KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionLý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu EmptyLý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu

more_horiz
Tác phẩm này ban đầu được gọi là "Lan Giang Cương" dưới triều đại nhà Minh. Không có tên tác giả được ghi nhận. Đến thời kỳ nhà Thanh dưới triều vua Khang Hy, tên tác phẩm được đổi thành "Tạo Hóa Nguyên Thược". Sau này, vào cuối triều đại nhà Thanh dưới thời vua Quang Tự, tác phẩm rơi vào tay Dư Xuân Đài, một người từ vùng Sở Nam, và được đổi tên lại thành "Cùng Thông Bảo Giám". Sách đặc biệt chú trọng đến Thập Can Hỉ Kỵ theo bốn mùa trong năm, không dựa quá nhiều vào cách cục thông thường.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Cùng thông bảo giám là tác phẩm mở đầu cho phương pháp Điều hậu luận mệnh, cũng chính là tác phẩm mệnh lý đỉnh cao, có địa vị cao trong giới mệnh lý học, còn được mệnh danh là “mô phạm của Tử Bình”.

Lan Giang Võng có thể là do các thuật sỹ trong giang hồ đời Minh viết, thông qua lưu truyền bí mật hàng trăm năm nên khó tránh khỏi có những chỗ sai sót. Văn tự cũ khó đọc, ngôn ngữ không chi tiết, gây cảm giác khó hiểu. Vào những năm Quang Tự đời Thanh, Dư Xuân Đài dựa vào kinh nghiệm thực tế, nghiên cứu tâm huyết, tìm ra những điều bí ẩn trong đó, chỉnh lý, biên tập thành sách, đổi tên thành Cùng Thông Bửu Giám.

Sách này chọn lọc, giản lược, phân thành các đề mục rõ ràng, có thứ tự. Đến thời Dân quốc, sách này đã được Từ Lạc Ngô chú giải, đem kinh nghiệm thực tế kết hợp phương pháp đoán mệnh, thêm chú giải rõ ràng và lô-gíc, mang đậm tư tưởng triết học, hướng dẫn mọi người về phương pháp luận mệnh lý, cải thiện diện mạo của sách cổ Lan Giang Võng, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của mệnh học đời sau, được coi là “đầu nguồn” và “huyết mạch” của mệnh lý học.

Bát tự biến hoá vô cùng, do đó nguyên tắc luận mệnh quan trọng mà Uyên hải Tử Bình đưa ra: “Mệnh cần xem một cách linh hoạt”. Nhưng Cùng Thông Bửu Giám lại mở ra một con đường mới, dùng một loại “phương pháp chung” khái quát tất cả mệnh cục. Nếu sau khi có cơ sở mệnh lý nhất định rồi đọc sách này thì chúng ta phát hiện đây là bảo vật vô cùng quý báu. Cuốn sách có tính gợi mở về các tầng lớp mệnh cục, như “Mộc hàn hướng dương, Bính thắng Đinh”, “Thủy nuôi dưỡng Giáp Mộc, Qúy tốt hơn Nhâm”.

Do đó đại sư mệnh học thời Dân quốc Từ Lạc Ngô đánh giá cao về cuốn sách này: “Ta khâm phục nhất là ba quyển sách Trích Thiên Tuỷ, Tử Bình Chân Thuyên, Cùng Thông Bửu Giám”. Vì thế ông nhiều lần bình chú Cùng Thông Bửu Giám, gia công chỉnh sửa, cuối cùng đến năm 1941 thì hoàn thành, lấy tên là Tạo Hoá Nguyên Thược Bình chú (Bình chú về chìa khóa của tạo hóa).

Sách này lý luận quan trọng nhất là ở phương pháp Điều hậu, coi Điều hậu là một góc nhìn độc lập như Trích thiên tuỷ viết: “Đạo trời có nóng lạnh, nuôi dưỡng vạn vật, đạo người được nó thì không thái quá. Đạo đất có khô ẩm, sinh thành nên các sản vật, đạo người được nó thì không thiên lệch”. Do đó con người cần đạt được trạng thái tốt nhất thì cần có một môi trường có nhiệt độ, độ ẩm vừa phải, đây chính là điều kiện bên ngoài cần thiết cho sự sinh tồn của con người. Do đó trong mệnh cục nếu xuất hiện sự thừa hoặc thiếu về nhiệt độ hoặc độ ẩm, “Điều hậu là cấp thiết” trở thành nguyên tắc quan trọng. Nhưng Điều hậu không phải là tiêu chuẩn do mệnh lý duy nhất, không thể vì cần Điều hậu mà bỏ qua mạnh yếu và hỷ kỵ của nhật chủ. Quá coi trọng Điều hậu mà bỏ qua cách cục mạnh yếu sẽ dẫn đến phiến diện, sai lệch.

Trong Tử Bình (Bát Tự), việc cân bằng về "nhiệt độ" và "độ ẩm" là một khái niệm quan trọng. Câu nói "bát tự phải có nhiệt độ và ẩm" ám chỉ rằng lá số bát tự cần có sự cân bằng về ngũ hành và khí hậu của các yếu tố để đạt được sự hài hòa, giống như cơ thể con người cần môi trường không quá nóng, quá lạnh, quá khô hay quá ẩm.

Cụ thể:
Nhiệt độ: Liên quan đến yếu tố Hỏa và Thủy trong bát tự. Hỏa đại diện cho nhiệt, còn Thủy đại diện cho sự mát mẻ. Bát tự có đủ yếu tố Hỏa và Thủy, kết hợp với sự phối hợp các hành khác, sẽ tạo ra sự hài hòa về nhiệt độ.
Độ ẩm: Đây là sự cân bằng giữa yếu tố Mộc và Kim. Mộc đại diện cho sự phát triển, sinh trưởng, tạo ra hơi nước và độ ẩm. Kim có thể đại diện cho sự khô ráo và sắc bén. Nếu một lá số có đủ Mộc và Kim, nó sẽ có độ ẩm cần thiết để không bị quá khô cằn hoặc quá ẩm ướt.
Khái niệm này nhấn mạnh rằng, một lá số bát tự không chỉ cần đủ các yếu tố ngũ hành, mà còn cần sự điều hòa, cân bằng giữa chúng để tạo nên một môi trường lý tưởng cho cuộc sống và vận mệnh của người đó. Nói cách khác, nhiệt độ và độ ẩm trong bát tự cần được cân bằng để cuộc đời của một người không gặp quá nhiều cực đoan trong cuộc sống, như quá nhiều nóng nảy (Hỏa) hoặc lạnh lẽo (Thủy), hay quá khô cằn (Kim) hoặc ẩm ướt (Mộc).

descriptionLý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu EmptyRe: Lý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu

more_horiz
Chìa khoá bí mật của bát tự: Đạt được nhiệt độ, độ ẩm vừa phải

Khi chúng ta sắp đến điểm cuối của sinh mạng, nhìn lại toàn bộ quỹ đạo biến hoá của đời người thì trong lòng sẽ gợi lại nhiều chua ngọt đắng cay khó để nói hết, chỉ trong một khoảng thời gian có thể nếm trải nhiều mùi vị cuộc đời. Nếu có thể bắt đầu sinh mệnh mới, chúng ta sẽ sống như thế nào?

Làm thế nào để nhận thức sinh mệnh, nắm bắt được cuộc đời, các thánh hiền xa xưa của Trung Quốc đã tìm tòi trong thời gian dài, đó chính là thuật luận đoán lấy Kinh dịch làm gốc. Mệnh lý học tứ trụ là một đoá hoa trên cây đại thụ này.

Có người cho rằng: mệnh lý có thể giản hoá thành số học, dùng công thức để tính toán. Lý giải như vậy càng bị rơi vào tư duy sai lầm. Lý luận mệnh học bắt nguồn từ học thuyết âm dương, là tư duy lô-gíc của biện chứng, không phải là công thức số học cố định hoá. Nếu luôn muốn nhanh chóng tìm thấy cửa bí mật thì sẽ lãng phí nhiều thời gian mà thu hoạch không nhiều. Mệnh lý học không có bất kỳ cửa bí mật nào, chỉ có cảm ngộ đối với tự nhiên và con người mới có thể biết được.

Ví dụ Thiên can Địa chi, tính chất căn bản của nó không phải là vật tượng chúng ta nhìn thấy được (như Giáp là cây đại thụ, Ất là hoa cỏ), mà là 60 khí trường không gian hình thành khi trái đất quay quanh mặt trời, không gian địa cầu đối ứng với không gian vũ trụ hình thành lên. Những khí trường này có nhiệt độ, độ ẩm khác nhau. Cụ thể chính là sự thay đổi nhiệt độ khi 12 không gian khu vực của địa cầu (Địa chi) dưới 5 loại nhân tố bên ngoài của vũ trụ (Ngũ hành).

Người xưa cho rằng nhiệt độ cực kỳ quan trọng đối với vạn vật: “Tuy rất lạnh nhưng cần ẩm có khí. Rất ấm nhưng cần lạnh có gốc thì sinh thành vạn vật. Nếu quá lạnh mà không có khí ấm, quá ấm mà không có khí lạnh thì vạn vật khó để sinh sôi. Đây là tư tưởng hạt nhân trong “Cùng thông bảo giám”: Điều hậu là cấp thiết.

Nói một cách đơn giản thì Điều hậu chính là điều tiết khí hậu, làm cho nhiệt độ ẩm ở trạng thái vừa phải, tiện cho nhu cầu của nhân loại. Ý của “Điều hậu vi cấp” là nếu bát tự quá nóng, quá lạnh, quá khô, quá ẩm thì điều tiết khí hậu chính là quan trọng nhất, là vấn đề cần giải quyết trước tiên.

Thiên địa vận hành, trung hoà cân bằng là quý, nhân đạo cũng như vậy. Khí hậu và mệnh cục không hợp thì bị rơi vào thiên khô. Khí hậu phù hợp mệnh cục thì sẽ tăng thêm mầu sắc, thậm chỉ có tác dụng hồi sinh. Như phương pháp của đông y “dùng lạnh trị nóng, dùng nóng trị lạnh, dùng khô trị ẩm, dùng ẩm trị khô”. Ví dụ người sinh mùa đông, toàn cục không có một chút Hoả khí thì trời lạnh đất lạnh, vạn vật khó sinh sôi. Người sinh mùa hạ, toàn cục không có một chút thuỷ khí thì trời nóng đất khô, vạn vật khó để sinh sôi, các can chi khó để phát huy tác dụng bình thường. Như vậy thì mệnh cục bị thiên khô, tuy cách cục tốt cũng khó có thành tựu.

Một trọng điểm của mệnh lý học chính là phương pháp bổ cứu nhiệt độ, độ ẩm quá thừa, nếu nói nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp là bệnh thì thuốc chữa “bệnh” này là “Điều hậu dụng thần".

descriptionLý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu EmptyRe: Lý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu

more_horiz
Cách cục mệnh lý phân thành 3 loại lớn: Cách cục Phù ức, Tòng cách, Hoá cách.

Điều hậu là một phương pháp luận mệnh đặc thù, nhưng cũng có thể coi là một hình thức của phương pháp Phù Ức, chỉ khác là dụng thần hay kỵ thần đều cố định.

Lý luận Điều hậu thích hợp với mọi cách cục và bát tự, là một vấn đề khó trong tứ trụ học, tương đối độc lập mà có quy luật của riêng. Trích thiên tuỷ viết: “Đạo trời có lạnh nóng, đạo đất có khô ẩm”. Điều hậu là bổ cứu của mệnh cục thiên về lạnh, thiên về nóng, thiên về khô, thiên về ẩm. Khí hậu bốn mùa xuân hạ thu đông có lạnh nóng ẩm khô. Xuân là ấm ẩm, hạ là oi nóng, thu là (khô) mát, đông là lạnh. Con người trong trời đất mọi lúc mọi nơi đều chịu ảnh hưởng của khí hậu, vạn vật đều không thể chống lại nó. Điều chỉnh bản thân thích ứng với khí tượng đa dạng của thiên nhiên thì con người mới có thể sinh tồn. Có hai nguyên tắc chủ yếu để Điều hậu: Lạnh nhiều thì dùng Hoả, nóng nhiều thì dùng Thuỷ. Cụ thể chính là lạnh cần nóng, ẩm cần khô, nóng cần mát, khô cần ẩm, làm cho nó cân bằng. Như khi trời nóng cần bớt quần áo, khi lạnh cần mặc thêm.

Bốn chữ khá đặc thù trong can chi, chúng không chỉ có một thuộc tính:

Mậu Kỷ có 3 trạng thái tính nóng ẩm, tính lạnh, tính khô. Chuyển hoá của cả 3 trạng thái dựa vào đặc tính của toạ chi và địa chi bên cạnh. Tức toạ chi và địa chi bên cạnh có đặc tính gì thì Mậu Kỷ Thổ sẽ thiên về đặc tính đó.

Thân Dậu có 2 trạng thái tính lạnh, tính khô. Cũng cần dựa vào đặc tính của toạ chi và chi bên cạnh để phân biệt. Khi Thổ khô có lực mạnh mà Thủy không có lực thì (Thân) Dậu Kim không thể sinh Thuỷ.

Khi Điều hậu cụ thể sẽ xuất hiện 3 kết qủa: Điều hậu là hoạ, Điều hậu ít lực không đủ, Điều hậu cân bằng là tốt nhất.

Điều hậu không nhất định là vượng trong mệnh cục nhưng một khi làm bát tự thiên về khô thì cách cục sẽ bị xoay chuyển theo. Điều hậu không nhất định hợp với nhu cầu của nguyệt lệnh dụng thần, nhưng tác dụng của nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của dụng thần mà còn hợp với nhu cầu của toàn cục. Nên chữ Điều hậu cũng phân thành nên và không nên hành vận.

Ví dụ bát tự là “Quý Tỵ, Đinh Tỵ, Bính Mão, Bính Ngọ”, Thiên can Địa chi toàn là Hoả, Mão Mộc là do Hoả đốt, toàn cục có Hoả khí thiên khô, có Qúy Thuỷ ký tế là tốt và có công hiệu của Điều hậu. Qúy Thủy Điều hậu mà chế hoá Tỷ kiếp, do đó hành vận Quan sát sẽ đại phát.

Lại như bát tự “Bính Tý, Tân Sửu, Mậu Tý, Quý Sửu” trời lạnh đất đóng băng, Tân Quý Kim lạnh Thủy lạnh, có một Bính Hoả, tuy hợp Tân nhưng hiệu quả của cục ấm là rất lớn, lúc này cần Điều hậu cấp bách, không thể không có công của Bính Hoả, toàn cục do đó được xoay chuyển. Nếu không có Bính Hoả thì cách cục tuy tốt cũng sẽ giảm bớt.

Khi Điều hậu và dùng thuận dụng thần và dùng nghịch dụng thần khác có mâu thuẫn thì lấy Điều hậu trước tiên. Ví dụ Thương quan gặp Quan là nhiều hoạ, nhưng nếu Kim sinh tháng Thuỷ, Kim lạnh Thuỷ lạnh, cần có Hoả đến Điều hậu. Hoả lúc này không những không kỵ mà là tú khí. Nếu là Thương quan Kim Thủy mang Sát thì hơn một bậc so với các Thương quan khác mang Sát. Nếu cách cục tốt nhưng cần Điều hậu mà không có thì mức độ cát lợi sẽ bị giảm xuống.

Điều hậu vẫn hợp với nguyên tắc các mùa tự nhiên “đông lạnh cần Hoả sưởi ẩm, hạ nóng cần Thuỷ làm dịu bớt”. Khi luận đoán cần tổng hợp địa điểm sinh và lớn lên để phân tích, cùng một bát tự sinh với khu vực nóng và lạnh thì kết quả cũng khác nhau. Cũng như vậy thì khu vực lớn lên khác nhau thì kết quả cũng khác nhau. Ví dụ người sinh vào tháng “Hợi Tý Sửu” thuộc mùa đông lạnh thì bát tự lạnh ẩm nhiều, thiếu Hoả, là tượng giá lạnh. Muốn sưởi ấm thì dùng Bính Hoả kết hợp với Giáp Mộc sinh Hoả, hình thành lực lượng lớn nhất, tiếp theo là Tỵ Hoả, Đinh Ngọ Hoả, cuối cùng mới là Bính Hoả trong Dần. Kinh nghiệm chứng minh Hoả Điều hậu thì hiển lộ sẽ có lực. Nếu chỉ có Hoả ẩn giấu như Bính Hoả trong Dần, Đinh Hoả trong Mùi thì lực lượng nhỏ.

Vì sao lại cần có "Điều hậu"?

Để có thể trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể từ từ tìm hiểu về phương pháp lập bàn tứ trụ trong "Cùng thông bảo giám" như sau:

Bước thứ nhất: Sắp xếp bát tự, tìm ra nhật can. Trong bát tự, có một chữ có thể biểu đạt được toàn bộ về sinh mệnh của một người, đó chính là nhật can. Thiên can có 10, dựa vào Thiên can chúng ta có thể phân thành 10 loại người. Bởi thế, sách Cùng thông bảo giám có 10 chương chuyên luận về thuộc tính và hỷ kỵ của 10 Thiên can, như: Nhật can của bạn là Giáp, là Mộc dương, giống như cây có bóng mát lớn, có tính chất “làm việc độc lập”.

Bước thứ hai: Tìm ra nguyệt lệnh (Địa chi của tháng sinh). Trong bát tự, nguyệt lệnh có ảnh hưởng tướng đối lớn tới mệnh chủ, có nhiều phân tích và lý luận khá phức tạp về nguyệt lệnh. Nhưng trong sách Cùng thông bảo giám đã đơn giản hóa về nguyệt lệnh, coi nó là hạt nhân của suy đoán mệnh lý. Cuốn sách đem mỗi Thiên can kết hợp với 12 tháng, chuyên luận hỷ kỵ của Thiên can kết hợp với tháng, như bạn sinh Giáp Mộc, vào tháng Tý (tháng 11), đầu tiên bạn tra ở chương 1 Giáp Mộc rồi tìm phần luận thuật tháng 11, như vậy có thể biết được tổng thể về vận mệnh của mình.

Như vậy qua hai bước trên, sách Cùng thông bảo giám đã chia ra 120 loại vận mệnh (10 Thiên can x 12 Địa chi). Nhiều người đặt câu hỏi: “Con người có 120 loại vận mệnh sao? Cách phân loại này có khoa học không?”. Kỳ thực trong cuốn sách có trình bày không vì quá đơn giản mà trở nên nông cạn. Sách Cùng thông bảo giám đưa ra phương pháp mệnh lý quan trọng, đó là Điều hậu. Điều hậu chính là điều hòa khí hậu. Mùa hè nóng cần giảm nhiệt độ, khí trời khô nóng cần điều hòa xuống ẩm thấp, Thủy là cái để dùng Điều hậu. Mùa đông cần giữ ấm, khí trời lạnh lẽo cần sưởi ấm, Hỏa là cái để dùng Điều hậu. Lý luận đơn giản này là cơ sở quan trọng của Cùng thông bảo giám. Mỗi chữ trong bát tự đều có nhật can và nguyệt chi tương tác lẫn nhau và tạo ra những kết quả đa dạng và vô cùng phức tạp.

descriptionLý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu EmptyRe: Lý luận cơ bản của Cùng Thông Bửu Giám: Điều hậu

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết