KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionChương 12. Bát Cách EmptyChương 12. Bát Cách

more_horiz
Chương 12. Bát Cách

Tài Quan Ấn thụ phát thiên chính,
Kiêm luận Thực Thương bát cách định.

Nguyên chú:
Ngoại trừ xem từ hình tượng khí cục, thì cách là đứng đầu. Cách chân, là thần ở chi tháng thấu ra thiên can vậy. Thiên can đã tán loạn, mà tìm được chỗ phụ với đề cương, là không phải cách vậy. Ngoại trừ từ bát cách, như Khúc Trực ngũ cách đều là cách, còn phương cục đã định khí tượng, không thể nói là cách vậy. Ngoại trừ ngũ cách, Phi Thiên hợp Lộc tuy là cách, mà có thể lấy luận phá hại hình xung, cũng không thể nói là cách vậy.

Nhâm thị viết: Bát cách, là chính lý ở trong mệnh vậy. Trước tiên xem chỗ nguyệt lệnh được chi gì, sau xem thiên can thấu ra thần nào, lại nghiên cứu thần nắm lệnh để định chân giả, sau đó là thủ dụng, để phân thanh trọc, thực tế chỗ này là dựa theo kinh mà thuận lý. Nếu tháng gặp Lộc Nhận, không có cách thích hợp, cần phải xem xét nhật chủ hỉ kỵ tìm ở chi khác thấu ra thiên can, mượn để làm dụng thần. Nhưng cách cục có chính, có biến. Chính tức là bao gồm ngũ hành bình thường vậy. Như nói Quan Ấn, Sát Ấn, Tài Sát, Thực thần chế Sát, Thực thần sinh Tài, Thương quan bội Ấn, Thương Quan sinh Tài; Biến, nhất định phải theo khí thế ngũ hành, nói Tòng Tài, Tòng Quan Sát, Tòng Thực Thương, Tòng Vượng, Tòng Nhược, Tòng Thế, Nhất hành đắc khí, Lưỡng khí thành hình; còn lại kỳ cách dị cục đều không theo ngũ hành chính lý, chỉ là lời nói sai lầm. Đến như “Lan Đài diệu tuyển”, định kỳ cách dị cục, phép đa số là nạp âm, không cần phải biện giải cũng biết là hoang đường vậy. Từ thời Đường Tống đến nay, quá nhiều tác giả, đều luận trống không. Lại có thần sát cát hung, không biết khởi từ người nào, làm lời nói nguy hiểm, luôn hoàn toàn không có ứng nghiệm, đúng như 〈Thiên Kim phú 〉nói: "Cát hung Thần Sát đa đoan, một lý sinh khắc chế hóa ra sao". Nói tóm gọn lại, như ngày Nhâm Thìn là “Vương kỵ Long bối”, Nhâm Dần là “Vương kỵ Hổ bối”sao không có lấy Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Tý cưỡi lưng Khỉ, Ngựa, Chuột, Chó ư? Lại như ngày Lúc Tân gặp giờ Tý, gọi là “Lục âm triều dương”, nói ngũ âm đều là âm, sao đọc Tân kim có thể triều dương, còn lại là không thể triều dương sao? Mà Tý là thể dương dụng âm, trong Tý có Quý thủy, rất là lục âm, sao nói là dương hả? Lại như ngày Lục Ất gặp giờ Tý, gọi là “Thử quý cách” , nói chuột là hao tổn vậy, sao nói là quý chứ? Mà thập can quý, chi giờ đều có, sao can khác không thể có quý ư? Không cần suy luận cũng biết là sai lầm. Nhiều cách khác còn sai vô số kể, cách ly không nhận, học giả cần nên nghiên cứu kĩ cách ngũ hành chính lý, không nên nghe theo sách vở sai lầm mà làm mê hoặc lòng người.

Canh Thìn - Quý Mùi - Ất Mùi - Quý Mùi
Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu
Mệnh này được 3 Mùi thông căn, còn có dư khí, đúng là Tam phục sinh hàn (mùa nóng sinh hàn lạnh), kề thân sinh phù, cũng thông căn thân khố. Quan tinh độc phát mà thanh, Quý thủy nhuận thổ dưỡng kim, sinh hóa không nghịch, Tài vượng sinh Quan, trung hòa thuần túy. Xuất thân khoa giáp, làm quan Bố Chính, cảnh quan an bình.

Kỷ Sửu - Nhâm Thân - Đinh Mùi - Bính Ngọ
Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần
Mệnh này lấy chiều hướng xem, mệnh trên thì Quan được rõ ràng, lại phú quý, còn mệnh này thì lại khốn cùng? Chẳng biết rằng mệnh này không có Ấn, Quan kề khắc nhật chủ, Ngọ Mùi tuy là dư khí lộc vượng, trong Sửu chứa thủy, ám thương hỏa Ngọ Mùi, Nhâm thủy phùng sinh, lại khắc Bính hỏa, đáng ngại Kỷ thổ nhất thấu, không thể chế thủy, ngược lại làm mờ hỏa; lại kiêm trung vận gặp thổ, tiết hỏa khí, gọi là Khắc Tiết giao gia. Bởi vì công danh không thành, tài hao phá tán, không khỏi hình thê khắc tử. Nghiên cứu kỹ thấy hai chữ Kỷ Sửu thật tai hại, may mà cách cục thuần chính, khí tượng không thiên, về sau gặp đến vận thủy mộc, tuy là trước đây ưu ức, nhưng cuối cùng về sau phấn chấn thuận lợi.

Quý Mùi - Ất Mão - Bính Ngọ - Tân Mão
Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ dậu
Mệnh này Quan thanh Ấn chính cách, hỉ Mão Mùi củng mộc, tượng thuần túy. Cho nên là người có nhân phẩm siêu quần, tài hoa trác tuyệt, văn vọng cao như núi bắc đẩu, phẩm hạnh như kim tinh ngọc tốt. Đặc biệt Ấn tinh thái trọng, Quan tinh tiết khí, Thần có dư mà Tinh không đủ, dẫn đến công danh lận đận, dẫu có chí hướng trên cao, công danh khó thành, may là cách chính cục thanh, Tài tinh gặp hợp, mặc dù không biết dụng tài, kết quả danh lợi song toàn, làm quan thanh cao.

Tân Mão - Bính Thân - Quý Mão - Nhâm Tuất
Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần
Mệnh này Ấn thụ cách, lấy Thân kim làm dụng thần, lấy Bính hỏa là bệnh, lấy Nhâm thủy là dược, trung hòa thuần túy, mùa thu thủy thông nguyên. Đến vận Quý Tị, kim thủy phùng sinh được trợ, bước lên khoa Giáp; vận Nhâm Thìn vận bệnh dược cùng có, từ thuộc hạ lên là quận trưởng; Bởi do Tân Mão, Canh Dần cái đầu, gặp kim vòng Ấn không thể sinh hỏa, danh lợi song toàn vậy.

Tân Mão - Bính Thân - Quý Mão - Giáp Dần
Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần
Mệnh này cũng lấy Thân kim làm dụng thần, lấy Bính hỏa là bệnh, cùng mệnh trên chỉ đổi một chữ Dần, không những có bệnh mà không có dược, mà còn sinh trợ bệnh thần. Mệnh trên thì thanh chọn bạc tiền, danh lợi song toàn, còn mệnh này thì khung cửi cũng không có, há miệng mà chờ sung rụng. Lại sợ Dần Thân xung xa, Mão mộc trợ giúp, Ấn thụ lại thụ thương, là mộc vượng kim khuyết, còn can tháng chính là vị trí lục thân, khó tránh bị chia lìa, tiền tài hao tán. Nhâm vận bang thân khử bệnh, tài nguyên hơi có dư; Tân Mão, Canh Dần thuộc phương Đông, kim vô căn, công danh không thể tiến thủ, gia nghiệp chỉ là bậc thường. Nhưng cách chính cục thanh, Ấn tinh nắm lệnh, cho nên tư tưởng phóng khoáng, văn chương tài hoa, hồn như văn chương Tư Mã. Chỉ lo tháng thấu Bình dương, khó tránh châu chìm biển cả, chẳng lẽ là mệnh vậy.

Bởi vậy xem số mệnh, cách cục không thể luận cố chấp vậy, không câu nệ các cách Tài Quan Ấn, cùng không liên quan nhật chủ. Vượng thì nên ức, suy thì nên phù, Ấn vượng tiết Quan cần Tài tinh, Ấn suy phùng Tài cần Tỉ Kiếp, chỗ này là phép bất dịch vậy.

descriptionChương 12. Bát Cách EmptyRe: Chương 12. Bát Cách

more_horiz
Ảnh hưởng Diêu hệ đã là hư,
Tạp khí Tài Quan không thể buộc.

Nguyên chú:
Loại Phi Thiên hợp Lộc, cho nên ảnh hưởng là Diêu hệ mà không phải cách vậy. Như người sinh tháng tứ quý, chỉ cần lấy thổ làm cách, không thể nói là Tạp khí Tài Quan; sinh ngày Mậu Kỷ ở tháng tứ quý, cần xem nhân nguyên thấu ra thiên can là thủ cách, không thể đồng loạy lấy Tạp khí Tài Quan mà luận; về phần tháng Kiến Lộc động Mùi không thể là Nhận, cũng nên xem nhân nguyên ở trong nguyệt lệnh thấu ra ở thiên can là thủ cách, nếu không hợp khí tượng hình cục, thì lại không có cách vậy. Chỉ thủ dụng thần, dụng thần lại không có chỗ lấy, chỉ được xem xu thế, lấy ở trên bề mặt mà đoán cùng thông. Không thể nắm cách mà luận vậy.

Nhâm thị viết: Ảnh hưởng Diêu hệ, tức là cách ám xung ám hợp. Chỗ tục thư gọi là Phi thiên Lộc Mã cách vậy. Như ngày Bính Ngọ, chi đủ 3 Ngọ, ngày Quý Dậu chi đủ 3 Dậu, gặp 3 thì xung, Ngọ đi ám xung Tý thủy là Quan, Dậu đi ám hợp Thìn thổ là Quan. Còn có xung Tài hợp Tài, như ngày Nhâm Tý chi đủ 3 Tý, ám xung Ngọ hỏa là Tài; ngày Ất Mão chi có 3 Mão, ám hợp Tuất thổ là Tài. Lại nói, trước yêu cầu tứ trụ không có Tài Quan, là đúng mới có thể xung hợp. Nói về xung, là tán vậ; Hợp là hóa vậy. Sao có thể là chỗ ta sử dụng chứ? Tứ trụ nguyên có Tài Quan, không nên xung hợp, còn có hỉ và không hỉ, huống chi tứ trụ không có Tài Quan ư ? Về phần tạp khí Tài Quan, cũng vẽ rắn thêm chân. Thìn Tuất Sửu Mùi, chẳng qua chi tàng 3 can, đều là tạp khí; Dần Thân Tị Hợi, cũng có 3 can, tai sao không luận ? Nói dư khí trong khố, có thể là cách nói, thần sinh địa, chẳng lẽ lại bỏ? Lại nói tạp khí Tài Quan xung là cát, thật là xuyên tạc. Nếu Giáp mộc sinh tháng Sửu, là tạp khí Tài Quan, hỉ Mùi xung, trong Mùi tàng Đinh hỏa, khắc thương Quan tinh Tân kim ở trong Sửu, là phá cách vậy, các chi còn lại đều như vậy, không bằng thấu ra thiên can thủ cách là đúng. Chỗ nhiều sách có ghi lại, Lộc phân ra làm 4 loại:

+ Năm là Bối lộc,
+ Tháng là Kiến lộc,
+ Ngày là Chuyên lộc,
+ Giờ là Quy lộc.

Lại nói Kiến Lộc hỉ Quan tinh, Quy lộc kỵ Quan tinh, thì lại quên đi Bối lộc và Chuyên lộc vậy. Lại nói Nhật lộc quy thời một Quan tinh, nói là Thanh vân đắc lộ, đúng như chỗ luận, thì người sinh hai ngày Bính Tân, gặp giờ Quý Tị Đinh Dậu, thì sẽ không có đi học hoặc làm quan sao? Chẳng qua nhật can Tỉ kiên vượng địa vậy, không thể nhận làm nói cách Thực lộc là vương gia, thì thần tứ trụ, lại cùng khắc thân, đã có lộc trong trụ là đẹp, sao được vận gặp chi lộc lại là lộc đường mà cửa nát nhà tan chứ ? Mệnh triệt để căn nguyên, tự xác đáng vậy. Nói chung, cách cục chân thực mà thuần túy, trăm không có một hai, phá hư và tạp khí, 10 có 8, 9, không có cách để lấy là rất nhiều, không thể tìm ra dụng là không ít. Cách chính dụng chân, hành vận không nghịch, tự nhiên có danh lợi; cách bị phá dụng bị tổn, gọi là có bệnh, lo nhiều mà vui ít. Nhưng được chỗ hành vận, khử vật phá hư, thần phù hỉ dụng, giống như con người nhiễm bệnh trầm kha, được thầy thuốc giỏi cứu chữa, thì không phú cũng quý. Không có cách để thủ, không có thể tìm dụng, chỉ có thể xem xu thế, cùng chỗ hướng về nhật chủ, vận đồ có thể bổ túc chỗ hỉ, khử đi chỗ kị, tuy cuộc sống bình thường, cũng có thể tránh họa cơ hàn. Như hành vận lại không có chỗ thủ, thì không bần cũng tiện. Nếu cách chính dụng chân, vận hành bội phản, trọn đời có chí mà khó an thân vậy.

Kỷ Tị - Canh Ngọ - Bính Ngọ - Giáp Ngọ
Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý
Theo tục luận mệnh này, ngày Bính Ngọ, chi đủ 3 Ngọ, tứ trụ không có thủy, trung niên cũng không gặp vận thủy, cho là Phi thiên Lộc Mã, danh lợi song huy, chẳng biết rằng mệnh này Ngọ tàng Kỷ thổ, Tị tàng Canh kim, nguyên thần thấu xuất can năm, can tháng, là chân hỏa thổ Thương quan sinh Tài cách. Sơ vận Kỷ Tị, Mậu Thìn, hối hỏa sinh kim, gia nghiệp thịnh vượng; Đinh Mão, Bính Dần, thổ kim hỉ dụng đều bị thương, liên tục gặp ba lần hồi lộc, lại khắc hai vợ bốn con, gia nghiệp tiêu tan; đến Ất Sửu vận, phương Bắc thấp thổ, hối hỏa sinh kim, lại hợp hóa hữu tình, kinh doanh thu nhiều lợi, nạp thiếp sinh con, trùng chấn gia phong; vận Giáp Tý, Quý Hợi phương Bắc, thủy địa nhuận thổ dưỡng kim, phát tài hàng vạn. Nếu luận Phi thiên hợp lộc, thì tối kỵ thủy vận vậy!

Đinh Sửu - Quý Mão - Ất Mão - Kỷ Mão
Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu
Ngày Ất Mão, sinh tháng Mão giờ Mão, là cực vượng vậy. Hỉ nhất độc phát Đinh hỏa, tiết kỳ tinh anh. Tiếc là Quý thủy khắc Đinh, làm tổn thương quý khí, can giờ Kỷ thổ lâm tuyệt địa, không thể khắc chế Quý thủy, do không tiếp tục thi Hương, sơ trung vận gặp đất thủy mộc, hình tang phá háo, gia nghiệp tiêu dần; vận Mậu Tuất, Đinh, kinh doanh thành công lớn, phát tài cự vạn, nếu luận Phi thiên Lộc Mã cách, thì vận Mậu Tuất là đại phá vậy.

Đinh Mùi - Quý Sửu - Giáp Thìn - Giáp Tuất
Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi
Mệnh này chi toàn tứ khố xung nhau, theo tục luận là Tạp khí Tài Quan vậy. Không biết rằng Sửu Mùi xung nhau, không những Quan tinh thụ thương, mà còn xung mất khố căn; nhật chủ tọa Thìn dư khí, cũng là bàn căn, càng sợ Tuất xung, khí Tị căn bé, là Tài đa thân nhược; mà thổ vượng càng xung càng vượng, thì Quý thủy tất phải thụ thương. Sơ vận Nhâm Tý, Tân Hợi, thủy vượng địa, phúc lộc cha mẹ có thừa; giao vận Canh Tuất, Tài Sát cùng vượng, hình thê khắc tử; vận Kỷ Dậu, Mậu Thân, can vận toàn thổ khắc thủy sinh kim, gia nghiệp tiêu tan, không con cái mà qua đời.

Đinh Hợi - Quý Sửu - Giáp Tý - Tân Mùi
Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi
Nhật nguyên Giáp Tý, sinh tháng Sửu, chi hội phương Bắc; thiên can Tân Quý, Quan Ấn nguyên thần phát lộ, khắc khử Đinh hỏa, Sửu Mùi cách xa; lại thế thủy thừa quyền, không thể xung Sửu, đúng được tượng trung hòa. Cho nên vận thổ kim thủy, được sinh hóa có tình, sớm vào tràng học cung vua, chiến thắng thi Hương. Chỉ vì cách cục thanh hàn, chỗ vị trí đường quan hiển chức, mà được hiển quý. Mệnh ở trên gặp xung, Quan Ấn đều thụ thương, danh lợi không thành, còn mệnh này thì không động, danh thành lợi toại. Có thể biết mộ khố gặp xung tất phát, là sai lầm vậy.

19.1.2015
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết