KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionChương 9. Can Chi Tổng luận EmptyChương 9. Can Chi Tổng luận

more_horiz
Chương 9. Can Chi Tổng luận

Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “Lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất


Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “Lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như Giáp mộc Tử ở chi Ngọ, Ngọ hỏa tiết khí Giáp mộc, lý lẽ tất nhiên là như thế, nhưng Ất mộc Tử ở chi Hợi, Hợi tàng Nhâm thủy sinh Ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại Tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẽ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.

Nhâm thị viết:
Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “Lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thoái, âm khí tính hay tán, nên lấy thoái làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như Trường sinh Mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh, suy, hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đầu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là Mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là Quan đới, Lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, Đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tất suy cho nên thời kỳ này gọi là Suy, Suy lâu thời tất Bệnh, Bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là Bệnh Tử, tạo hóa ra muôn loài cũng từ đất và cũng là nơi Mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là Mộ Tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi Thai Dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.
Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc Trường sinh Lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có Khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ Trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng Tý, Ngọ, Mão, Dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, Thân là cung vị Thiên quan, Hợi là Thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại Hợi là thế. Cung vị Ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.

Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “đất Tý Ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; đất Hợi Dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, Đinh gặp Dậu lấy Tài luận, Ất gặp Ngọ, Kỷ gặp Dậu, Tân gặp Tý, Quý gặp Mão lấy Thực thần tiết khí luận, toàn không lấy Trường sinh luận. Ất gặp Hợi, Quý gặp Thân lấy Ấn luận, không nên luận Tử. Lại như Kỷ gặp Dần tàng can Bính hỏa, Tân gặp Tỵ tàng can Mậu thổ, cũng đồng Ấn luận, không nên luận Tử. Từ đó cho thấy, âm dương đồng sinh đồng tử là điều dễ hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “Thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.

Bính Tý / Kỷ Hợi / Ất Hợi / Bính Tý
Đại vận: Canh tý / tân sửu / nhâm dần / quý mão / giáp thìn / ất tỵ.

Nhật nguyên Ất Hợi sinh vào tháng Hợi, rất mừng lưỡng Bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng Bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thổ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng Ất mộc Bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, Tử ở trụ tháng Hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy Hợi Tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.

Mậu Ngọ / Ất Mão / Quý Mão / Quý Hợi
Đại vận: Bính thìn / đinh tị / mậu ngọ / kỷ mùi / canh thân / tân dậu.

Tứ trụ Quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ Ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào Quý Hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì Hợi Mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện Mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận Mậu Ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết Quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng Quý thủy Trường sinh ở trụ tháng và trụ ngày, trụ giờ cư Kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “Thực thần hữu thọ đa thê tử, Thực thần sinh vượng thắng Tài Quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.

descriptionChương 9. Can Chi Tổng luận EmptyRe: Chương 9. Can Chi Tổng luận

more_horiz
Bất luận hữu căn vô căn, đều cần thiên phúc địa tái

Nhâm thị viết: Phương pháp dụng can chi, thiên can vượng suy do địa chi sinh phù hay khắc hại, địa chi vượng suy cũng do thiên can sinh phù, khắc hại vậy. Như can Giáp Ất gặp Dần, Mão, Hợi, Tý tức được sinh trợ; gặp Thân Dậu tức bị khắc hại. Can Bính, Đinh gặp Hợi, Tý bị chế, gặp Tị Ngọ Dần Mão tất được sinh. Như địa chi Dần, Mão mà gặp can Giáp, Ất, Nhâm, Quý tức được sinh trợ; gặp Canh, Tân tức bị khắc bại; địa chi Tị, Ngọ không nên gặp Nhâm, Quý tức bị chế phục; mừng gặp Giáp, Ất, Bính, Đinh. Can chi tương thông, can được chi sinh tức can vượng, can bị chi khắc tức can suy. Chi được can sinh, tức chi mạnh lên, chi bị can khắc tức chi suy vậy. Phàm mệnh tứ trụ có cát thần mà không xem là cát, có hung thần mà không xem là hung đều do nguyên nhân này.

Kỷ Hợi / Đinh Mão / Canh Thân / Canh Thìn
Đại vận: Bính dần / ất sửu / giáp tý / quý hợi / nhâm tuất / tân dậu.

Canh kim tuy sanh trọng xuân, nhờ chi Thân mà Lộc vượng, trên can thấu Kỷ tức Ấn thụ, có thể dụng Đinh làm dụng thần. Địa chi Mão mộc Tài tinh, thêm được Hợi thủy sinh trợ hữu tình, Đinh hỏa có gốc vững mạnh ở chi. Vận trình Nhâm Quý Hợi Tý, can thấu Kỷ bảo vệ Đinh hỏa, chi vận Hợi Tý sinh trợ Mão mộc mà không khắc Đinh hỏa Quan tinh, địa chi đắc Tài cục hóa Thương quan, cuộc đời thật hanh thông, không có bất trắc nào đáng ngại, thiếu niên khoa giáp, làm quan đến tướng soái. Kinh viết “Nhật chủ nên vượng, dụng thần không nên bị khắc hại” lời đáng xem trọng vậy.

Kỷ Dậu / Đinh Mão / Canh Thìn / Giáp Thân
Đại vận: Bính dần / ất sửu / giáp tý / quý hợi / nhâm tuất / tân dậu.

Trụ này có thể dụng Quan tinh Đinh hỏa, địa chi Mão mộc Tài tinh. So với mệnh ở trên tuy đại đồng mà tiểu dị. Do Mão Dậu xung nhau, khắc phá Mão mộc khiến cho Đinh hỏa vô căn, tứ trụ thiếu thủy nên Tài tinh bị khắc mạnh, mà không được sinh phù. Trên can tuy thấu Giáp mộc nhưng Giáp tọa Thân kim, bị khắc vô sinh nên Giáp mộc không thể sanh trợ cho Đinh hỏa. Xuất thân thế gia, học hành thi cử kém cỏi, hình thương hao tán, giao vận Nhâm Tuất, địa chi vượng kim, nghèo khổ không kể xiết.

Canh Thân / Nhâm Ngọ / Tân Dậu / Quý Tị
Đại vận: Quý mùi / giáp thân / ất dậu / bính tuất / đinh hợi / mậu tý.

Mệnh này Canh Tân Nhâm Quý, kim thủy tương sinh, địa chi Thân Dậu Tị Ngọ, Ngọ hỏa làm dụng đắc thế, cầu được danh lợi (hỏa khí luyện kim). Tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh nhưng không có trợ. Canh Tân sinh trợ Nhâm Quý, Canh Tân lâm Trường sinh hữu lực nên sinh Nhâm thủy cuồn cuộn. Tuy có Tị hỏa trợ Ngọ, nhưng Tị Dậu bán hợp kim cục thành Ngọ hỏa thế cô. Hai vận Giáp Thân, Ất Dậu, hao tán cùng cực. Đến vận Bính Tuất, phò trợ dụng thần Ngọ hỏa, đại thành đắc thế. Giao Hợi vận, Nhâm thủy đắc Lộc, Quý thủy lâm vượng, hỏa khí bị khắc tuyệt, vong mạng.

Canh Thân / Nhâm Ngọ / Tân Dậu / Giáp Ngọ
Đại vận: Quý mùi / giáp thân / ất dậu / bính tuất / đinh hợi / mậu tý.

Mệnh này chọn Sát Đinh hỏa trong Ngọ làm dụng thần, Nhâm thủy trên can được Canh kim sinh trợ. Mừng được Ngọ hỏa trụ giờ tương trợ, thật đẹp khi trên can thấu Giáp mộc, tất Ngọ hỏa hữu lực có thừa. Nhâm thủy sinh Giáp mộc mà không khắc Đinh hỏa, tứ trụ hữu tình tương sinh vô khắc, đăng khoa hương bảng, công thành danh toại.

Tứ Giáp tứ Ất, nhi ngộ Dần Thân Mão Dậu, vi địa bất tái.
4 Giáp 4 Ất mà ngộ Dần Thân Mão Dậu là địa chi không trợ thiên can

Nhâm thị viết: Thiên can nhất khí, như 4 Giáp, 4 Ất, 4 Bính, 4 Đinh, 4 Mậu, 4 Kỷ, 4 Canh, 4 Tân, 4 Nhâm, 4 Quý; Địa chi không trợ, địa chi và thiên can không sanh hóa. Đặc biệt 4 Giáp, 4 Ất mà ngộ Thân Dậu thì không được trợ, tức toàn bị địa chi khắc. Hoặc phản khắc địa chi, hoặc không tương thông địa chi, hoặc địa chi không tương thông thiên can đều là không tương trợ. Như 4 trụ đều là Ất Dậu, tức chi khắc can, như 4 trụ Tân Mão phản lại can khắc chi; chi sanh can, can sinh chi tất lưu thông sinh hóa hữu tình, không bị thiên khô, với lại đắc tuế vận sẽ được phú quý vậy. Bằng như không tương sinh mà lại xung khắc, ngũ hành thiên khô mà bần tiện vậy. Nên nghiên cứu kỹ càng.

Giáp Thân / Giáp Tuất / Giáp Dần / Giáp Tuất
Đại vận: Ất hợi / bính tý / đinh sửu / mậu dần / kỷ mão / canh thìn

Chi năm Thân kim, xung Dần mộc nhật chủ, Tuất thổ đương quyền sinh kim trợ Sát, địa chi không khắc chế nhật chủ do thiếu dẫn xuất trên can. Trụ có 4 Giáp, một Dần tựa hồ cường vượng, nhưng mộc mùa thu hưu tù, xung Dần vô lộc, không luận vượng được. Đại vận Dần Mão Hợi Tý, cơm no áo ấm sung túc có thừa; vận Canh Thìn, Canh kim thấu xuất, tứ Giáp thụ thương khắc, tán gia bại sản. Trụ nhiều thiên can, không bằng được địa chi có gốc sinh phò, lý đó thật đúng vậy.

Mậu Tý / Mậu Ngọ / Mậu Tuất / Mậu Ngọ
Đại vận: Kỷ mùi / canh thân / tân dậu / nhâm tuất / quý hợi / giáp tý.

Trụ này toàn cục hỏa thổ, Tý suy Ngọ vượng, xung ắt Ngọ phát mãnh liệt, thủy càng suy nhược, nhật chủ cực vượng. Sơ vận, cơ khổ cùng cực, đến vận Canh Thân Tân Dậu, tiết khí mậu thổ, đại thành, thành gia lập nghiệp. Giao vận Nhâm Tuất, thủy bất thông căn, ám hội hỏa cục, gặp đại biến, một nhà năm mạng đều mất. Nếu như thiên can thấu một Canh Tân, hoặc địa chi tàng một Thân Dậu, kết cục đâu đến nỗi.

Mậu Thân / Mậu Ngọ / Mậu Tuất / Mậu Ngọ
Đại vận: Kỷ mùi / canh thân / tân dậu / nhâm tuất / quý hợi / giáp tý.

Mệnh này khác mệnh trên nhờ chi Thân ở năm, mà thiên can được tiết khí, địa chi tàng thủy có gốc, Ngọ hỏa tuy mãnh liệt nhưng không khắc hại Thân kim, dụng thần là kim vậy. Giao vận Canh Thân, năm Mậu Thìn, tháng tư nhập học, tháng chín đăng khoa, do đắc thái tuế chi Thìn, ám hội thủy cục mà diệu dụng. Đến vận Nhâm Tuất, thiên can Tỷ kiếp đoạt Tài, địa chi ám hội hỏa cục, không thấy cát lợi hĩ.

Tân Mão / Tân Mão / Tân Mão / Tân Mão
Đại vận: Canh dần / kỷ sửu / mậu tý / đinh hợi / bính tuất / kỷ dậu.

Mệnh này tứ Mão mộc nắm lệnh đương quyền, 4 can Tân lâm tuyệt địa, tuy khắc địa chi nhưng vô lực. Nếu thiên can Tân kim vượng khắc Mão mộc có thể dụng Tài, tất sẽ phát phú. Sống với cha mẹ được mấy năm thì cha mẹ đều mất, theo đạo sĩ làm đồ đệ. Vận Kỷ Sửu, Mậu Tý Ấn thụ sinh phù, Tân kim vượng, áo cơm đầy đủ, giao vận đinh hợi, chi hợi sinh mão, mão mộc sinh trợ đinh hỏa khắc kim, tán gia bại sản mà chết.

Tóm lại: Trụ có 4 can đồng một khí, nếu can vượng cần nên gặp vận tiết khí thiên can, nếu thiên can suy nhược mừng gặp vận trình sinh phò, tất là đại phúc.

descriptionChương 9. Can Chi Tổng luận EmptyRe: Chương 9. Can Chi Tổng luận

more_horiz
Dần Mão Thìn, Hợi Mão Mùi mà ngộ Giáp Canh Ất Tân, ắt thiên can không dụng được. Nhưng mà không chỉ toàn nhất khí cùng tam hội cục, bất luận hữu căn vô căn, đều cần thuận theo khí thế, can chi không bội phản là tuyệt diệu.

   Nhâm thị viết: Điạ chi tam hội cục, như Dần Mão Thìn, Tị Ngọ Mùi, Thân Dậu Tuất, Hợi Tý Sửu. Như Dần Mão Thìn: Nhật chủ thuộc mộc cần phải có thiên can nhiều hỏa, nhật chủ thuộc hỏa cần phải có thiên can kim vượng, nhật chủ thuộc kim cần phải có thiên can thổ vượng. Hầu hết tam hội cục thì khí thế rất vượng. Gặp nhật chủ vượng thần tại đề cương tháng, thiên can phải thuận theo khí thế, nên tiết khí nhật chủ. Nhưng nếu thiên can hữu lực, vượng tại đề cương tháng thì khắc chế nhật chủ vậy, có thể làm dụng thần. Như tam hội mộc cục, đề cương tháng là Dần Mão, nên Canh Tân kim suy tuyệt không thể làm dụng; như đề cương tháng là Thìn, tứ trụ lại có Canh Tân được thìn thổ sinh trợ, có thể làm dụng được vậy. Mộc phương như thế, còn lại mà suy ra.

   Tân Mão / Canh Dần / Giáp Thìn / Bính Dần
   Đại vận: Kỷ sửu / mậu tý / đinh hợi / bính tuất / ất dậu / giáp thân.

   Trụ có Dần Mão Thìn tam hội mộc cục, thêm chi Dần nên mộc cực vượng. Trên can thấu Canh Tân kim lâm tuyệt địa tại lệnh tháng, kim suy không khắc được Giáp mộc. Hơn nữa, can thấu Bính hỏa, nên mộc hỏa tương sinh, Bính hỏa cực vượng khắc hại Canh Tân, lấy Bính hỏa làm dụng thần. Vận trình Kỷ Sửu, Mậu Tý, thổ vận sinh kim, phá tán dị thường; Đinh Hợi vận tiến kinh nhập bộ; đến Bính Tuất vận, lập được đại công, thăng tri huyện. Vận khắc hại Canh Tân là vận cát vậy. Đến vận Ất Dậu, Canh Tân đắc địa, thất lộc.

   Canh Dần / Canh Thìn / Giáp Dần / Đinh Mão
   Đại vận: Tân tị / nhâm ngọ / quý mùi / giáp thân / ất dậu / bính tuất.

   Tam hội mộc cục Dần Mão Thìn. Tuy nhiên đề cương tháng chi Thìn thổ đương quyền, Canh kim được sinh phò đủ sức khắc Mộc, Đinh hỏa tuy thấu, không khắc hại Canh kim, vậy dụng Canh kim, lấy Sát làm dụng thần. Vận Giáp Thân, Canh kim Lộc vượng ám xung Dần mộc, khoa giáp liên đăng, làm đến tri phủ; giao vận Bính Tuất, Bính hỏa khắc chế Canh kim, hàng chức quy điền.

   Dương thừa dương vị dương khí xương, tối yếu hành trình an đốn.
   Trong 6 địa chi dương, chỉ duy nhất Dần Thìn là dương phương, là thuần dương vị. Địa chi dương, nếu như là vượng thần, cần nhất hành vận âm thuận.

   Nhâm thị viết: Trong 6 địa chi dương thì có Dần, Thìn, Ngọ là thuần dương (dương noãn), cần phân biệt dương hàn dương noãn mà luận; còn Mùi, Thân, Tuất, là dương hàn. Phương Tây Bắc là hàn, phương Đông Nam là noãn. Nếu tứ trụ toàn chi dương Tây Bắc: Thân, Tuất, Tý tức dương hàn tối cần gặp hành vận chi âm noãn là Mão, Tị, Mùi (phương Đông Nam); nếu như tứ trụ toàn chi dương Đông Nam là Dần, Thìn, Ngọ tức dương noãn tối cần gặp hành vận chi âm hàn Dậu, Hợi, Sửu. Luận theo đại cục nếu nhật chủ thuộc mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ mà tứ trụ toàn chi dương noãn (phương Đông Nam), nên gặp hành vận Tây Bắc chi âm hàn (âm thủy, âm mộc, âm hỏa) là nơi có thể sinh trợ dụng thần mà đắc dụng. Nếu gặp hành vận Tây Bắc chi dương hàn (dương thủy, dương mộc, dương hỏa) tất là dương cô không sanh, cho dù sanh trợ hỉ thần, cũng vô cùng gian nan. Luận về dương noãn dương hàn: “Dương thịnh cương kiện, có thể phối với âm thịnh nhu thuận chi địa” là vậy. Nếu không nghiên cứu thâm sâu, dụng tinh vi thì sao đắc yếu huyền cơ được?

   Quý Tị / Bính Thìn / Bính Ngọ / Canh Dần
   Đại vận: Ất mão/ giáp dần/ quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi/ canh tuất

   Trụ này địa chi dương lại thuộc phương Đông Nam. Tựa hồ kim thủy vô căn, mừng là chi tháng Thìn thổ, tiết hỏa sinh kim, Canh kim được sinh có lực nên có thể làm dụng thần. Canh kim là nguyên thần của Quý thủy. Sơ vận, Ất Mão Giáp Dần, kim lâm tuyệt địa, hỏa vượng, mà thủy bị tiết chế quá nhiều, cơ khổ cùng cực; giao vận Quý Sửu, kim thuỷ thông căn, thêm Tị Dậu bán hợp kim cục, xuất ngoại buôn bán hanh thông, phát tài thập vạn. Dương noãn gặp hàn khí, tương phối thật đẹp vậy.

   Mậu Dần / Ất Sửu / Bính Dần / Canh Dần
   Đại vận: Bính dần / đinh mão / mậu thìn / kỷ tị / canh ngọ / tân mùi

   Ngày Bính Dần, tuy địa chi có 3 Dần, may mắn là Sửu thổ đương quyền, Tài tinh quy khố. Nếu vận hành Tây Bắc thổ kim, tài nghiệp sẽ tạo lập thành công, chỉ tiếc hành vận Đông Nam mộc hỏa vượng, tổ nghiệp phá tán, bôn ba vất vả, đến Ngọ vận ám hội hỏa cục tỷ kiếp sinh vượng, mà mất mạng. Nhất sự vô thành, chẳng phải do vận đó sao.

29.5.2012, người dịch: vnn1269
(chương này có thêm phần dịch của PhieuDieu - Tuvilyso)

descriptionChương 9. Can Chi Tổng luận EmptyRe: Chương 9. Can Chi Tổng luận

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết