KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyQuyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Luận tính tình, tướng mạo
Nói đến quý tiện đều xem ở bát tự, tính tình ứng ở ngũ hành. Thiện, ác, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, chủ ở tâm; hỉ, nộ, ai, nhạc, ái, ác, dục, chỗ sinh ra tính tình.
Mộc: Thuộc cung Chấn Đông phương, viết là Thanh Long, danh là Khúc Trực, ngũ thường là chủ về Nhân. Màu sắc là xanh, mùi vị là chua, tính cách chính trực, tình cảm hài hòa.
- Vượng tướng: chủ có lòng bác ái, tâm hay thành khẩn kín đáo, ý nghĩ hiền lành, vui vẽ dễ dàng; hay cứu vật làm lợi cho người, hay giúp đỡ người cô độc, suy nghĩ hẹp hòi, chính trực, giản dị, thanh cao, hay dấu hình dạng, hào hiệp, rộng rãi; phong thái, tư cách xinh đẹp, cốt cách thon dài, tay chân nhỏ bé, trơn nhẵn, miệnh nhọn, phát ra duyên dáng, sắc mặt trẻ trung, lời nói hiên ngang, chỗ này thì mộc thịnh mà nhiều nhân nghĩa.
- Hưu tù: thì chủ về gầy, tóc ít dài, tính cách cố chấp, không công bằng, hay đố kị, không nhân đức, chỗ này thì là mộc suy, tính tình ít nhân nghĩa vậy.
- Tử tuyệt: thì mặt mũi không nhân từ, keo kiệt, bủn xỉn, thô tục, cơ thể xấu xí, cổ sau dài, cổ họng kết trái, đứng ngồi không yên, bản thân nhiều lời thiên lệch. Gặp hỏa vẻ mặt hiện ra màu đỏ, thấy thổ thì sắc mặt mang màu vàng, gặp kim thì sắc mặt mang màu trắng, gặp thủy thì sắc mặt mang màu đen. Còn lại bốn hành theo quy tắc trên.
Hỏa: thuộc Nam phương, tên là Viêm Thượng, ngũ thường là chủ về Lễ. Màu sắc là đỏ, mùi vị đắng, tính hay nóng vội, tính cách hay cung kính.
- Vượng tướng: chủ có tâm tính hay khéo chối từ, nhân nhượng làm cho phong cách cẩn thận, dè dặt, ý nghĩa như cung kính, khiêm hòa; uy nghi lẫm liệt, giản dị, hay tôn sùng; diện mạo ở trên thì nhọn, ở dưới thì phình ra, hình thể thì đầu nhỏ chân dài, ấn đường ( phần giữa hai lông mày) hẹp mà lông mày dày, mũi chính lộ ra mà tai nhỏ; tinh thần sôi nổi, nhanh nhẹn, lời nói nóng nảy, tính thô mà không độc, thông minh là có.
- Thái quá: thì âm thanh xé gió, mặt đỏ, đầu gối hay lay động, hiếu động.
- Bất cập: thì gầy còm, đồi trụy, giọng the thé, giảo quyệt, lừa đảo, đố kị, hiểm độc, lời nói ngông cuồng, không thực tế, có thủy mà không có chung.
Thổ: thuộc Trung Ương, tên là Giá Sắc, ngũ thường là chủ về Tín, màu sắc là vàng, mùi vị là ngọt, tính cách hay xem trọng, tính tình phúc hậu.
- Vượng tướng: chủ lời nói đi đôi với việc làm, thành thật, trung hiếu, thích kính cẩn Thần Phật, không thích lừa gạt, bội tín; hay bảo thủ, tư tưởng viễn vông, lưng chừng, hay sơ suất, mũi miệng to lớn, mi thanh mày tú, mặt béo phì, màu vàng; tính hay độ lượng khoan hậu, xử sự có cách.
- Thái quá: thì hay chấp nhất, phong cách thì chất phác, ngu xuẩn, vụng về, không rõ ràng.
- Bất cập: thì nhan sắc ưu sầu, trì trệ, chậm chạp, mặt lệch, mũi thấp, giọng nói nặng đục, lý sự không có thông, ngu muội, tàn độc, tính tình quái gở, không được tình cảm của số đông, điên đảo, mất tín, biến thành kẻ hay làm điều xằng bậy, bủn xỉn, keo kiệt.
Kim: thuộc Tây phương, tên là Tòng Cách, ngũ thường là chủ về Nghĩa. Màu sắc trắng, mùi vị là cay, tính thì cương trực, tình cảm thì mãnh liệt.
- Vượng tướng: thì anh dũng hào kiệt, trượng nghĩa khinh tài, biết liêm sỉ, biết xấu hổ và căm giận, hung ác; thích hợp với cốt nhục, thể chất mạnh mẽ, thần thanh, mặt vuông, thuần trắng, mày cao, mắt sâu, mũi thẳng, tai hồng, thanh âm rõ ràng, to tiếng, cương nghị mà quả quyết.
- Thái quá: thì hữu dũng mà vô mưu, tham lam dục vọng, không có tình.
- Bất cập: thì biển lận, tham lam khốc liệt, nhiều chuyện, giảm nhớ. Có suy tính cẩn thận, thiếu quyết đoán, ít kiềm chế, bên trong thì ác độc, thích dâm dục, háo sát, vóc người gầy nhỏ.
Thủy: Thuộc Bắc phương, tên là Nhuận Hạ, ngũ thường là chủ về Trí, màu sắc đen, mùi vị là mặn, tính chất thông minh, tình cảm thì lương thiện.
- Vượng tướng: thì cơ mưu sâu sắc, túc trí đa mưu, học thức hơn người, giảo quyệt không có giới hạn; sắc mặt đen quang thải, lời nói rõ ràng, hòa thuận.
-Thái quá: thì là không hiếu động, sống lang thang, trôi nổi, tham lam dâm dục.
- Bất cập: thì là người thấp bé, hành động thất thường, tình tính bất thường, nhát gan, không có mưu lược.
Chỗ này tuy lấy ngũ hành làm ví dụ, quan hệ con người liên quan cùng với thực tế mà ứng dụng. Lấy ở trên ngũ hành, tình tính lấy mệnh xem thêm bên trong chỗ gặp cát hung, cùng thần sát mà đoán, nói chung sinh vượng thì chủ là cao lớn, tử tuyệt thì chủ là thấp lùn. Nếu có Sát lâm, chỗ này không có giới hạn ở đây, lại tòng Sát đoán trước. Nếu có khắc, thì chỗ tòng khắc chi ngũ hành đoạn, hựu khái thủ nhật thì, thượng nạp âm, khán hữu khắc vô khắc, cùng Thần Sát chỗ nơi có khí hay vô khí, đóan hình trạng, tính tình, không phải là không ứng nghiệm.

Lại nói: Tính người suy ra chỉ có ở can ngày giờ, xem gốc ngũ hành, không luận theo nạp âm.

- Nếu Mệnh nhập cách mà gặp sinh vượng, chủ thiên tính rõ ràng, gặp vật không nghịch, động thì nhất định chân tính, lời nói thanh cao, lời nói bỗng nhiên độ lượng, lâm sự thì có khả năng quyết đoán, công bằnh là không nghi ngờ, gặp khó khăn không sợ, cả đời không lấy tài vật làm bỉ lận, thích làm ơn cùng không ích kỷ, không xa xỉ, ham chơi, nhiều tình thượng nghĩa, có đề phòng không tốt tai họa về sau.
- Nếu mệnh nhập quý cách mà gặp tử tuyệt thì chủ là tính tình ít hợp, mưu cơ sâu mà ý nghĩ bí mật, đa nghi đa kỵ, cử động khách sáo, nhìn cẩn thận mà đi, chải chuốt trang điểm dung mạo, bản thân thường tự kiểm tra quy ước, không dự tính ngông cuồng, hay đề phòng âm mưu gây ra tai họa.
- Nếu mệnh kẻ tiểu nhân lấy nhập tiện cục mà gặp sinh vượng thì chủ tính tình không bình thường, không tự kiểm tra quản thúc, thành sự việc không để ý đến nguy vong, thích đấu tranh, dùng mạnh hiếp yếu, thân cận với bè đảng hung ác, không có gia nghiệp, nhất định là từ đầu đến cuối không gặp thiện; gặp tử tuyệt thì có tính dâm tà, hành động nhất định là xảo ngụy, gàn bướng như súc vật, hành động hay trang sức, chuyên dùng lời nói ngọt ngào, bản thân thích thương hại, khoe khoang, lâm sự thì không có quyết đoán, nhiều việc làm không phải, bản thân không có sinh tồn.

《Tế công yếu quyết 》nói: Chí cao thì suy tính xa, nguyên nhân là do nơi thủy có gốc sâu; một lòng tin tưởng là người có tín có nhân nghĩa, chỉ vì thổ thành núi cao; nhân từ, phúc hậu là do mộc thành phương Giáp Ất; tính nhanh phân biệt rõ ràng là do hỏa ứng với vị trí Bính Đinh; danh dự cao mà nghĩa trọng, nguyên nhân là do kim quy về hợp với xứ Canh Tân. Nội tâm chính trực không thay đổi, hoặc thịnh hoặc suy, mà tính tình biến đổi. Thủy thừa suy bại, tính tình mê muội mà bất chấp đạo lý; thổ lực rất nhỏ, đầy cố chấp ít dụng; mộc quy về đất không thuận lợi là do quá nhu mà sự việc trì trệ không quy về; hỏa số chưa hưng thịnh là do ít phân rõ mà gặp tổn thương nhiều, không có quyết đoán; kim nắm mỏng manh, tuy có nghĩa mà có thủy không có chung. Vốn là do ngũ hành đắc địa hay thất địa, thái quá hay bất cập, đều có thể thành hung vậy.
《Hồ Trung Tử 》nói: Lời nói giảo hoạt, là do mùa sinh có hợp lại gặp Lục Hư, Lục Hư có ở Mạn Ngữ Thần, phàm người gặp thì tâm thích biên soạn, trang sức, xem trọng văn chương phù phiếm; gặp thì nhất định là xảo quyệt, đạo đức giả, cả đời chỉ gây trở ngại, kềm chế người thân, phiêu lưu nơi đất khách quê người, giả bộ bận rộn, thùng rỗng mà kêu to.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Luận biết trước tật bệnh, chỗ can chi thuộc ngũ tạng lục phủ.

Ca quyết:
Giáp mật Ất gan Bính ruột non,
Đinh tim Mậu bao tử Kỷ tì;
Canh là ruột già Tân là phổi,
Nhâm bàng quang mà Quý chứa thận;
Tam tiêu (*) cũng hướng Nhâm để gửi,
Bao túi đồng về nhập Quý hương.
(*) Tam tiêu:cách gọi của Đông Y, thượng tiêu là lưỡi, thực quản, tim phổi; trung tiêu là dạ dày; hạ tiêu là ruột non, ruột già, thận và bàng quang.

Lại nói:
Giáp đầu Ất đỉnh Bính vai cầu,
Đinh tim Mậu sườn Kỷ thuộc bụng;
Canh là vòng rốn Tân là cổ,
Nhâm cẳng Quý chân từ một thân.

Lại nói:
Tý thuộc bàng quang, tai thủy đạo,
Sửu là ruột, bụng cùng lá lách;
Dần mật phát mạch cùng hai tay,
Mão vốn mười ngón, gan trong chỗ;
Thìn thổ là da, vai, ngực loại,
Tị Mặt, cổ họng , răng , hậu môn;
Ngọ hỏa tinh thần là tai, mắt,
Mùi thổ dạ dày, cổ tay cùng sống lưng;
Thân kim ruột già kinh lạc phổi,
Dậu là tinh huyết ẩn ruột non;
Tuất thổ mệnh môn, chân, mắt cá,
Hợi thủy là đầu cùng quả Thận;
Nếu dựa phép này suy người bệnh,
Kỳ Bá, Lôi Công cũng truyền lan.

Lại nói:
Ngọ đầu Tị dạ dày cùng hai vai,
Phải trái cánh tay là Thìn Thân;
Mão Dậu hai sườn Dần Tuất cẳng,
Sửu Hợi thuộc chân Tý là âm.

Lại nói:
Càn đầu Khôn bụng Khảm tai đồng,
Chấn chân Tốn cổ Cấn là tay;
Đoài miệng Ly mắt phân bát quái,
Phàm xem tật bệnh nay suy cầu.

Nói đến tật bệnh đều do ở ngũ hành không trung hòa, tức là do ngũ tạng thân thể không trung hòa vậy. Cái ngũ hành thông ở Ngũ tạng (tâm, can, tì, phế, thận), Lục phủ thông ở Cửu khiếu ( 9 lỗ ), phàm thập can chịu bệnh thuộc lục phủ (dạ dày, tai, mật, tam tiêu, bàng quang, ruột già, ruột non), thập nhị chi chịu bệnh thuộc ngũ tạng.
Bính Đinh Kỷ Ngọ hỏa cục thuộc phương Nam Ly, chủ bệnh ở phần trên; Nhâm Quý Hợi Tý thủy cục thuộc phương Bắc Khảm, chủ bệnh ở phần dưới; Giáp Ất Dần Mão thuộc phương Đông Chấn, chủ bệnh ở bên trái; Canh Tân Thân Dậu thuộc Đoài phương Tây, chủ bệnh ở bên phải; Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Khôn Cấn, chủ bệnh ở tỳ vị cùng trung quản.
Trúng gió chóng mặt lắc lư, say sẫm, ánh mắt tối sầm, huyết không phân phối đều, thiếu niên lên đường xuống tóc, thanh niên cơ bắp, quả dưa khô gầy, thuộc gan là nhà của Giáp Ất Dần Mão mộc chịu giảm bớt là nguyên nhân gây bệnh vậy; nhiều máu mủ lở loét nhiều ghẻ lở, lưỡi đắng, cổ khan, câm giọng thuộc tim nhà của Bính Đinh Tị Ngọ Hỏa chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy; phù thũng, chân bệnh, vàng thũng, miệng thúi, dạ dày buồn nôn, bệnh sốt rét, thuộc tỳ gia đình của Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ chịu giảm bớt là nguyên nhân gây ra chủ bệnh vậy; Mũi nghẹt rượu khô, tiếng nói trục trặc bực bội, phát cáu, ho khan, thuộc phế là gia đình của Canh Tân Thân Dậu chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy; nước tiểu đục mang màu trắng, thổ tả, tả lỵ, chứng sa ruột non, thuộc thận là gia đình của Nhâm Quý Hợi Tý chịu giảm bớt là nguyên nhân chủ bệnh vậy.
Giáp Ất thấy Canh Tân Thân Dậu nhiều, bên trong chủ động đến gan mật, bệnh lao, tay chân ngu đần tê dại, gân cốt đau đớn; bên ngoài chủ đầu mắt choáng váng, mắt miệng méo vẹo, trái tê phải liệt, chồng chất bổ nhào tổn thương. Gặp Bính Đinh hỏa nhiều không có thủy hỗ trợ thì đàm suyễn lạc huyết, trúng phong bất tỉnh, da tay khô hanh, trong nóng miệng khô. Nữ nhân chủ huyết khí không đủ điều phối, có thai thì sẩy thai. Trẻ em nóng giật kinh phong, khóc đêm ho khan, sắc mặt xanh tối là vậy.
Bính Đinh thấy Nhâm Quý Hợi Tý nhiều thì bên trong chủ tim đau buốt, điên giản lưỡi cao, miệng đau, cổ họng khàn, nóng giật kinh phong, lời nói cà lăm; bên ngoài chủ nóng vả mồ hôi phát cuồng, mắt mờ không sáng, mắc bệnh sa ruột non, ghẻ lở máu mủ, tiểu tiện nước đục. Phụ nữ chủ khô huyết khí kinh mạch không đều. Trẻ em chủ bệnh nổi đậu mùa, ghẻ lở, sắc mặt đỏ hồng là vậy.
Mậu Kỷ thấy Giáp Ất Dần Mão nhiều, bên trong chủ tỳ vị không trung hòa, dạ dày buồn nôn, không ăn, khó thở cổ chướng, tiêu chảy, vàng thủng, chọn lựa ăn uống, buồn nôn, nôn mửa; bên ngoài chủ có tay phải nặng nề, thấp độc chảy vào, ngực bụng có khối u chặn lại. Phụ nữ chủ không chịu ăn uống, nuốt đau, hư nhược, thở dài mệt mỏi. Trẻ em chủ bệnh tích da vàng mềm yếu, trong nóng, ngũ nhiều, sắc mặt vàng nhũn là vậy.
Canh Tân thấy Bính Đinh Tị Ngọ nhiều thì bên trong chủ ruột khô, bệnh trĩ, phân có máu, đàm đỏ ho khan, khí suyễn thổ huyết, như gặp quỷ mất hồn, ưu phiền, táo bón; bên ngoài chủ da tay khô hanh, phổi khô mũi đỏ, mụn nhọt, phù thũng phát ra sau lưng, máu mủ, không có lực. Phụ nữ chủ ho đờm, máu huyết sản hậu. Trẻ em chủ máu mủ, bệnh kiết lỵ, sắc mặt trắng vàng là vậy.
Nhâm Quý thấy Mậu kĩ Thìn Tuất Sửu Mùi nhiều thì bên trong chủ di tinh, ra mồ hôi trộm, đêm nằm mơ thấy ma quỷ, huyết đục hư tổn, rùng mình, nghiến răng, mắt mờ tai điếc, cảm mạo thương hàn; bên ngoài chủ trúng gió, đau răng, sa tinh hoàn, thắt lưng đầu gối đau nhức, thổ tả, sợ lạnh, ghét hàn. Nữ nhân chủ bệnh huyết trắng, thai quỷ, kinh mạch không đều. Trẻ em chủ trong tai lở loét, ruột non đau đớn, ban đêm hay quấy phá, sắc mặt vàng đen là vậy.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Phú nói: Gân cốt đau nhức, bởi vì mộc bị kim thương; mắt bị mờ mê muội, nhất định là gặp hỏa thủy khắc nhau; thổ hư gặp đất mộc vượng, tỳ tổn thương mà luận; kim như gặp đất hỏa viêm thì bệnh máu huyết không tốt.

Lại nói: Mộc gặp kim khắc, xác định chủ gặp tai ương ở thắt lưng, xương sườn; hỏa bị thủy gây tổn thương, nhất định chủ bị tật ở mắt; tim phổi thở gấp, lại can có kim hỏa tương hình; tỳ vị tổn thương, là do thổ thủy khắc chiến. Chi thủy can đầu có gặp hỏa, nhất định bụng đau mà tâm buồn; Chi hỏa can đầu có thủy gặp thì bên trong con ngươi bị che mù. Viêm Thượng lo buồn tam tiêu bốc lên chiếu sáng thổ thì đầu trọc mắt mờ; Nhuận Hạ thuần thấp không có thổ chế, thì thận hư mà tai điếc; hỏa mê thừa vượng đến Ly Tốn, trúng gió mất tiếng; Thái Bạch kiên cố lợi hợp ở Đoài Khôn, được tiến quân.

Lại nói: Tim thụ bệnh thì miệng không thể nói; Gan thụ bệnh thì mắt không thể nhìn; Tỳ thụ bệnh thì miệng không thể ăn; Phổi thụ bệnh thì mũi không thể ngửi; Thận thụ bệnh thì tai không thể nghe, đều từ ở nơi chủ, để chứng minh hư thực.

Ôi! Người bệnh quá nhiều, chỗ này lý lẽ là không có hai, nhìn, hỏi, nghe, thấy, tiếp xúc chính là nhà y thần kỳ; sinh khắc chế hóa, là dấu hiệu không tin thuật sĩ, như có thể thì nghiên cứu suy xét nguồn cội mà xét nghiệm, không rời khỏi phép này.

Luận ngữ nói: An khang, yên ổn sinh ở hòa hợp, tật bệnh bắt đầu từ hình thương. Nghiên cứu lý lẽ ngũ hành suy vượng, suy ra trăm bệnh rõ ràng trong ngoài,bên trong ứng với ngũ tạng, bên ngoài thuộc tứ chi. Mà như khí mộc hưu tù, hai bên tóc mai thưa thớt mà không sản sinh; hỏa đến tử tuyệt, hai con ngươi mờ tối mà không sáng; trong hỏa ẩn thổ thiếu thủy chế, thì tâm thần hoảng hốt; mộc bên dưới tàng kim không có thủy nhận thì chân cẳng bị tổn thương. Giáp Ất sinh Đoài gặp Nhâm Quý, say rượu quê hương mà chết; Bính Đinh muốn Khảm gặp Canh Tân, sông ngòi, bến cảng mà chết. Thủy thịnh mộc trôi, phần nhiều là sinh kiết lỵ; thổ trọng kim vùi, thường là mắc bệnh nóng lạnh nhiều. Chỗ khô thì mắt mờ, do Ất mộc vượng mà Tân kim suy; đau ngứa lở loét, do Đinh hỏa thịnh mà Quý thủy nhược; khối u cứng bị chặn lại làm cho bệnh phù thủng chỉ vì Kỷ thổ thái quá; tức giận, ấm ức làm bệnh liệt là do Tân kim bất cập.

Giáp Ất có thể gây tổn thương Mậu Kỉ, không có cứu mà thiếu thần; Bính Đinh hay khắc Canh Tân, thiếu chế mà mất tiếng, khàn giọng. Trong hỏa có thổ, gáy sinh chứng bệnh tràng nhạc (cổ có từng chùm nhọt như một tràng nhạc ngựa, có khi nó ăn lan cả xuống ngực xuống nách nên cũng gọi là lịch quán ); trong thủy có thổ, bụng bệnh phù thũng. Dụng thần bị chế mà bị hình, chết vì bổng trượng; trên dưới gặp quỷ mà không có cứu, chết do trêo cổ xà nhà. Tứ trụ xung nặng nhiều hung mà chết nơi quê người, ngũ hành suy bại bất túc mà bệnh truyền nhiễm mất mạng. Thủy bại lưng gù, không dùng phương pháp hiên kỳ; kim hình là con Rùa quay lưng, là phương thuyền nhỏ yên ổn mà làm con chó tốt. Canh Tân khí tú, Tây phương thấy mộc mà chết ở binh khí; Giáp Ất bại tuyệt, Khôn phương Nam không có thủy, mà không còn cốt nhục; Tân Tị, Bính Thân gặp hình, cánh tay hư nhược mà người có 6 ngón; Kỷ Mão, Mậu Dần gặp địch, dạ dày kém mà thường bệnh mụn nhọt lở loét; Ất Mùi, Giáp Ngọ gặp kim, nhiều người có đầu con Ba Ba; Quý Mão, Kĩ Sửu tương hình, mắc bệnh phát sinh ở thắt lưng, đầu gối; Giáp Thân, Ất Dậu, niên thiếu nhiều bệnh gan; Tân Mão, Canh Dần, về già lao động bị thương gân cốt. Bính hỏa Viêm thượng, đàn ông thường kỵ ở thể xác và tinh thần; Đinh hỏa ở dưới ẩm ướt, nữ nhân bệnh lao mà huyết bị sản hậu. Ngày giờ suy bại, họa lớn khó chữa; can chi hình hại, bệnh nhỏ mà không chữa được. Khí hỗ trợ mà an hòa, khí nghịch mà tai họa tận diệt. Bệnh chứng không rời ở Lục Mạch, sống chết đều ở nơi ngũ hành, tường tận nghiên cứu hưng suy, vạn lần không mất một.

Cổ ca nói:
Mậu Kỷ sinh mùa khí không đủ,
Tháng giờ hai xứ thấy Thương Quan;
Tất lấy đầu mặt có hao tổn,
Máu mủ lở loét thiếu niên khổ.

Lại nói:
Bính Đinh nhật can ngũ hành suy,
Thất Sát gia tăng đến tam hợp,
Lên hợp nhật cầu áo cơm thiếu,
Tai điếc tàn tật mặt bụi trần.

Lại nói:
Nhâm Quý nặng trọng thay nhau xếp,
Trụ giờ nếu như thấy Thiên Tài;
Mặc dù đầu mặt không bệnh chốc,
Định chủ một thân họa mắt tai.

Lại nói:
Con người sinh ra là do thụ khí ở cha, thành hình ở mẹ. Ngũ tạng hòa bình thì không có bệnh, khắc chiến, thái quá, bất cập, đều có bệnh.

《 Nội kinh 》nói:
Đông phương thực Tây phương hư,
Tả Nam phương Bổ Bắc Phương.

Đông phương thực là mộc thái quá vậy; Tây phương hư là kim bất cập vậy; Tả nam phương là hỏa thái quá vậy; Bổ bắc phương là thủy bất cập vậy.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Vốn là lấy ngũ hành thái quá bất cập, đều là chủ bệnh tật vậy. Nếu thủy thăng mà hỏa giáng, hỏa giáng mà kim thanh, kim thanh mà mộc bình, mộc bình mà thổ bất cập khắc, ngũ tạng đều được khí trung hòa, chỗ này tật bệnh ở đâu mà sinh ra ? 《 Âm dương thư 》nói: Kim cương hỏa cường, phương tự hình, mộc rơi về gốc, thủy chảy hướng Đông. Cho nên luận tam hình, hình thì tàn tật gây hại, nói thái quá mà thân bệnh tật vậy. Nếu chỉ có lấy bất cập là bệnh tật, nhất định có lỗi thiên vị.
+ Phàm ngũ hành có tử tuyệt mà thành bệnh tật: Thủy tử tuyệt, đa số thận khí thì thắt lưng bị tấn công tập trung, cốt tiết ra liền bị chìm mất mà sinh bệnh bất lợi; Hỏa tử tuyệt, chủ đường ruột khí thắt kín, hồi hợp, dễ quên không nhớ, bệnh tinh thần bất an; Mộc tử tuyệt hư khô làm cho mắt mờ mê muội, gân to, móng tay chân khô tụy, mừng giận điên đảo, bệnh chọn ăn chọn uống; Kim tử tuyệt, chủ khí hư thở gấp, ho khan, bề ngoài cháy khô hà tiện, xương khớp đau nhức, nước mắt chảy, ruột già bị kiết lỵ, bệnh tiểu ra máu; Thổ tử tuyệt, chủ mặt vàng, giảm ăn, thân thế uể oải, lười nhác, thích nằm ngũ, lo sầu mà nhiều râu, tai điếc, thần đụa hay quên không nhớ, bệnh ít thích hoạt động.
+ Lại có tương khắc mà thành bệnh tật: Kim Hỏa tương khắc, sinh vượng thì phù thũng, lở loét, tử tuyệt thì bệnh lao nôn ra máu; Thổ Mộc tương khắc, sinh vượng thì chủ mệt mõi, buồn bực, chóng mặt, tê dại, ruột non bị bệnh đau sưng, tử tuyệt thì chủ ăn nôn, táo bón thành cục, bệnh ung nhọt tích lũy không thông, hoặc chủ trúng phong; Kim Mộc tương khắc, sinh vượng thì chủ chân tay xương cốt khớp từng đoạn không xong, bệnh về mắt, tử tuyệt thì chủ khí hư tinh thoát, bệnh lao, bệnh tê liệt; Thủy Thổ tương khắc, thì chủ lá lách ẩm ướt, tiêu chảy, bị đầy đàm, bệnh ho khan.
+ Có tương sinh mà sinh bệnh tật: Hỏa Mộc tương sinh, sinh vượng thì ở trên bị tắc nghẽn ngăn chặn, mắt đỏ, đầu khô; tử tuyệt thì bệnh thương hàn làm cuồng, bệnh buồn bực hỗn loạn; Hỏa Thổ tương sinh, sinh vượng thì không ăn; tử tuyệt thì môi khô đỏ hồng, nóng nhiệt làm đại tiện không lợi; Kim Thủy tương sinh, sinh vượng thì khí ngưng, tử tuyệt thì cốt trong; Thủy Mộc tương sinh, sinh vượng thì dạ dày hư mà hay nôn mửa; tử tuyệt thì tinh bại, thì bệnh thương hàn dính với sốt rét; Kim Thổ tương sinh, sinh vượng thì cơ thể trống rỗng,tử tuyệt thì ruột kêu làm phồng da chân.
Phàm thủy thổ mộc tương phùng ở nơi vô khí, chủ ruột bị sình, bệnh ói mửa; phàm kim thủy hỏa tương phùng ở đất vô khí, chủ bệnh kiết lỵ, kim chủ đại tràng, thủy hỏa gần là âm dương bất hòa vậy. Phàm thủy gặp thổ, phần đa chủ bệnh dạ dày hay ói mửa; thổ nhiều mà không có thủy khí khai thông thì chủ bệnh điếc. Cái Thận thủy không lưu thông thì dạ dày hay ói mửa, khí bất lực thì là điếc vậy.

Lại nói:
Phàm luận tàn tật bệnh chứng, trước tiên luận nhật can, thứ đến xem nguyệt lệnh, nhưng sau đó xem cả trụ năm và giờ, Thương Quan chủ tàn tật, Sát trọng cũng không sai. Quẻ Càn ở Hợi, Hợi là Thiên Môn, người sinh Lục Tân được ngày này, giờ này, đa số chủ là mù điếc. Hợi thuộc Thận, Thận thông Tai, là do Bính hỏa gặp thủy khắc vậy; Tý vị trí ở Khảm cung, Thương Quan Sát trọng tương hình, chủ bệnh ở hạ bộ; Dần cung Cấn thổ, chủ tỳ vị, có bệnh ở sắc mặt vàng mà mềm; Thìn thuộc cung Chấn; chỗ này tháng có mang Thương Quan, thiếu niên chủ nhiều kinh tật, bởi vì Chấn là động vậy. Nhẹ thì chủ bệnh về kinh tỳ vị, nặng thì chủ bệnh ở chân. Tị là cung Tốn, Thương Quan Sát trọng, chủ phụ nữ huyết khí không đều, có bệnh lao; Ngọ là Ly là mắt, Thương Quan Sát trọng, chủ bệnh mất sáng, đầu khô; Thân thuộc Khôn là nhiều âm, Thương Quan Sát trọng, chủ bệnh về thắt lưng, gân cốt, bàn chân; Thương Quan thương tận là không luận ở chỗ này; Dậu là Đoài, thuộc bệnh răng miệng không còn. Tuất là hỏa khố, chủ bệnh hạ huyết áp, trĩ lậu. Sửu Mùi Thương Quan, cũng chủ tỳ vị. Thương Quan Sát vượng thì bệnh truyền nhiễm hàng năm, chủ dụng trên dưới có khắc chiến, ngũ hành không có cứu trợ, chủ thân thể không đủ, đầu mặt tàn thương.

Lại nói:
Phàm tất cả các chư Sát cũng có bệnh tật: Kiếp Sát chủ ở tiểu tràng, lại chủ tai điếc, bệnh yết hầu; Quan Phù chủ bệnh ở thắt lưng, bàn chân; Hàm Trì chủ bệnh tửu sắc, bệnh lao, máu mủ lở loét, bệnh về tiểu tiện không thông; Chuế Háo chủ ám muội, hoặc bệnh khối u; Phi Liêm tên Thiên Cổ, can chi vô khí, chủ không có mắt. Phàm Lộc thì dựa vào bệnh tham ăn mà mang tật, cần phải mang theo Sát khắc thân mới đúng. Phàm mệnh thấy chân xung khí tán, hoặc chân hình khí tán, là người nhiều bệnh tật tàn phế. Giáp Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Mùi, thổ mộc khắc tiết giao nhau, chủ bệnh tê liệt; Bính Thân, Đinh Dậu, kim hỏa khắc tiết giao nhau, chủ bệnh gân huyết chỗ tổn thương; Mậu Tý, Kỷ Hợi, thủy thổ khắc tiết giao nhau, chủ bệnh về lá lách, dạ dày; Canh Dần, Tân Mão, kim mộc khắc tiết giao nhau, chủ bệnh về gân cốt, ho lao.

Phàm muốn suy tật bệnh, tai ách, trước tiên xem ba loại Lộc- Mệnh- Thân, đại tiểu vận như thế nào? Nếu Tam mệnh vô khí, Lộc Mã bại tuyệt, nhưng được Lộc Tài, mệnh Tài, vượng tướng, cũng không đến nỗi chết. Nếu cha già bệnh thì suy ra mệnh con, như mệnh con gặp Cô Thần, Quả Túc, Tang Môn, Điếu Khách cùng Bạch Y Sát lâm mệnh, thì cha nhất định có bệnh mà không thể cứu vậy. Vợ chồng cũng theo chỗ này mà suy ra.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Luận Nữ mệnh

Có hỏi Phụ nữ lợi cái gì? Lợi ở Phu tinh. Phu lợi, phụ nữ tất lợi; Phu khốn, phụ nữ tất khốn. Phụ nữ tòng phu, trước xem Phu tinh để định xuất thân quý tiện, lại xem Tử tinh để xét lúc về già vinh nhục. Quan Sát Tài đều đắc địa, là Phu lợi vậy; Thực thần đắc địa, là Tử lợi vậy. Phu lợi, thì xuất thân phú quý, cả đời hưởng phúc; Tử lợi, thì về già dưỡng dầy, cáo phong tán thưởng. Nhưng cũng có Vượng phu, là vì lấy Thực sinh Tài, Tài sinh Quan mà thôi. Trái lại thì không. Nữ mệnh lấy khắc ta là chồng, ta sinh là con, đều cần đắc thời, nhận khí sinh vượng. Nếu khí vượng chỉ tụ ở mùa, cũng có thể dụng Quan làm chồng, không nên thấy Sát; Dụng Sát làm chồng, không nên thấy Quan, một vị mới tốt. Có hai vị Quan tinh, không lấy Sát lẫn tạp, tứ trụ thuần Sát, không lấy Quan hỗn, đều là phụ nữ tốt. Lại thêm được bản thân tự vượng càng tốt, nhưng vượng không nên thái quá. Thực là Tử tức, dẫn đến giờ gặp vượng, lại được Nhị Đức phù thân, chính là mệnh Phu quý Tử vinh. Không nên thân vượng, trùng điệp ám tàng Phu thần cùng Thương quan, Thất Sát, Khôi Cương tương hình, Dương Nhận thái trọng, có tình nhiều hợp, đều là không tốt. Tuế vận cũng vậy. Có xem bát pháp bát cách, phải suy xét kĩ.

Thuần
Là thuần nhất vậy. Như Quan tinh thuần nhất, hoặc Sát tinh thuần nhất, có Tài có Ấn, không gặp hình xung, là không hỗn tạp nhau vậy. Như Quý Tị, Mậu Ngọ, Tân Dậu, Bính Thân, bản thân chuyên lộc, vượng không tòng hóa. Tân dụng Bính Quan làm Phu tinh, tháng 5 hỏa vượng là phu khỏe. Bính dụng Quý là Quan, là tọa quý, kiến Mậu là Thực, cùng quy lộc ở Tị. Tân kim sinh Quý thủy là con, dẫn nhập giờ Thân đất trường sinh. Thiên can là Quý Mậu Tân Bính, là Thủy Hỏa ký tế; địa chi Tị Ngọ Dậu Thân, củng giáp Tài khố, cho nên lấy chồng làm quan, ăn lộc trời, là mệnh Phu vinh Tử quý.

Hòa
Hòa là điềm tĩnh vậy. Như thân nhu nhược, chỉ có một vị Phu tinh, thần trụ không xung phá, công kích, bẩm khí trung hòa, thì gọi là Hòa vậy. Như Nhâm Thìn, Tân Hợi, Kỷ Mão, Kỷ Tị, Kỷ dụng Giáp làm chồng, Hợi là đất trường sinh, là được thiên thời địa lợi; Giáp lấy Tân là Quan, kim sinh ở Tị, Kỷ lấy kim là con, cũng sinh ở Tị, gọi là Phu hành Quan tinh, Tử được trường sinh, cho nên là Ích Phu vượng Tử. Tuy tự tọa Mão là Sát, trong Tị có Canh chế, luận là Khử Sát lưu Quan, nữ quý mệnh vậy.

Thanh
Thanh gọi là sạch sẽ. Nữ mệnh có một Quan hoặc một Sát, không hỗn tạp nhau, gọi là Thanh. Phu tinh phải đắc thời, trụ có Tài sinh Quan, có Ấn trợ thân, không có một chút khí hỗn trọc, mới là thanh quý. Như Kỷ Mùi, Nhâm Thân, Ất Mùi, Giáp Thân, Ất lấy Canh là chồng, Canh lộc đến Thân; lấy Đinh là con, Đinh vượng ở Mùi; lấy Nhâm là Ấn, Nhâm sinh ở Thân. Lại tọa dưới Mùi là Tài của Ất mộc, Tài vượng thì có thể sinh Quan, tứ trụ không có hình xung phá bại. Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ tam bàn vật, nữ mệnh nếu gặp tất vượng phu.

Quý
Quý, hiệu là tôn vinh. Trong mệnh có Quan tinh, được Tài khí lấy tương sinh, là Tam Kỳ đắc tông, tứ trụ không có Quỷ bệnh, chính là nữ mệnh Nghiêu Thuấn vậy. Kinh nói: Mệnh nữ nhân không có Sát, nhất quý có thể lấy người tốt. Lại nói: Nữ mệnh không có Sát phùng Nhị Đức, có thể phong tước lưỡng quốc. Thiên Đức, không phải chỉ có Thiên Nguyệt nhị Dức, tức Tài là một Đức, Quan là một đức, lại thêm Ấn Thực, thì càng quý vậy. Như Ất Hợi, Bính Tuất, Tân Mão, Quý Tị, Tân dụng Ất là Tài, vượng ở Hợi; Bính là Phu tinh, tọa khố thổ quy lộc ở Tị. Quý thủy là Phu Quan, Tân kim sinh Quý là con, tọa Tị thổ cùng Phu lộc đồng vị, lại là quý thần, lại là Tài Quan song mỹ, là được chồng con đều quý, lưỡng ngộ bao phong. Cho nên là mệnh Phu nhân.

Trọc
Trọc là hỗn vậy. Là ngũ hành mất vị trí, thủy thổ cùng hỗ thương, thân thái vượng, chính phu không lộ, thiên phu hỗn tạp, trụ nhiều ly biệt, không có Tài Quan Ấn Thực, là hạ tiện nhơ đục, hoặc là xướng kỹ tỳ thiếp, người dâm xảo. Như Kỷ Hợi, Ất Hợi, Quý Sửu, Kỷ Mùi. Quý thủy sinh tháng 10 là đại phiếm, Quý lấy Mậu là chồng nhưng không hiển, giờ dẫn Kỷ Mùi là Thiên phu, ngại Sửu Mùi đều có thổ hỗn tạp, trong trụ không có Tài, Ất mộc là can Thực thần vượng, Kỷ thổ thụ khắc, là Quỷ bại lâm thân, ngũ hành thất vị, chủ trước thanh sau trọc, không thể hưởng phúc.

Lạm
Lạm, là tham lam vậy. Nói trong trụ, có minh phu nhiều, ám Tài vượng, can chi lại mang nhiều Sát, tất vì tửu sắc, tư ám được tài. Loại mệnh này, hoặc là nô tỳ, hoặc là khắc phu tái giá. Như Canh Dần, Bính Tuất, Canh thân, Đinh Hợi. Canh Thân, là ngày Bát Chuyên tự vượng, Bính hỏa là chồng, Dần Tuất hội cục, can giờ Đinh lại thích trọng lửa tình, Canh Thân kim ám khắc Dần Hợi mộc là Tài, ở trong Hợi có Nhâm thủy là Thực sinh Tài, người tuy xinh đẹp có phúc, khó tránh lạm dùng mà đắc tài.

Xướng
Xướng, là ca kỹ vậy. Chính là thân vượng phu tuyệt, Quan suy Thực thịnh, hoặc trong trụ không thấy Quan Sát, hoặc có mà bị Thương quan thương tận, hoặc Quan Sát hỗn loạn mà Thực thần thịnh vượng, mệnh này tất là xướng kỹ, nếu không, cũng là sư ni tỳ thiếp, khắc phu dâm bôn. Như Đinh Hợi, Canh Tuất, Mậu Thìn, Canh Thân. Mậu lấy Giáp là chồng, tháng 9 là thất thời vô khí, lại bị Canh khắc tuyệt. Giờ dẫn nhập Thân lấy Canh là Thực, kiến lộc ở Thân. Mậu Thìn là Khôi Cương, sinh thân thái vượng. Trong Hợi có Nhâm Tài cũng vượng, gọi là Thân vượng phùng sinh, Tham Thực tham Tài, Phu tuyệt, làm ca kỷ xinh đẹp vậy.

Dâm
Dâm, là rót vào vậy. Là bản thân đắc địa, Phu tinh minh ám cùng giao tập. Nói nhật can tự vượng, trong trụ đều có Quan Sát vậy. Ở can gọi là Minh, ở chi gọi là Ám. Tứ trụ thái quá, như ví dụ 1 Đinh thấy 3 Nhâm cùng Thìn Tý nhiều, gọi là Giao tập, ở người là không chỗ nào không nạp vào vậy. Như Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Bản tự Nhâm Thìn, Quý Hợi là đắc địa, Minh có Mậu thổ là chính phu, Ám có Thìn Tuất là thiên phu. Lại như : Canh Tuất, Mậu Tý, Ất Dậu, Giáp Thân. Ất lấy Canh gọi là Minh phu, mà thân tự tọa Dậu, giờ lại dẫn đến Thân gọi là Ám phu, vận hành tây phương đất kim vượng. Hai mệnh này Phu tinh đều có minh ám giao tập, dâm không thể nói.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Vượng Phu khắc Tử
Nói Nữ nhân có vượng Phu thương Tử là sao? Phép này đều suy ở trên giờ sinh, giờ là đất quy tụ ( chốn quay về), hai tinh Phu Tử dẫn quy về ở giờ sinh, là nói Phu tinh sinh vượng, Tử tinh suy bại vậy. Như: Bính Tuất, Bính Thân, Đinh Tị, Tân Hợi. Đinh tọa Tị là tự vượng, lấy Nhâm thủy là chồng, trụ giờ chính là đất Phu tinh lâm quan, chi tháng Thân kim chính là đất Phu tinh trường sinh. Lấy Tân kim là Tài, tháng 7 kim vượng, so sánh với 2 Bính, đều tọa Tài Ấn phu tinh, cho nên chồng thông tú phú quý. Đinh lấy Mậu là bức thành Tử tức, dẫn đến trụ giờ thấy Hợi, trong Hợi có Giáp mộc khắc Mậu thổ, là Tử tinh bị khắc mà khó được vậy, cho nên là Vượng Phu thương Tử. Còn lại theo ví dụ này mà suy.

Vượng Tử thương Phu
Có nữ mệnh Vượng Tử thương Phu là sao? Phép này chuyên lấy tháng và giờ để xem, nói khắc ta là Quan là chồng, có khí đắc thời, thì phu phát phúc; nếu can chi thất vị không được Nguyệt khí, trong trụ lại gặp xung khắc, trụ giờ lại không vượng khí, mà lúc sinh con dẫn đến trụ giờ gặp đất trường sinh, lâm quan, đế vượng, lại không có hình khắc, gọi là Vượng Tử thương Phu vậy. Như mệnh: Kỷ Mão, Giáp Tuất, Ất Mão, Mậu Dần. Ất dụng Canh là chồng, tháng 9 Canh kim vô khí; Ất dụng Bính là con, Bính hỏa trường sinh ở Dần, cùng Tuất hội cục, đều thuộc hỏa. Nguyệt lệnh đã không có khí kim, giờ dẫn tuyệt địa, lại bị hỏa khắc, là tổn thương Phu tinh, còn Tử tức vượng, cho nên viết Vượng Tử thương Phu. Còn lại theo ví dụ này suy.

Thương Phu khắc Tử
Thương Phu khắc Tử, chính là can chi Phu tinh thất vị, tháng sinh thất thời, trong trụ lại gặp xung khắc, chi giờ cũng không sinh phù, còn kiêm Ấn thụ trọng phùng cướp khí phu tinh, khắc nặng tử tức, Phu Tử đều không thể vượng, trái lại là tuyệt ở giờ vậy. Như mệnh: Bính Tý, Canh Tý, Ất Hợi, Bính Tý. Ất mộc lấy Canh kim là Phu tinh, tháng 11 là kim hàn thủy lạnh, kim lại tử ở giờ Tý, Hợi Tý thủy cướp hết khí kim, trụ không có thổ sinh trợ Thương quan, mộc nhiều, cho nên là Thương phu. Ất mộc lấy Bính hỏa là con, dẫn đến giờ Tý, là đất thủy vượng diệt hỏa, tuy hai can năm giờ hỏa bị bầy thủy tương khắc, Phu Tử đều mất, cho nên viết Thương Phu khắc Tử. Còn lại theo ví dụ này mà suy.

An tĩnh thủ phận
An tĩnh thủ phận, chính là Phu tinh có khí, nhật can tự vượng, tương đình mà không khắc, không gặp hình xung, là chỗ được Tài Thực vậy. Như mệnh: Quý Tị, Canh Thân, Ất Mão, Đinh Hợi. Ất tọa Mão là chuyên lộc tự vượng, lại được chi giờ Hợi tự hợp cục, là bản thân vượng vậy. Lấy Canh kim là chồng, tháng 7 Canh lộc ở Thân, lại được chi năm Tị hỏa là đất kim trường sinh, là Phu tinh vượng vậy. Hợi có Nhâm thủy, là Thiên Trù Thực thần của Phu tinh, cho nên chủ chồng có ăn lộc trời. Chỗ này là bản thân Phu tinh cả hai đều không hại nhau, đều đón khí vượng, không có hỗn loạn phạm nhau, vợ chồng hòa thuận, là cách an tĩnh thủ phận vậy.

Hoành yểu thiếu niên
Nói về Hoành yểu thiếu niên, là tạo hóa cùng tuyệt, cách cục biến dị vậy. Có thắt cổ, chết sông, có sinh sản thiếu máu chết, bị người sát hại, như vậy là sao chứ? Chính là thân nhược mà gặp Sát trọng, Sát nhiều là khắc thân, lại còn mang hình xung phá bại; hoặc là trong mệnh vốn có Quan tinh thụ thương, hành vận lại gặp đất Thương quan; hoặc không có Quan thấy Thương, vận lại lâm đến Quan; hoặc mang Nhận không có chế, vận hành đất hợp Nhận, cùng các loại Vong Thần Kiếp Sát, chỗ này đều là thuộc loại chết yểu vậy. Không chỉ có ở nữ mệnh, nam mệnh cũng vậy. Như mệnh: Đinh Mão, Quý Sửu, Canh Thìn, Bính Tý. Canh dụng Đinh là Quan, bị Quý thủy Tý Thìn Thương quan trùng điệp, khắc thái trọng, là thủy đa kim trầm, một lúc giao vận Đinh Tị, Thương quan kiến Quan, lại hội Bính Sát khắc thân, cho nên tai họa chìm nước vậy.

Phúc Thọ lưỡng bị
Nói về Phúc Thọ lưỡng bị, là tạo hóa trung hòa, cách cục thuần túy vậy. Cả đời có hưởng dụng, vậy là sao chứ? Chính là thân tọa đất vượng, thông với khí tháng, can chi giúp nhau, lại mang thêm Tài Quan Ấn thụ, đều đắc vị, không hành thoát Tài, phá Ấn, cục Thương quan, hỉ nhất là Thực thần, Thiên Trù. Nếu thân vượng mà vận hành đất Tài Thực, đầy đều là mệnh Phúc Thọ lưỡng bị vậy. Như mệnh: Bính Ngọ, Canh Tý, Tân Dậu, Quý Tị. Tân tọa Dậu, là ngày chuyên lộc tự vượng, giờ Quý quy lộc ở Tý là Thực thần, Thọ tinh, là Tử tinh đắc địa. Tân dụng Bính hỏa là Quan, Bính lộc quy về Tị, là Phu tinh đắc địa. Lại sinh tháng 11, chính là tượng Kim bạch Thủy thanh, kiêm can chi trên dưới giúp nhau, cều không có thương tổn, thân không tòng hóa, cho nên là người tướng mạo xinh đẹp đoan chính, Phu Tử đều nhau, mệnh phúc thọ lưỡng bị vậy. Còn lại theo ví dụ này mà suy đoán.

Từ chỗ Chính Thiên
Nói đến Từ chỗ Chính Thiên là sao vậy? Chính là Phu Phụ tương hợp, lại gặp Tỉ kiên phân tranh, như một vị Phu tinh có hai vị Thê tinh tương hợp, gọi là Tranh Hợp. Nếu bản thân tự vượng, so với nó là thân suy, tứ trụ không xung, thì ta là Chính còn nó là Thiên vậy. Bởi vì ta sinh vượng có khí, thì chồng theo ta là Chính; thân ta suy mà nó vượng, thì chồng theo nó, trái lại ta là Thiên, còn nó là vượng tranh mất chồng của ta, ta chỉ là Thiên. Hoặc tự vượng thái quá, trụ không có Phu tinh cũng là Thiên; hoặc có Quan Sát hỗn tạp, hoặc Thương Quan thái trọng, cũng là Thiên, càng dâm lạm. Như mệnh: Nhâm Tý, Bính Ngọ, Tân Dậu, Tân Mão. Tân dụng Bính là Phu tinh, ta tọa Dậu, là chuyên lộc tự vượng, tuy giờ dẫn Tân Mão kim, nhưng nó vô lực, cho nên ta là Chính còn nó là Thiên, gọi là Nhị Nữ tranh Phu, là Chính Thiên tự xử. Lại như: Quý Mùi, Nhâm Tuất, Quý Tị, Nhâm Tý. Quý dụng Mậu thổ làm chồng, Quý tọa Tị là thủy nhược; Nhâm tọa Tý thủy vượng, nhược không thể thắng vượng, bị Nhâm thủy tranh mất Mậu thổ là chính phu, là nó thắng ta suy, ta chỉ là Thiên. Nếu Nhâm thủy trọng mà quá phù phiếm, lại mang đào hoa, không thể là Tự Xử. Còn lại cứ loại suy theo chỗ này.

Chiêu Giá bất định
Nói đến Chiêu Giá bất định là sao? Chính là trong con mắt khiến có Phu tinh, thấu can cùng bản thân tương hợp, bản thân tòng phục, nhưng Phu tinh vô khí, giờ dẫn Phu tinh hoặc Sát tinh nhưng nhận khí vượng tìm khắc bản thân, lại liền phục tòng theo chồng, cho nên gọi là Chiêu Giá bất định. Nếu Phu tinh không vượng, hoặc bị khắc chế, tất lấy chồng chậmì, hoặc lấy chồng bất minh, hoặc chồng không ra gì, hoặc có ngoại tình. Như mệnh: Quý Dậu, Giáp Tý, Kỷ Mùi, Ất Hợi. Kỷ dụng Giáp là chồng, sinh ở tháng 11, là thất thời không vượng, giờ gặp chữ Hợi, là đất Giáp mộc trường sinh, là phu vượng vậy, nhưng lại không hợp, lại bị Ất mộc chế Kỷ Mùi, Mùi là khố địa Ất mộc. Giáp sinh tháng Tý, phu tọa bại địa, không lộ, trụ giờ là Ất Hợi, trong Hợi lại có Giáp trường sinh, Giáp lại muốn trêu Ất vậy, chỗ này là Chiêu Giá bất định, còn lại cứ loại suy.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Luận viết:
Phàm xem mệnh âm (nữ), trước suy Phu Tử hưng suy, muốn nghiên cứu vinh khô, thứ biện ngày giờ khinh trọng.
Quan là chồng, Tài là cha, Tài vượng Phu vinh; Thực là con, Ấn là mẹ, Ấn thịnh Tử suy, nhật can không nên thái vượng, tháng nhận khí trung hòa. Nhật chủ vượng tướng, đoạt quyền chồng mà cô khổ; Nguyệt lệnh hưu tù, bản thân an phận mà giữ nhà. Quan tinh đắc địa, phu chủ vinh hoa; Thương quan không khắc, con nhận quý hiển. Có Quan thì không thể có Sát, có Sát thì không thể phùng Quan, chớ khiến cho Quan Sát hỗn tạp, là người an ổn trinh tường? Quan tinh không bị khắc, gặp Nhị Đức, có thể phong tước lưỡng quốc; Thất Sát có chế, gặp Tam Kỳ, là địa vị Nhất phẩm. Thêm Thực thần mà chế Sát sinh Tài, ác Thương quan mà cướp khí khắc phu, tham Tài phá Ấn, sao có tốt? Dụng Sát phùng Quan, không phải là Tiết phụ; cô bần hạ tiện, bởi vì Tử tinh hưu tù; phú quý tranh vanh, chỉ vì Phu hưng Tử vượng, Quan thái vượng, bố chồng thọ khó dài; Tài trùng điệp, sớm tang mẹ chồng. Thân cư vượng địa, tuy giàu có, nhưng Phu Tử hình thương; ngày gặp đất suy, dẫu bần hàn, Phu Tử đoàn tụ; tự vượng là phụ nữ đảm đương, ngày suy mà vụng ở nữ công. Một vị Quý thần, không giàu cũng vinh; số nhiều hợp thần, không à ni cũng là kỹ. Quý nhân cưỡi Dịch Mã, quyết chủ mỹ nữ phong trần; Quan tinh mang Đào Hoa, định ở nhà chồng quan. Thực thần đơn độc, an hòa mà có con có thọ; hợp nhiều quý, kiều mị mà đa tiện đa tình. Đào Hoa không nên bị Đảo Sáp, mộc dục tối kỵ lỏa hình, phạm nhiều là thị tỳ, hoặc làm sư ni. Tứ trọng đầy đủ, là nữ tửu sắc hoang dâm; Tứ Mạnh đầy đủ, là người thông minh sinh phát. Mùi Sửu hình là không kỵ, Tuất Thìn xung chỗ không tốt. Đại để Phu tinh phải gặp kiện vượng, bản thân phải nhận khí trung hòa. Thực thần không thể hình thương, Tử tinh phải lâm sinh địa. Ấn thụ một vị sinh thân, thì có thể tài thần phát phúc, thấy nhiều không ngại. Tài cường thân nhược, không thể phát phúc; thân cường Tài nhược, sao yên mà tốt? Thương quan trùng điệp, khắc Phu tinh mà là người tái giá; Ấn thụ gặp nhiều, là phụ nữ không tử biệt cũng sinh ly. Hình xung Dương Nhận, hung ác vô tri; phá hại Kim Thần, máu đổ khó sinh. Tứ trụ không có Phu tinh, không làm vợ lẽ cũng tái giá; bát tự có Không Vong, không quả phụ cũng là cô loan. Đại khái quý tiện xem Phu vị, vinh khô xem Tài Quan, đầy là thiên dựa ở địa, địa phụ ở thiên, cho nên quý theo chồng mà quý, bần theo chồng mà bần. Bát pháp ở trước là huyền cơ, bát cách sau là áo chỉ minh kỳ, nếu có sai khuyết, nhờ người giải thích.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Tổng ca:
Chính khí Quan tinh đệ nhất cách,
Tài Quan lưỡng vượng cũng đồng thuyết;
Quan tinh mang hợp kiêm tọa lộc,
Nữ mệnh gặp đầy có chân phúc;
Quan tinh Đào Hoa là lương nhân,
Mang hợp kiêm Sát thì khác nhau;
Ấn thụ Thiên Đức duy tối diệu,
Nhật Quý Tài Quan cũng như nhau.
Độc Sát có chế giống Dương Nhận,
Thương quan sinh Tài cũng không hung;
Quy lộc phùng Tài chuẩn đoạn này,
Thực thần sinh vượng lại rất thọ.
Sát hóa Ấn thụ cách cục thuần,
Nhị Đức phù thân quý vô luân;
Tam Kỳ hợp cục chân tạo hóa,
Củng Lộc Củng Quý cũng không sợ.
Sát Quan hỗn tạp kiêm không chế,
Nữ nhân loại này không thể cưới;
Thương quan thái trọng lại kiến Quan,
Tham Tài phá Ấn đều không kham,
Tỉ kiên trọng phạm nhiều tranh đố,
Tài Quan gặp Kiếp quyết không giàu;
Tài đa thân nhược cũng như thế,
Dương Nhận xung hình thây không còn.
Kim thần mang Nhận đoán hung ác,
Đào Hoa mang hợp dâm loạn xem;
Không Quan kiến hợp nhiều Quan hợp,
Đảo Sáp Đào Hoa loạn khuê các.
Thân vượng vô y hại Phu Tử,
Nữ nhân loại này đại bất tường;
Đảo Thực trọng phạm nên giảm phúc,
Lại phạm Quả Tú chủ cô độc.
Cô Loan Hồng Diễm Âm Dương sai,
Thần Sát loại này đều không tốt;
Nếu là quý mệnh hợp Quan Ấn,
Một chút Thần Sát không là sợ.

Lại viết:
Chọn vợ cần trầm tĩnh,
Nói rõ cho bạn nghe;
Phu tinh phải cường kiện,
Nhật can nên thuận nhu;
Nhị Đức tọa Chính Tài,
Phú quý tự nhiên đến;
Tứ trụ mang hưu tù,
Tăng danh lại tăng thọ,
Quý nhân chính một vị,
Hai ba vị chìu thân;
Kim thủy nếu tương phùng,
Tất là người xinh đẹp;
Tứ quý nhất vị Sát,
Quyền gia nói phú quý;
Tài Quan như tàng khố,
Xung khai sẽ giàu có;
Dần Thân Tị Hợi đủ,
Cô dâm phúc tiện liền;
Tý Ngọ cùng Mão Dậu,
Định là chạy theo người;
Thìn Tuất kiêm Sửu Mùi,
Phụ đạo tất đại kỵ;
Có Thìn sợ thấy Tuất,
Thìn Tuất nếu thấy nhau,
Đa số người dâm phá;
Có Sát không sợ hợp,
Không Sát lại sợ hợp;
Hợp thần nếu như nhiều,
Không kỹ cũng cầm ca;
Dương Nhận mang Thương quan,
Bác tạp việc đa đoan;
Đầy bàn nếu là Ấn,
Tất phải định tổn tử;
Thiên can liền một chữ,
Cô phá họa miên miên;
Địa chi liền một chữ,
Hai độ tự thành hôn;
Đây là Quyết phụ mệnh,
Nghìn đời chớ khinh thị.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Luận Tiểu Nhi
Nói về xem mệnh Tiểu Nhi, giống như phương pháp trồng cây hoa. Bồi dưỡng tốt thì mầm rễ tươi tốt, hoa quả mới nhiều; bồi dưỡng không tốt thì trái lại vậy. Sao lại nói vậy? Phàm người trồng hoa, nhất định lấy thổ vun xới cho gốc, gốc có đầy thì mầm mới xung; nhất định lấy thủy để tưới nước cho cây, cây có mạnh thì hoa tươi tốt; dựa vào dương hỏa ấm áp để chiếu sáng ra hoa, hoa đầy đủ thì thành quả; dùng kim lưỡi dao để đốn cành nhánh, cành nhánh sạch sẽ, rõ ràng thì gốc mới kiên cố. Giả như thổ hư thì gốc rễ ít, thiếu thủy thì mầm khô, mặt trời chiếu ánh sáng mạnh quá thì hoa bị cháy, làm khô gãy thì trái rụng, đều là mất trung hòa khí bồi dưỡng, thì cây hoa có yên ổn mà không bị khô héo ư? Trong bát tự con người, lấy năm là gốc rễ, lấy tháng là mầm cây, lấy ngày là hoa, lấy giờ là quả, là lý lẽ hiển nhiên.

Cho nên suy đoán mệnh của Tiểu Nhi thì cần nhật can có khí, nguyệt lệnh sinh phù, can năm có gốc rễ, Ấn thụ không bị thương, Tài Quan có chế, Thất Sát được hóa, Thương Quan gặp hợp, khí được trung hòa, không gặp hình xung phá hại, chỗ này thì mệnh dễ nuôi dưỡng mà trường thọ. Như Sát trọng thân khinh, hoặc Tài đa thân nhược, hoặc Thương Quan thay nhau gặp, hoặc Thực thần gặp nặng, hoặc nhật can quá vượng không có chỗ dựa, hoặc là quá nhu nhược thiếu Ấn là khí mất trung hòa, trong trụ có hình xung phá hại, chỗ này thì khó mà mệnh được nuôi dưỡng để hưởng thọ. Cả hai phương pháp đều giống như bồi dưỡng vun cho gốc đầy vậy.

Lại nói: Mệnh Tiểu nhi, cần luận ở trụ giờ là chính, trước tiên xem Quan Sát, thứ đến xem cách cục. Nhật chủ cường, Tài Quan vượng, có Quan mà không có Sát, hoặc nhật chủ nhược, Tài Quan ít thì thường dễ về nuôi dưỡng; nhật can nhược mà Tài Quan nhiều, có Sát có Quan, khó nuôi dưỡng. Nói đến Quan là sao vậy? Tức Thiên Quan là quan (chữ quan ở đây nghĩa là cửa ải đóng), Thiên Tài là Sát. Chuyên lấy nhật can làm chủ, lấy số sinh thành mà đoán. Quan, ví như cửa quan trước mắt, chính là đất hiểm trở. Người đến cửa quan, không có văn bản rõ ràng thì không dám lén lút mà vượt qua, làm trái quy định thì nhất định dẫn đến tai họa. Mệnh Tiểu Nhi phạm chỗ cửa ải này, thì là bất lợi. Trong trụ có nhật can cường kiện, chế phục thuần túy, Ấn thụ không bị thương, như có loại văn bản rõ ràng thì trôi chảy thông suốt mà toại nguyện, dễ dàng nuôi dưỡng mà trường thọ. Còn trái lại thì không nên.

Chữ Quan trong Tử bình thì chỉ lấy Sát luận. Giả như tiểu nhi ra đời sinh ngày Giáp, thì Canh là Quan, trụ có Mậu thổ là bè đảng của Sát, đây là cửa quan nặng lại không có Tài. Nhật chủ kiện vượng được Ấn sinh hóa giải thì cửa quan nhẹ không có hại. Ngày Giáp thấy Canh đóng ở 9 tuổi, ngày Đinh thấy Quý là đóng ở 6 tuổi, Mậu thấy Giáp là đóng ở ba tuổi, Bính thấy Nhâm là đóng ở 1 tuổi, Nhâm thấy Mậu là đóng ở 5 tuổi, Quý thấy Kỷ là đóng nửa tuổi. Ngày xưa có phép xem giờ sinh nam nữ, ngày âm hay dương mà biết quý tiện.

Như mệnh kim, là sinh ngày âm, chủ tướng mạo quan quý; mê muội thì bần tiện; không có gió đến lớn hay nhỏ, thì thọ không dài; có mưa tuyết, thì chủ về tâm thiện hiếu thuận; Mệnh Mộc, sinh ngày âm, là đại phú; trời sáng, có Quan, là thọ lâu; trời tối, cơm áo là bình thường, thì đoản mệnh; có mưa tuyết, thì bản thân quý hiển mà hiếu thuận; Mệnh Thủy, sinh ngày âm, thì tâm ác, nhưng đủ áo cơm; trời sáng thì đại quý; trời tối thì đoản mệnh, bần tiện; có gió thổi thì về sau có quý nhân dẫn dắt; Mệnh Hỏa, sinh ngày âm thì đại phú; trời sáng thì tuy có phú mà yểu thọ; trời tối thì có phần Quan; không có gió nhỏ hay lớn thì có cơm áo; có nhiều tuyết rơi thì đoản mệnh; có mưa tuyết nhỏ, đến năm chừng 50 tuổi thì có bệnh; Mệnh Thổ, ngày âm, không quá 50 tuổi thì chết; có mưa nhỏ, không quá 30 tuổi thì đại phú; ngày tối thì phú quý, có phần làm Quan, thọ không yểu; có gió lớn ngỗ nghịch thì đoản mệnh; có mưa tuyết thì có bổng lộc tiền của đến; trời quang đãng thì phú quý lâu dài.

Phàm Tiểu Nhi giờ sinh là Thìn Tuất Sửu Mùi, lại vừa có trong tứ trụ nhiều Mộ, là chủ nhận làm con thừa tự; mang Ngọ Mùi nhiều thì gọi tên là Chấp ảo Sát ( Hung thần bướng bỉnh), chủ là tính tình bướng bỉnh. Tuất nhiều thì cũng vậy; mang Tý Hợi nhiều thì bị bệnh sa tinh hoàn, là giờ Tý thì không có không ứng, Nhâm Tý, Bính Tý càng khẩn cấp; giờ sinh cùng Bào Thai cùng ở Thìn bên trên cũng vậy; mang hỏa nhiều, chủ thiếu niên bệnh máu mủ lở loét; mang Đinh Ngọ nhiều, có chữ Mùi thì chủ đầu lớn, bệnh lở loét, hoặc vết sẹo, hoặc bệnh chốc đầu lở loét, người lớn thì bệnh ung thư não. Tháng Tứ Mạnh ở trên mang kim hỏa tương khắc thì nhiều bệnh về ghẻ mụt lở loét kinh sợ; kim thủy hỏa khắc chế nhau, chủ bị cháy nhà mà vết thương bị bỏng lột da; kim thủy nhiều thì chủ nói chậm , thấy mộc thì chủ nói sớm. Ngũ hành đầy đủ thì chủ anh tuấn, lanh lợi, ý là có đủ tinh thần, khí chất. Ngũ hành từ tháng sinh đến can giờ lấy lần lượt sinh vượng, ít hình xung thì cát, chủ trường thọ, trở thành người tài năng vậy. Trái lại thì là yểu, tuy là phúc thần nhiều có cứu, thiếu niên lấy 10 sinh thì 9 tử, dù đến trưởng thành cũng không thượng thọ.

Nói thêm ngũ hành sinh vượng thì khí đầy đủ, khí đầy thì trường thọ; ngũ hành tử tuyệt thì khí mỏng, khí mỏng thì đoản thọ mà yểu mệnh.

Phàm can chi tháng, ngày, giờ rối loạn mà thấy Thái Tuế nặng, lại nói Tinh sao là chủ yếu, là chủ làm con thừa tự, sống nhờ làm con nuôi. Mới sinh hoặc Thực Thần gặp lại nhiều lần, hoặc có Thiên Ấn quá vượng, đều là chủ không có sinh. Phạm 5 Dương Nhận, nói là Nhận đầy bàn (cục). Dưỡng nhiều mà không thành, giờ lại mang hình hại thì nhất quyết phải chết. Nữ nhi hơi chậm, cuối cùng cũng không miễn sản hậu mà chết. Giờ sinh thấy Quan Phù, cha có tranh cải việc công, mẹ gặp việc kinh sợ; trùng hợp có Hàm Trì thì bản thân không được cha mẹ dưỡng dục, hoặc không phải chỗ do mẹ chính sinh ra; nếu thấy Không Vong nhiều lần thì chủ gặp bệnh điên mà mất, khắc cha mẹ. Bình thường suy luận Tiểu Nhi đúng sai, mệnh thấy Cô Thần, Quả Túc, di chuyển nhiều phòng, khác chỗ ở, xu thế không được khí xoay chuyển, trẻ lại cách ly cha mẹ. Như Canh Thìn là kim thấy Kỷ Tị là hỏa, khí kim xoay chuyển theo 12 chi, thì có hỏa ngăn chặn, cho nên khí không xoay chuyển. Còn lại dựa vào chỗ này suy ra.

Hoặc hỏi: Nếu cùng một mẹ mà sinh đôi, cùng chỗ sinh thì làm sao phân biệt được sang hèn hay giàu nghèo?
Đáp nói: Phàm một giờ có tám khắc mười hai phân, cho nên có nông sâu, trước sau, cát hung không giống nhau. Có đồng thời chỗ sinh cùng một mẹ, nhưng cần phân biệt nông sâu và ngày giờ âm hay dương. Như ngày giờ là dương thì anh thắng; ngày giờ âm thì em thắng. Nông thì chiếm trước khí giờ, Sâu thì chiếm sau khí giờ.

Cổ ca nói:
Phép xem song sinh có khác thường,
Muốn nghiệm giàu nghèo là thần nhật;
Âm nhật em cường anh tất nhược,
Dương nhật anh quý em tất nghèo.

Lại có một thuyết nói: Số một là xem phương hướng, như mệnh mộc ở hướng Đông phương có thể thụ sinh khí, hướng Tây phương có thể thụ khắc sinh, sang hèn, thọ yểu lấy để phân biệt. Ngoài ra còn thấy, Vương Thị Tam Hà nói: Anh em song sinh, em ra trước, anh ra sau, công danh, thọ, yểu, nói chung tỷ lệ là như nhau, mà anh lại không giống em. Lý Thị Dĩnh Châu nói: Anh em song sinh, bởi vì có chút khác nhau, cho nên khoa đệ đăng giáp, anh chỉ là Tú tài.
Khảo sát bát tự, quả như tiền thuyết.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Luận Lục Thân
Hoặc hỏi: Âm dương vì sao phối hợp thành vợ chồng mà thành lục thân?
Đáp rằng: Như Giáp lấy Ất là em gái, hợp với Canh kim mà làm vợ; Bính lấy Đinh là em gái, phối hợp với Nhâm thủy mà làm vợ; Mậu lấy Kỷ phối với Giáp; Canh lấy Tân phối với Bính; Nhâm lấy Quý phối với Mậu, một âm một dương phối hợp thành vợ chồng, có vợ chồng thì đương nhiên về sau sẽ có con, có con đương nhiên về sau lại có anh em. Lục thân là cha mẹ, anh em, vợ con vậy. Lục Giáp lấy Kỷ làm vợ, Giáp Kỷ hợp mà sinh Canh Tân là con. Nam lấy khắc can làm con, nữ lấy can sinh làm con, thì Kỷ là mẹ của Canh Tân, Giáp là cha, Kỷ là mẹ, cho nên nói can âm sinh ra ta là mẹ, ta khắc can dương là cha, khắc ta là Quan là con, ta khắc là Tài là vợ, Tỉ hòa là anh em chị em, can âm sinh ra vợ ta là mẹ vợ, vợ khắc can dương là bố vợ, khắc con gái ta là chàng rễ, Thực Thần là cháu, lục thân còn lại đều ở thập can biến hóa mà dùng.

Như người sinh Lục Giáp, lấy Quý thủy là mẹ, Quý là Chính Ấn, như gặp Kỷ thổ là Chính Tài; Mậu thổ là cha ( là do Mậu hợp với Quý vậy ), Mậu là Thiên Tài, như gặp Tỉ Kiếp, thì cha bị tổn thương. Người sinh Lục Ất cũng lấy Quý là mẹ, Quý là Thiên Ấn; lấy Mậu là cha, Mậu là Chính Tài. Giáp Ất đều lấy Canh Tân là con, Canh kim là Nam, ở Giáp thì là Thất Sát, ở Ất thì là Chính Quan vậy; Tân kim là nữ, ở Ất thì là Thất Sát, ở Giáp thì là Chính Quan vậy. Kỷ thổ là vợ, Mậu thổ là thiếp, nói Ất mộc khắc Kỷ thổ vậy.

Tuy nói Âm thấy Âm không thành phối hợp, nhưng âm mộc khắc không được dương thổ, mà phụ nữ lấy âm là chính vậy, cho nên nói Giáp Ất đều lấy Kỷ làm vợ, Mậu làm thiếp. Như nữ nhân thì Giáp gặp Canh là Thất Sát, Ất gặp Canh là Chính Quan, đều là Phu tinh vậy. Nói Canh là dương nam là chính phu, thuộc dương không có thể lấy Tân âm làm chồng vậy, nhưng mà dương thấy dương nhiều là không có tình, âm thấy dương thì rõ ràng vợ chồng là hòa hợp.

Hoặc nói: Lấy Chính Tài là vợ, Thiên Tài là thiếp; nữ Giáp thì lấy Tân làm chính phu, lấy âm dương là chính hợp vậy. Người sinh Giáp Ất đều lấy Giáp là anh chị, Ất là em trai em gái, lấy Đinh là bà, sinh cha ta là tổ mẫu, là Đinh sinh Mậu vậy. Nhâm thủy là ông, vì Nhâm cùng Đinh hợp. Lại lấy Đinh hỏa là mẹ vợ, sinh ra vợ ta là mẹ vợ, Đinh sinh Kỷ phối cùng Giáp làm vợ chính vậy. Nhâm là cha vợ, vì Nhâm hợp cùng với Đinh vậy.

Anh em vợ là anh em trai. Như Kỷ thổ là vợ, Mậu thổ là anh em trai vợ. Quý thủy là vợ của anh em trai là mợ vậy. 8 thiên can còn lại đều theo như vậy mà suy ra.

Nữ nhân thủ dụng cùng với nam thì không giống nhau, ta sinh ra là con, khắc ta là chồng, sinh ra chồng của ta là mẹ chồng, khắc mẹ chồng là cha chồng, còn lại như cha mẹ anh em đều đoán giống như nam, nhưng cần phân biệt âm dương mà thôi, như can Giáp Ất thì lấy Bính là con trai, Đinh là con gái, Canh là chồng, Tân là anh em chồng, Kỷ là mẹ chồng, Giáp là cha chồng vậy.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Kinh nói: Lấy năm là cung tổ nghiệp, lấy tháng là cung cha mẹ anh em là môn hộ, lấy ngày là bản thân và cung thê thiếp, giờ là cung con cái.
Phải xem trong tứ trụ Tinh sao của cha mẹ, anh em con cái ở đâu? Luận vượng tướng hưu tù mà nói cát hung. Như sao phụ mẫu tọa đất trường sinh, vượng, khố, lộc, mã, quý nhân, thì chủ phụ mẫu phú quý, phúc thọ vinh tốt; như tọa đất Không vong, hình, khắc, sát, tử, vong, suy, bại, cùng giao nhau, thì chủ phụ mẫu nghèo nàn, phá thương, hình yểu, hoặc chết ở bên ngoài và cuối cùng là không tốt; nếu mang hình, mang phá hại, tuy là nơi ở đất sinh vượng khố, cũng chủ cha mẹ có thọ mà nghèo hèn. Sao Huynh đệ nếu được sinh được thời được lệnh, tọa đất trường sinh khố vượng, lộc mã, quý nhân, thì chủ huynh đệ phú quý vinh hoa thành đạt; như tọa đất hình khắc, Sát Nhận, tử tuyệt suy bại, thì anh em không đắc lực; như tọa đất trường sinh vượng khố mà gặp hình xung phá hại thì tuy là có anh em mà thù hận cùng không đắc lực. Như sao thê thiếp tọa đất sinh vượng khố, lộc mã, quý nhân, hoặc được sinh thì chủ thê thiếp phú quý, vinh hoa, đẹp đẽ mà nhiều tài năng; như tọa đất Không, hình khắc, Sát Dương Nhận, tử tuyệt xung bại, thì chủ thê thiếp nghèo nàn, xấu xí mà hình yểu, dâm loạn, tàn tật hoặc không sinh đẻ, không đắc lực; như tọa đất sinh vượng, lộc mã, bị hình xung, khắc, Sát, vợ tuy có thọ mà cũng gặp phá tương, nghèo nàn.
Như sao Tử tức tọa đất sinh vượng, lộc mã, quý nhân, quan ấn, có lấy tương sinh, thì chủ con cháu vinh hoa, thông minh, được nhiều người tiễn đưa lúc về già; như tọa đất lộc mã, quý nhân ở nơi đất tử tuyệt, tuy có thông minh tuấn tú, nhưng về già không có người tiễn đưa. Như ở đất sinh vượng bị hình xung phá hại, có con cũng chủ ngu đần hoặc tàn tật đến già; như ở tử tuyệt lại gặp hình xung phá hại Kiếp tài, không có con , mà có con cũng chủ tàn tật, phá tương hoặc bất tài.
Nữ mệnh như sao con cái ở đất sinh vượng, chủ nhiều con; như tọa lộc mã, quý nhân, chủ con có phú quý mà phúc thọ; như tọa đất không vong, hình khắc, Sát cùng xung Dương Nhận, tử tuyệt thì chủ con cái không đắc lực.

Hỏi: Nhật chủ Giáp Ất lấy Mậu Quý là phụ mẫu, can chi tứ trụ không có Quý thủy, chỉ có Mậu Nhâm hai chữ hiển lộ ở can đầu, hoặc tàng ở địa chi, thì làm sao luận phụ mẫu?
Đáp: Vốn là kinh sách nói có can rõ (Minh can) thì lấy can rõ, không có can rõ (Ám can ) thì tìm ẩn tàng vậy. Như trụ không có chữ Quý chỉ có chữ Mậu là cha của Giáp Ất, lấy cha để tìm lấy mẹ, như không có mẹ chỉ có mang Nhâm là mẹ, luận cũng cần lấy Mậu là cha. Mậu Nhâm không phải thuộc phối hôn, không phải nam nữ lấy nhau, nhất định là bên trong bị kết hôn, hoặc mẹ nhiều tuổi hơn cha, hoặc lỡ cưới xin mà tiếp tục kết duyên vậy.

Hỏi: Nhật chủ là Giáp, chi năm chi tháng là Ất mộc, chi giờ là Giáp mộc, Ất trước Giáp sau, thì ai là huynh? Ai là đệ?
Đáp rằng: Bất kể trước hay sau, chỉ lấy cường là huynh, nhược là đệ. Nói người sinh ra, trên là phụ mẫu, dưới là vợ con, giữa là huynh đệ, liên kết hợp tan, là mệnh vậy. Nói mệnh không đủ lục thân, tất nhiên là phiến diện.

Phú nói: Năm gặp Nhận Sát, thiếu niên sớm mất cha mẹ; giờ gặp Nhận Thương, vị niên lại làm tổn thương con cháu. Xung thì không có huynh đệ, Hình thì tổn hại lục thân. Năm tháng có đủ Quan Tài Ấn, tổ tiên ba đời phú quý; ngày giờ có Sát Nhận lại gặp Kiêu, nửa đường vợ con hao tổn. Nam mệnh có Thương Quan nhiều thì thương tổn con cái, Nữ mệnh có Thương Quan nhiều thì khắc phu; Thương Quan thấy Tài mà có con, Thất Sát có chế thì có nhiều con. Tài nặng thì hình thương phụ mẫu, Quỷ vượng thì đời sau con cháu xa rời quang vinh; Kiếp tài trọng nặng thì sớm có tang cha, phá Ấn thái trọng thì mẹ mất sớm. Năm, tháng có Tài Quan vượng tướng, đời ông cha hiển vinh; ngày, giờ có Lộc Mã tương sinh, thì vợ con hiền mà anh tuấn. Ấn phục tàng mà Tài nắm lệnh, sinh gian nhiều thiếp; Chính Tài vượng mà bản thân thất thời, thì sớm tang mẹ. Thiên Quan, Thiên Ấn, Thiên Tài gặp nhiều, nhất định là thiên về thiếp; chỉ gặp Chính Quan, Chính Ấn, Chính Tài, chính là nam trưởng họ. Trong tháng Kiếp nghịch Tài Quan tuyệt, cha chết bên ngoài quê hương; năm, tháng nghịch đuổi lại thêm gặp xung hại, ông chôn nơi quê người. Ngày gặp Nhận, giờ gặp Kiêu, thê thiếp vong sản; năm gặp Sát, tháng gặp Thương, khó có huynh đệ. Nguyệt lệnh có Thương Quan nhiều thì cướp trưởng, giờ hành thần sát không có huynh đệ. Nam mệnh có chữ Kiếp nhiều thì mong có vợ bé, Nữ mệnh có Sát nặng thì cốt nhục không còn. Ấn vượng làm trở ngại con cái, Tài nặng hay đố kỵ với cha mẹ chồng. Năm tháng nhiều Sát có hình hại, tổn thương cha mẹ chồng; ngày giờ bối trục mà không có cứu trợ, khắc rời vợ con. Chính Tài, Thiên Tài lại thấy hợp, dù nhiều thê thiếp cũng chủ lạm dâm; Thiên Quan, Chính Quan thêm xung hại, cho dù có chồng vẫn lén gian dâm. Vượng phu hại tử, là do Thực thần thụ thương; Vượng tử hại phu, là do Sát Quan tinh tang tuyệt. Nữ mệnh có Ấn vượng Quan khinh, thì đoạt quyền chồng; Nam mệnh Tài đa thân nhược, tâm sợ vợ nói. Ở dưới ngày có Thương Quan giữ Nhận, chồng tất ác vong; trong tháng mang Ấn hình xung, nhà mẹ suy tàn. Nhận cường Sát khoẻ, mồ tổ suy bạc; Quan cường Tài vượng, đời sau vinh xương, ngày gặp Bối Lộc Trục Mã, đa số là phá hại tổ tiên mà ly hương nơi đất khách quê người; giờ gặp Tài vượng sinh Quan, nam có hưng gia trợ quốc.

Tháng gặp Sát Nhận, có cha không có mẹ. Thiên Quan trùng điệp, sinh nữ nhiều nam ít; Thiên Tài ẩn gặp, ít yêu vợ chính mà yêu vợ lẻ nhiều. Tài nguyên đắc địa, theo vợ lập gia mà giàu có, bị vợ đè ép mà có được; Quan vị lâm viên, bản thân vinh hiển mà chấn hưng tổ nghiệp, mà nam cũng cần phải hưng vượng. Tháng có Quan Ấn, năm có Thương Quan, cha hưng thịnh mà tổ tiên suy; ngày có Tài vị, giờ có Kiếp tài, cha hưng thịnh mà con bại. Tỉ Kiếp nặng, thì hôn nhân nhất định chậm, Quan tinh sinh thì tất có sớm. Nam gặp Thương Quan, Dương Nhận, gặp Quan Sát, không thể đoán bản thân không có con cháu; Nữ mệnh có Thương Quan, Kiêu Ấn, hành Tài Quan, cũng không thể quyết là có con cháu. Người gặp Thực nặng, Quan khinh là Phu suy Tử vượng. Nam mệnh có Sát vượng gặp Tỉ Kiếp, có anh mà không có em; thái quá hoặc bất cập, thì huynh đệ đều không có. Vị trí Khố trung hòa đồng khí, chủ có Sát sinh vượng mà Quan bại tuyệt, con gái mạnh mà con trai suy. Tài Quan vượng thân chủ hưu, gia đình chồng hưng thịnh mà mất nhà tổ. Nữ có Tỉ Kiếp quá nhiều, nuôi chồng có vợ mất; Nam tử có Tài thắng Kiếp nặng, tư tưởng trong lòng vợ có nhiều ham muốn dục vọng. Năm tháng có Ấn thụ tương sinh, có nhận được sản nghiệp; ngày giờ có Thương Quan thương tận, phát sinh bất nghĩa vì tham của cải bất chính. Can năm có Quan tinh, tổ phụ làm quan; can tháng có Quan tinh, huynh đệ nhất định quý. Nam gặp Tỉ Kiếp thì nhất định tổn thương vợ, Nữ nhập Ấn Kiêu khó có con cháu. Dương Nhận gặp Thương Quan, Thất Sát, cốt nhục thân hữu bị tổn thương tình cảm; tam hợp, lục hợp tương hòa, bằng hữu tốt khắp ngũ hồ tứ hải.

Lại nói: Thông thường suy ra lục thân, nam mệnh lấy năm là cha, Thai là mẹ, tháng là huynh đệ, quan chức lấy tháng là bạn bè đồng chức, ngày là bản thân là thê thiếp, giờ là con cháu, quan chức lấy giờ là Đế Tọa họa phúc. Thông thường ngày sinh là Tý Ngọ Mão Dậu, chủ lấy mệnh vợ là Tý Ngọ Mão Dậu, nếu vợ sinh Thân Tý Thìn, sinh Sửu, sinh Giáp Kỷ, đều là không lâu dài. Như khắc quá mức thì vợ tái giá, chỗ này không giới hạn. Phàm mệnh bên trong tứ trụ có ta khắc là thê, không có ta khắc, danh viết là trong cục không có vợ, lại xem chỗ ngày sinh ở đất nào? Như ở đất Tài vượng thì có vợ đắc lực. Lại mang theo Quý nhân, Lộc Mã, năm chủ vợ mang Quan lấy chồng. Nếu lúc ở bản mệnh có Tài ở xứ tử mộ tuyệt bại, định chủ khắc hãm, hoặc cả đời góa vợ. Nếu nhật lộc lại thấy ở trụ giờ, như ngày Lục Bính được giờ Quý Tị, ngày Lục Nhâm được giờ Tân Hợi, danh viết là Dự Sát, không những chủ phú, cũng chủ nhờ vợ mà có Quan. Nếu ngày mang năm có Quan, hoặc năm có Ấn, chủ vợ đoạt quyền chồng, hoặc là nhờ vợ, hoặc vợ thuộc gia đình quyền quý, hoặc chồng là Phò Mã vợ là Quận Chúa. Ngày tọa mệnh Tài, lại ở đất Tài sinh vượng, chủ được vợ tài năng, lại chủ có vợ hiền minh. Ngày tọa Quý nhân, chủ vợ có gia đình danh tiếng, hoặc hiền thục xinh đẹp. Nếu mệnh mang Nhật Hình, ngày mang năm xung phá năm, Dương Nhận, Kiếp Sát, Lục ách, Nguyên Thần, Không Vong, hoặc cưới ba bốn lần, hoặc không có vợ.

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
Định phụ nữ mang thai sinh nam hay nữ
Quyết viết:
Số tuổi Phụ Mẫu an hai đầu,
Trong tháng thụ thai xếp ở giữa;
Càn Khảm Cấn Chấn là nam nhi,
Tốn Ly Khôn Đoài đều là nữ.

Giả như tuổi cha mẹ đều chẵn là hai hào gãy ( - - ), tháng thụ thai lẻ là một hào đơn (―), thành quẻ Khảm (☵), định là nam; tuổi cha mẹ đều là đơn, tháng thụ thai chẵn gọi là Sách, thành quẻ Ly (☲), định là nữ. Trên là tuổi cha, dưới là tuổi mẹ, ở giữa là tháng mang thai, xếp thành một quẻ, còn lại cứ loại suy.

Lại có một phép: Lấy số Đại Diễn mà suy.
Quyết viết:
Bảy lần bảy bốn chín,
Hỏi mẹ có tháng nào;
Lại chia năm sinh mẹ,
Đơn lẻ đôi là chẵn;
Chẵn lẻ nếu bất thường,
Mệnh thọ không lâu dài.

Giả như trước bàn tính dưới số 49, thì cộng thêm số tháng mẹ thụ thai, tổng cộng có bao nhiêu số. Nếu thai gặp tháng giêng, là số 50, trừ đi mẹ 31 tuổi, số dư là 19, 9 là lẻ, số lẻ là nam. Nếu lẻ sinh nữ, chẵn sinh nam, chủ chết yểu.

(Hết quyển 7)

18.4.2016

descriptionQuyển 7 - Nhân sự  EmptyRe: Quyển 7 - Nhân sự

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết