suy, Suy lâu thời tất Bệnh, Bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là Bệnh Tử, tạo hóa ra muôn loài cũng từ đất và cũng là nơi Mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là Mộ Tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi Thai Dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.
Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc Trường sinh Lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có Khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ Trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng Tý, Ngọ, Mão, Dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, Thân là cung vị Thiên quan, Hợi là Thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại Hợi là thế. Cung vị Ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.
Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “đất Tý Ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; đất Hợi Dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, Đinh gặp Dậu lấy Tài luận, Ất gặp Ngọ, Kỷ gặp Dậu, Tân gặp Tý, Quý gặp Mão lấy Thực thần tiết khí luận, toàn không lấy Trường sinh luận. Ất gặp Hợi, Quý gặp Thân lấy Ấn luận, không nên luận Tử. Lại như Kỷ gặp Dần tàng can Bính hỏa, Tân gặp Tỵ tàng can Mậu thổ, cũng đồng Ấn luận, không nên luận Tử. Từ đó cho thấy, âm dương đồng sinh đồng tử là điều dễ hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “Thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.
Bính Tý / Kỷ Hợi / Ất Hợi / Bính Tý
Đại vận: Canh tý / tân sửu / nhâm dần / quý mão / giáp thìn / ất tỵ.
Nhật nguyên Ất Hợi sinh vào tháng Hợi, rất mừng lưỡng Bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng Bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thổ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng Ất mộc Bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, Tử ở trụ tháng Hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy Hợi Tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.
Mậu Ngọ / Ất Mão / Quý Mão / Quý Hợi
Đại vận: Bính thìn / đinh tị / mậu ngọ / kỷ mùi / canh thân / tân dậu.
Tứ trụ Quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ Ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào Quý Hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì Hợi Mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện Mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận Mậu Ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết Quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng Quý thủy Trường sinh ở trụ tháng và trụ ngày, trụ giờ cư Kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “Thực thần hữu thọ đa thê tử, Thực thần sinh vượng thắng Tài Quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.
Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “Lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất
Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “Lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như Giáp mộc Tử ở chi Ngọ, Ngọ hỏa tiết khí Giáp mộc, lý lẽ tất nhiên là như thế, nhưng Ất mộc Tử ở chi Hợi, Hợi tàng Nhâm thủy sinh Ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại Tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẽ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.
Nhâm thị viết: Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “Lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thoái, âm khí tính hay tán, nên lấy thoái làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như Trường sinh Mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh, suy, hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đầu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là Mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là Quan đới, Lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, Đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tất suy cho nên thời kỳ này gọi là Suy, Suy lâu thời tất Bệnh, Bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là Bệnh Tử, tạo hóa ra muôn loài cũng từ đất và cũng là nơi Mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là Mộ Tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi Thai Dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.
Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc Trường sinh Lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có Khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ Trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng Tý, Ngọ, Mão, Dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, Thân là cung vị Thiên quan, Hợi là Thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại Hợi là thế. Cung vị Ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.
Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “đất Tý Ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; đất Hợi Dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, Đinh gặp Dậu lấy Tài luận, Ất gặp Ngọ, Kỷ gặp Dậu, Tân gặp Tý, Quý gặp Mão lấy Thực thần tiết khí luận, toàn không lấy Trường sinh luận. Ất gặp Hợi, Quý gặp Thân lấy Ấn luận, không nên luận Tử. Lại như Kỷ gặp Dần tàng can Bính hỏa, Tân gặp Tỵ tàng can Mậu thổ, cũng đồng Ấn luận, không nên luận Tử. Từ đó cho thấy, âm dương đồng sinh đồng tử là điều dễ hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “Thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.
Bính Tý / Kỷ Hợi / Ất Hợi / Bính Tý
Đại vận: Canh tý / tân sửu / nhâm dần / quý mão / giáp thìn / ất tỵ.
Nhật nguyên Ất Hợi sinh vào tháng Hợi, rất mừng lưỡng Bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng Bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thổ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng Ất mộc Bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, Tử ở trụ tháng Hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy Hợi Tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.
Mậu Ngọ / Ất Mão / Quý Mão / Quý Hợi
Đại vận: Bính thìn / đinh tị / mậu ngọ / kỷ mùi / canh thân / tân dậu.
Tứ trụ Quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ Ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào Quý Hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì Hợi Mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện Mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận Mậu Ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết Quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng Quý thủy Trường sinh ở trụ tháng và trụ ngày, trụ giờ cư Kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “Thực thần hữu thọ đa thê tử, Thực thần sinh vượng thắng Tài Quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.