Chương 29: Luận câu nệ vào cách cục
-tuhynhan, 2.7.2012-
Nguyên văn:
Bát tự Dụng thần chuyên dựa vào nguyệt lệnh, nguyệt lệnh không có Dụng thần thì từ từ tìm cách cục. Nguyệt lệnh là gốc, ngoại cách là ngọn. Người nay không phân nặng nhẹ mà câu nệ cách cục, tức bỏ thực tìm hư.
Từ chú thích:
Khi xem mệnh, thường đem tám chữ lần lượt phối hợp can, chi, kết thành một khối để chọn ra đầu mối then chốt trong đó, không thể bỏ qua một chữ nào. Nguyệt lệnh là khí đang vượng, vượng suy tiến thoái cần phải dựa vào đó mà định (xem lại tiết Dụng thần). Tức là nguyệt lệnh không có dụng thần mà chọn ngoại cách, cũng đã có bài viết đã bàn rồi, phải hợp với lẽ ngũ hành mới có thể chọn bằng không chỉ là mảnh ghép lộn xộn, không hoàn toàn tin cậy. Người nay hiểu biết nửa vời, lại không để tâm nghiên cứu, thấy một vài chữ giống nhau liền cho là hợp với cách cục nào đó. Đó không chỉ là sự vô nguyên tắc mà còn rập khuôn cách cục; cũng không phải vì đã từng hiểu rõ đến mức ôm miệng cười khúc khích. Do không hiểu nguyên lý, nên câu nệ chấp nhất mà không biết rằng đang sai lầm.
Nguyên văn:
Cho nên Mậu sinh tháng Giáp Dần, thời thượng Canh Thân, không cho là minh Sát có chế phục, mà tưởng rằng cách chuyên Thực gặp Giáp giảm phúc.
Từ chú thích:
Hỷ kỵ thiên nói rằng: "Canh Thân gặp ngày Mậu gọi là cách Thực thần chuyên vượng, năm tháng phạm Giáp Bính Mão Dần, đây chính là gặp và như không gặp". Thực thần chuyên Lộc trong thời can có nhiều, sao lại phải chọn ngày Mậu giờ Canh Thân để nói? Chính là do Canh Thân ám hợp Ất Mão, cũng là quan tinh của Mậu thổ, ám hợp thủ dụng đáng tin hay không tạm thời để sang một bên chưa bàn. Tam Mệnh Thông Hội nói rõ: "Nguyệt lệnh nếu gặp Tài Quan thì lấy Tài Quan để luận". Tài Quan là Dụng thần tức nguyệt lệnh hữu dụng thì chọn từ nguyệt lệnh. Lại nói rằng: "Mậu Ngọ, Mậu Dần khó áp dụng cách này", có thể thấy được không chỉ có nguyệt lệnh mà tứ trụ cũng cần phù hay ức tức là cách chọn có sự khác biệt.
Nguyên văn:
Bính sinh Tý nguyệt, thời gặp (Quý) Tị là lộc, không cho rằng cách Chính quan, Quy lộc bang thân mà tưởng là Nhật lộc quy thời gặp Quan phá cách.
Từ chú thích:
Hỷ kị thiên nói rằng: "Nhật lộc quy thời một quan tinh, hiệu viết thanh vân đắc lộ". Bàn về cách Nhật lộc bang thân làm dụng, như:
Mệnh của Vương Thụ San, Diêm nghiệp tổng thương (trưởng một phòng hay một cục ngành muối) :
Quý Dậu / Quý Hợi / Mậu Tý / Đinh Tị
Nhâm Tuất -Tân Dậu -Canh Thân -Kỷ Mùi -Mậu Ngọ -Đinh Tị
Mệnh của Hoàng Quang Ích, tổng biên tập tờ Nhật báo nhỏ:
Nhâm Thìn / Nhâm Tý / Bính Thân / Quý Tị
Quý Sửu -Giáp Dần -Ất Mão -Bính Thìn -Đinh Tị -Mậu Ngọ
Hai mệnh trên đều là nhật lộc quy thời, mệnh ông Vương thì nguyệt lệnh Chính Tài quá vượng, vận đến Tỷ kiếp thì giàu có, chính là nói "Tứ trụ không có quan tinh, thanh vân đắc lộ". Tứ trụ ông Hoàng thì Quan Sát quá vượng, nhờ Tị lộc là gốc của nhật nguyên, cần phải thông quan dụng Ấn, vận đến đất Ấn là tối mỹ. Tỉ Kiếp bang thân giúp địch Sát tuy là vận đẹp, tị thuộc về hai cỗ xe tứ mã quy lộc (ý nói tị bị nhật chủ Bính cưỡi và bị Bính ở vận cưỡi nữa) kiến Quan thành phá cách, chủ yếu là do thân sát đánh nhau, không nên gặp mới đẹp.
Như:
Kỷ Tị / Bính Dần / Ất Mùi / Kỷ Mão
Ất Sửu -Giáp Tý -Quý Hợi -Nhâm Tuất -Tân Dậu -Canh Thân
Đây là mệnh của một ông chú ruột của tôi, Thương quan sinh Tài làm dụng, tuy hưởng phúc từ tổ tiên để lại nhưng không con.
Như:
Nhâm Thìn / Nhâm Tý / Bính Thân / Quý Tị
Quý Sửu -Giáp Dần- Ất Mão- Bính Thìn -Đinh Tị- Mậu Ngọ
Đây là mệnh em họ tôi, nguyệt lệnh quan tinh bị thương, tý sửu hợp chặt trụ quan tinh. [Dịch chú: Trụ này y chang trụ Hoàng Quang Ích, lời đoán thì nói đến chữ Sửu, nhưng tứ trụ không hề có, tra xét nhiều bản cũng thấy y như vậy, có thể thấy là tài liệu công bố sai, tạm thời bỏ qua không bàn đến]
Có thể thấy được Nhật Lộc quy thời, hết mực trợ thân, không thể vì không thấy quan tinh liền luận là quý cách. Nếu nguyệt lệnh quan tinh thanh thuần, thân vượng dụng Tài sinh Quan thì sao không là quý cách được.
Nguyên văn:
Tân nhật thấu Bính, giờ là Mậu Tý, không cho rằng Tân nhật đắc Quan phùng Ấn, mà cho là Triều Dương cách, chỉ vì Bính mà không thành cách.
Từ chú thích:
Hỷ Kị Thiên nói rằng: "Lục Tân nhật thời gặp Mậu Tý, hiềm Ngọ vị vận hỷ Dậu phương", lấy Mậu Bính cùng lộc tại Tị, Mậu là Ấn của Tân, tác động Bính là quan tinh của Tân.
Như:
Mậu Thân /Ất Mão/ Tân Hợi /Mậu Tý
Bính Thìn- Đinh Tị -Mậu Ngọ -Kỷ Mùi -Canh Thân -Tân Dậu
Đây là mệnh của danh nhân Chu Bảo Tam, người đất Hỗ (Thượng Hải), tương truyền thuộc Triều Dương cách. Cách này rắc rối tạm thời chưa bàn, theo Triều Dương cách mà nói thì Tam Mệnh Thông Hội nói rõ sinh tháng Giáp Dần Ất Mão, chỉ lấy Tài để luận, đây cũng chính là lấy Tài làm dụng thần. Lại nói rằng, sinh tháng tứ quý thì dùng Ấn để luận, đó là vẫn dựa theo nguyệt lệnh làm trọng, vẫn dùng tứ trụ phù ức.
Nguyên văn:
Tài gặp giờ Sát, không cho rằng sinh Sát công Thân mà tưởng rằng gặp cách cục Thời thượng Thiên quan.
Từ chú thích:
Tài gặp giờ Sát là nguyệt lệnh Tài mà gặp giờ là Sát, Hỷ Kị Thiên nói rằng: "Nhược nãi thời phùng Thất sát, kiến chi vị tất vi hung, nguyệt chế can cường, kỳ sát phản vi quyền ấn", nghĩa là nếu giờ gặp Thất sát chưa hẳn là hung, nguyệt chế can cường, thì Sát này chuyển thành uy quyền. Nguyên văn rất rõ, can cường nghĩa là thân cường; Thất sát vốn khắc Thân, nhưng nhật nguyên cường thì Thất sát hữu chế, phản thành nắm giữ uy quyền. Không chỉ có ở thời trụ mới vậy mà khi dụng Sát đều như vậy. Nếu lấy Thời thượng Thiên quan, không cần biết nhật nguyên mạnh yếu, không xem xét có chế hóa hay không, liền cho rằng phù hợp quý cách thì sai lầm lớn rồi.
Nguyên văn:
Quý sinh tháng Tị, giờ gặp Giáp Dần không nghĩ rằng ám Quan thụ phá mà cho là hình hợp thành cách.
Từ chú thích:
Hỷ Kị Thiên nói rằng, "Lục Quý nhật thời phùng Dần vị, tuế nguyệt phạ Mậu Kỷ nhị phương ", tức nói về hình hợp cách; ở cách cục thì các cách hình hợp, diêu tị, diêu sửu là các cách rất không đáng tin, so với thuyết ám xung thì càng không có căn cứ; tị gặp thân là hình hợp, tị kiến dần là hình mà không hợp; tóm lại đều không có nguyên lý, tuy sách có biên cách này nhưng không chỉ cách dùng. Ví dụ như thầy thuốc chẩn bệnh không hiểu bệnh lý để hốt thuốc, há bắt đúng bệnh được sao? Tuy trước đây đã biết đến cách này nhưng giờ tạm gác lại thì hơn.
Nguyên văn:
Quý sinh tháng mùa Đông, Dậu nhật Hợi thời, thấu Mậu tọa Tuất, không cho rằng nguyệt Kiếp kiến Lộc, dụng Quan thông căn, mà tưởng rằng cách củng Tuất, do điền thực mà bất lợi. Tân nhật tọa sửu, năm dần, tháng hợi, giờ mão, không dùng Chính tài cách mà dùng điền thực củng quý (nhân).
Từ chú thích:
Nhật trụ củng Lộc hay giáp quý nhân, dù tứ trụ không rõ cách kiến lộc kiến quý, khi địa chi có trật tự thì cũng đủ tăng vượng trợ lực dụng thần. Như mệnh Viên Hạng Thành (Viên Thế Khải), bát tự cơ bản là tốt, hỷ dụng lại thanh thuần, ví như cẩm thượng thiêm hoa, càng tăng cái đẹp, nếu bát tự bình thường, tuy có củng giáp lộc quý thì dùng nó như thế nào? Lộc quý không thể làm dụng, chả lẽ củng giáp chỉ hư vô, bất thực chăng? Điền thực cũng chưa chắc phá cách, như mệnh Viên Hạng Thành, sơ vận Nhâm Thân, không phải điền thực quý nhân ư? Vận Canh Ngọ không điền thực Đinh Lộc? Đủ thấy rằng khi lấy Dụng thần hỷ kị làm chính thì không thể chấp nhất vụn vặt mà bỏ qua căn bản. Về phần giáp Quan củng Khố, rốt cuộc mang ý nghĩa gì thì không thể giải nghĩa được.
Trích lại thiên: Luận tinh thần vô quan cách cục,
Kỷ Mùi / Quý Dậu / Đinh Tị / Đinh Mùi
Đại vận: Nhâm Thân - Tân Mùi - Canh Ngọ - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Đinh Mão
Đây là mệnh của Viên Hạng Thành (tức Viên Thế Khải), xem sơ qua thì thấy Thân cường Thực Thần chế Sát mà thôi, nhưng biện chi tiết thì lấy năm làm chủ, năm là Kỷ Mùi, Mùi Dậu giáp thân là quý; lấy ngày làm chủ thì Đinh quý nhân tại Dậu, lấy Sát làm dụng mà Sát quý tại Tị cho nên thân Sát hỗ hoán đắc quý nhân. Thất sát là thần đối nghịch với ta, quý nhân hỗ hoán ví như được triều đình nhà Thanh biết đến mà trọng dụng, mà cũng là dấu hiệu triều đình bị ta phản phúc. Địa chi Tị Mùi Dậu giáp lộc giáp quý, toàn trụ đầy Lộc và Quý nhân ủng hộ nên ứng với Nguyên thủ quốc gia. Đến vận Mão, Sát đối nghịch lâm Quý nhân đắc thế mà xung với Quý nhân của bản thân nhật chủ, bị cô lập hoàn toàn, hết sức hiển nhiên vậy.
Nguyên văn:
Ất sinh tháng dần, giờ gặp Bính tý, không nghĩ là mộc hỏa thông minh mà cho rằng thành cách Thử quý.
Từ chú thích:
Hỷ Kị Thiên nói rằng, "Âm mộc độc ngộ tý thời, vi lục Ất thử quý chi địa", sinh ngày Ất khởi giờ đầu là Bính tý, lộc của Bính tại tị, tị hợp với thân kim là Quan tinh của Ất mộc; tý lại hợp với thân là tam hợp quý hội (Ất quý nhân tại tý và thân). Thần phong thông khảo ghi rằng: "Tý trung Quý thủy hợp Mậu vi Ất Tài", Mậu lộc tại tị, tị hợp thân, là Quan tinh của Ất, thuyết này càng thiếu căn cứ. Tóm lại, các cách cục này không đáng tin, bỏ qua một bên thì hay hơn. Các lý thuyết sai lầm trên, trăm thứ không đúng một, điều này đều do không hiểu mệnh lý, rồi phân tích bình luận bậy bạ.
-tuhynhan, 2.7.2012-
Nguyên văn:
Bát tự Dụng thần chuyên dựa vào nguyệt lệnh, nguyệt lệnh không có Dụng thần thì từ từ tìm cách cục. Nguyệt lệnh là gốc, ngoại cách là ngọn. Người nay không phân nặng nhẹ mà câu nệ cách cục, tức bỏ thực tìm hư.
Từ chú thích:
Khi xem mệnh, thường đem tám chữ lần lượt phối hợp can, chi, kết thành một khối để chọn ra đầu mối then chốt trong đó, không thể bỏ qua một chữ nào. Nguyệt lệnh là khí đang vượng, vượng suy tiến thoái cần phải dựa vào đó mà định (xem lại tiết Dụng thần). Tức là nguyệt lệnh không có dụng thần mà chọn ngoại cách, cũng đã có bài viết đã bàn rồi, phải hợp với lẽ ngũ hành mới có thể chọn bằng không chỉ là mảnh ghép lộn xộn, không hoàn toàn tin cậy. Người nay hiểu biết nửa vời, lại không để tâm nghiên cứu, thấy một vài chữ giống nhau liền cho là hợp với cách cục nào đó. Đó không chỉ là sự vô nguyên tắc mà còn rập khuôn cách cục; cũng không phải vì đã từng hiểu rõ đến mức ôm miệng cười khúc khích. Do không hiểu nguyên lý, nên câu nệ chấp nhất mà không biết rằng đang sai lầm.
Nguyên văn:
Cho nên Mậu sinh tháng Giáp Dần, thời thượng Canh Thân, không cho là minh Sát có chế phục, mà tưởng rằng cách chuyên Thực gặp Giáp giảm phúc.
Từ chú thích:
Hỷ kỵ thiên nói rằng: "Canh Thân gặp ngày Mậu gọi là cách Thực thần chuyên vượng, năm tháng phạm Giáp Bính Mão Dần, đây chính là gặp và như không gặp". Thực thần chuyên Lộc trong thời can có nhiều, sao lại phải chọn ngày Mậu giờ Canh Thân để nói? Chính là do Canh Thân ám hợp Ất Mão, cũng là quan tinh của Mậu thổ, ám hợp thủ dụng đáng tin hay không tạm thời để sang một bên chưa bàn. Tam Mệnh Thông Hội nói rõ: "Nguyệt lệnh nếu gặp Tài Quan thì lấy Tài Quan để luận". Tài Quan là Dụng thần tức nguyệt lệnh hữu dụng thì chọn từ nguyệt lệnh. Lại nói rằng: "Mậu Ngọ, Mậu Dần khó áp dụng cách này", có thể thấy được không chỉ có nguyệt lệnh mà tứ trụ cũng cần phù hay ức tức là cách chọn có sự khác biệt.
Nguyên văn:
Bính sinh Tý nguyệt, thời gặp (Quý) Tị là lộc, không cho rằng cách Chính quan, Quy lộc bang thân mà tưởng là Nhật lộc quy thời gặp Quan phá cách.
Từ chú thích:
Hỷ kị thiên nói rằng: "Nhật lộc quy thời một quan tinh, hiệu viết thanh vân đắc lộ". Bàn về cách Nhật lộc bang thân làm dụng, như:
Mệnh của Vương Thụ San, Diêm nghiệp tổng thương (trưởng một phòng hay một cục ngành muối) :
Quý Dậu / Quý Hợi / Mậu Tý / Đinh Tị
Nhâm Tuất -Tân Dậu -Canh Thân -Kỷ Mùi -Mậu Ngọ -Đinh Tị
Mệnh của Hoàng Quang Ích, tổng biên tập tờ Nhật báo nhỏ:
Nhâm Thìn / Nhâm Tý / Bính Thân / Quý Tị
Quý Sửu -Giáp Dần -Ất Mão -Bính Thìn -Đinh Tị -Mậu Ngọ
Hai mệnh trên đều là nhật lộc quy thời, mệnh ông Vương thì nguyệt lệnh Chính Tài quá vượng, vận đến Tỷ kiếp thì giàu có, chính là nói "Tứ trụ không có quan tinh, thanh vân đắc lộ". Tứ trụ ông Hoàng thì Quan Sát quá vượng, nhờ Tị lộc là gốc của nhật nguyên, cần phải thông quan dụng Ấn, vận đến đất Ấn là tối mỹ. Tỉ Kiếp bang thân giúp địch Sát tuy là vận đẹp, tị thuộc về hai cỗ xe tứ mã quy lộc (ý nói tị bị nhật chủ Bính cưỡi và bị Bính ở vận cưỡi nữa) kiến Quan thành phá cách, chủ yếu là do thân sát đánh nhau, không nên gặp mới đẹp.
Như:
Kỷ Tị / Bính Dần / Ất Mùi / Kỷ Mão
Ất Sửu -Giáp Tý -Quý Hợi -Nhâm Tuất -Tân Dậu -Canh Thân
Đây là mệnh của một ông chú ruột của tôi, Thương quan sinh Tài làm dụng, tuy hưởng phúc từ tổ tiên để lại nhưng không con.
Như:
Nhâm Thìn / Nhâm Tý / Bính Thân / Quý Tị
Quý Sửu -Giáp Dần- Ất Mão- Bính Thìn -Đinh Tị- Mậu Ngọ
Đây là mệnh em họ tôi, nguyệt lệnh quan tinh bị thương, tý sửu hợp chặt trụ quan tinh. [Dịch chú: Trụ này y chang trụ Hoàng Quang Ích, lời đoán thì nói đến chữ Sửu, nhưng tứ trụ không hề có, tra xét nhiều bản cũng thấy y như vậy, có thể thấy là tài liệu công bố sai, tạm thời bỏ qua không bàn đến]
Có thể thấy được Nhật Lộc quy thời, hết mực trợ thân, không thể vì không thấy quan tinh liền luận là quý cách. Nếu nguyệt lệnh quan tinh thanh thuần, thân vượng dụng Tài sinh Quan thì sao không là quý cách được.
Nguyên văn:
Tân nhật thấu Bính, giờ là Mậu Tý, không cho rằng Tân nhật đắc Quan phùng Ấn, mà cho là Triều Dương cách, chỉ vì Bính mà không thành cách.
Từ chú thích:
Hỷ Kị Thiên nói rằng: "Lục Tân nhật thời gặp Mậu Tý, hiềm Ngọ vị vận hỷ Dậu phương", lấy Mậu Bính cùng lộc tại Tị, Mậu là Ấn của Tân, tác động Bính là quan tinh của Tân.
Như:
Mậu Thân /Ất Mão/ Tân Hợi /Mậu Tý
Bính Thìn- Đinh Tị -Mậu Ngọ -Kỷ Mùi -Canh Thân -Tân Dậu
Đây là mệnh của danh nhân Chu Bảo Tam, người đất Hỗ (Thượng Hải), tương truyền thuộc Triều Dương cách. Cách này rắc rối tạm thời chưa bàn, theo Triều Dương cách mà nói thì Tam Mệnh Thông Hội nói rõ sinh tháng Giáp Dần Ất Mão, chỉ lấy Tài để luận, đây cũng chính là lấy Tài làm dụng thần. Lại nói rằng, sinh tháng tứ quý thì dùng Ấn để luận, đó là vẫn dựa theo nguyệt lệnh làm trọng, vẫn dùng tứ trụ phù ức.
Nguyên văn:
Tài gặp giờ Sát, không cho rằng sinh Sát công Thân mà tưởng rằng gặp cách cục Thời thượng Thiên quan.
Từ chú thích:
Tài gặp giờ Sát là nguyệt lệnh Tài mà gặp giờ là Sát, Hỷ Kị Thiên nói rằng: "Nhược nãi thời phùng Thất sát, kiến chi vị tất vi hung, nguyệt chế can cường, kỳ sát phản vi quyền ấn", nghĩa là nếu giờ gặp Thất sát chưa hẳn là hung, nguyệt chế can cường, thì Sát này chuyển thành uy quyền. Nguyên văn rất rõ, can cường nghĩa là thân cường; Thất sát vốn khắc Thân, nhưng nhật nguyên cường thì Thất sát hữu chế, phản thành nắm giữ uy quyền. Không chỉ có ở thời trụ mới vậy mà khi dụng Sát đều như vậy. Nếu lấy Thời thượng Thiên quan, không cần biết nhật nguyên mạnh yếu, không xem xét có chế hóa hay không, liền cho rằng phù hợp quý cách thì sai lầm lớn rồi.
Nguyên văn:
Quý sinh tháng Tị, giờ gặp Giáp Dần không nghĩ rằng ám Quan thụ phá mà cho là hình hợp thành cách.
Từ chú thích:
Hỷ Kị Thiên nói rằng, "Lục Quý nhật thời phùng Dần vị, tuế nguyệt phạ Mậu Kỷ nhị phương ", tức nói về hình hợp cách; ở cách cục thì các cách hình hợp, diêu tị, diêu sửu là các cách rất không đáng tin, so với thuyết ám xung thì càng không có căn cứ; tị gặp thân là hình hợp, tị kiến dần là hình mà không hợp; tóm lại đều không có nguyên lý, tuy sách có biên cách này nhưng không chỉ cách dùng. Ví dụ như thầy thuốc chẩn bệnh không hiểu bệnh lý để hốt thuốc, há bắt đúng bệnh được sao? Tuy trước đây đã biết đến cách này nhưng giờ tạm gác lại thì hơn.
Nguyên văn:
Quý sinh tháng mùa Đông, Dậu nhật Hợi thời, thấu Mậu tọa Tuất, không cho rằng nguyệt Kiếp kiến Lộc, dụng Quan thông căn, mà tưởng rằng cách củng Tuất, do điền thực mà bất lợi. Tân nhật tọa sửu, năm dần, tháng hợi, giờ mão, không dùng Chính tài cách mà dùng điền thực củng quý (nhân).
Từ chú thích:
Nhật trụ củng Lộc hay giáp quý nhân, dù tứ trụ không rõ cách kiến lộc kiến quý, khi địa chi có trật tự thì cũng đủ tăng vượng trợ lực dụng thần. Như mệnh Viên Hạng Thành (Viên Thế Khải), bát tự cơ bản là tốt, hỷ dụng lại thanh thuần, ví như cẩm thượng thiêm hoa, càng tăng cái đẹp, nếu bát tự bình thường, tuy có củng giáp lộc quý thì dùng nó như thế nào? Lộc quý không thể làm dụng, chả lẽ củng giáp chỉ hư vô, bất thực chăng? Điền thực cũng chưa chắc phá cách, như mệnh Viên Hạng Thành, sơ vận Nhâm Thân, không phải điền thực quý nhân ư? Vận Canh Ngọ không điền thực Đinh Lộc? Đủ thấy rằng khi lấy Dụng thần hỷ kị làm chính thì không thể chấp nhất vụn vặt mà bỏ qua căn bản. Về phần giáp Quan củng Khố, rốt cuộc mang ý nghĩa gì thì không thể giải nghĩa được.
Trích lại thiên: Luận tinh thần vô quan cách cục,
Kỷ Mùi / Quý Dậu / Đinh Tị / Đinh Mùi
Đại vận: Nhâm Thân - Tân Mùi - Canh Ngọ - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Đinh Mão
Đây là mệnh của Viên Hạng Thành (tức Viên Thế Khải), xem sơ qua thì thấy Thân cường Thực Thần chế Sát mà thôi, nhưng biện chi tiết thì lấy năm làm chủ, năm là Kỷ Mùi, Mùi Dậu giáp thân là quý; lấy ngày làm chủ thì Đinh quý nhân tại Dậu, lấy Sát làm dụng mà Sát quý tại Tị cho nên thân Sát hỗ hoán đắc quý nhân. Thất sát là thần đối nghịch với ta, quý nhân hỗ hoán ví như được triều đình nhà Thanh biết đến mà trọng dụng, mà cũng là dấu hiệu triều đình bị ta phản phúc. Địa chi Tị Mùi Dậu giáp lộc giáp quý, toàn trụ đầy Lộc và Quý nhân ủng hộ nên ứng với Nguyên thủ quốc gia. Đến vận Mão, Sát đối nghịch lâm Quý nhân đắc thế mà xung với Quý nhân của bản thân nhật chủ, bị cô lập hoàn toàn, hết sức hiển nhiên vậy.
Nguyên văn:
Ất sinh tháng dần, giờ gặp Bính tý, không nghĩ là mộc hỏa thông minh mà cho rằng thành cách Thử quý.
Từ chú thích:
Hỷ Kị Thiên nói rằng, "Âm mộc độc ngộ tý thời, vi lục Ất thử quý chi địa", sinh ngày Ất khởi giờ đầu là Bính tý, lộc của Bính tại tị, tị hợp với thân kim là Quan tinh của Ất mộc; tý lại hợp với thân là tam hợp quý hội (Ất quý nhân tại tý và thân). Thần phong thông khảo ghi rằng: "Tý trung Quý thủy hợp Mậu vi Ất Tài", Mậu lộc tại tị, tị hợp thân, là Quan tinh của Ất, thuyết này càng thiếu căn cứ. Tóm lại, các cách cục này không đáng tin, bỏ qua một bên thì hay hơn. Các lý thuyết sai lầm trên, trăm thứ không đúng một, điều này đều do không hiểu mệnh lý, rồi phân tích bình luận bậy bạ.