Chương 19. Nguyên Lưu
Căn nguyên khởi nơi nào?
Chảy đến phương nào dừng?
Mấu chốt cầu ở đây,
Biết đến cũng biết đi.
Nguyên chú: Chẳng cần luận nắm lệnh hay thất lệnh, chỉ luận lấy tối đa tối vượng, mà năng lực tổ tông có thỏa mãn cục, chính là Nguyên đầu vậy. Xem nguyên đầu chảy đến phương nào, nơi chảy tới, là chỗ hỉ thần, tức dừng ở đây, là thỏa đáng trở về. Như Tân Dậu - Quý Tị - Mậu Thân - Đinh Tị, lấy hỏa là nguyên đầu (đầu nguồn), chảy đến phương kim thủy là dừng, cho nên là đứng đầu phú quý, nếu lại chảy đến đất mộc, thì khí tiết là loạn. Như chưa chảy đến phương thuận lợi, giữa đường dù gặp trở ngại, xem thần nào gây trở ngại, để đoán tốt xấu, đất chảy ở đất nào, để biết địa vị. Như: Quý Sửu/ Nhâm Tuất/ Quý Sửu/ Nhâm Tý, lấy thổ là nguyên đầu, dừng ở phương thủy, chỉ sinh được một thân, mà khí hỏa thổ ở trong Tuất thổ, được dẫn trợ theo, cho nên là căm ghét vậy."
Nhâm thị viết: Nguyên thần, tức là vượng thần trong tứ trụ, bất luận Tài, Quan Ấn thụ, Thực Thương, Tỉ Kiếp, đều có thể là nguyên đầu vậy. Chung quy lưu thông sinh hóa, cục nhận được đẹp là tốt.
+ Hoặc khởi ở Tỉ Kiếp, dừng ở Tài Quan là hỉ;
+ Hoặc khởi ở Tài Quan, dừng ở Tỉ Kiếp là nhớ kỵ.
Giống như sơn xuyên phát mạch lai long, nhận khí ở tại đại phụ mẫu, xem tôn tinh. Nhận khí ở chân tử tức, xem chủ tinh. Nhận khí ở tại phương giao cấu, xem thai phục tinh. Nhận khí ở tại thành thai dục, xem thai tức tinh. Nhận khí ở tại hóa Sát vi quyền, xem giải tinh. Nhận khí ở tuyệt xứ phùng sinh, xem ân tinh. Lấy thế nhận nguyên khí, lấy tình nhận lưu khí. Cho nên đất nguyên đầu dừng chảy, tức là chỗ sơn xuyên kết huyệt vậy, không thể không nghiên cứu.
Chỗ nguyên đầu cản trở tiết khí, tức ý là lai long bị phá tổn đoạn tuyệt. Không thể không xem xét. Xem nguyên đầu chảy dừng ở đất nào, mà biết ai hưng ai thay. Xem thần nào cản trở, để luận lúc nào cát lúc nào hung.
+ Như nguyên đầu khởi ở năm tháng là Thực Ấn, ở trụ ngày giờ là Tài Quan, thì ở trên nhận được che chở của tổ tiên, dưới hưởng phúc con cháu;
+ Hoặc khởi phát tại năm tháng là quan, trong trụ ngày giờ là thương kiếp, tất tổ phụ rách nát, hình thê khắc tử. Nếu như khởi tại ngày giờ là tài quan, trong trụ năm tháng là thực ấn, tất trên tổ phụ vẻ vang, dưới con cháu tạo dựng sự nghiệp;
+ Hoặc khởi ở năm tháng là Quan, ở trụ ngày giờ là Thương Kiếp, thì phá bại tổ nghiệp, hình thê khắc tử. Như khởi ở ngày đúng là Tài Quan, ở trụ năm tháng là Thực Ấn, thì ở trên tổ tiên là vinh quang, ở dưới cùng con cháu lập nghiệp.
+ Hoặc khởi ở ngày giờ là Tài Quan, ở trụ năm tháng là Thương Kiếp, thì khó hưởng tổ nghiệp, tự nghĩ ra đổi mới. Trụ năm chảy là Quan Ấn, biết tổ thượng là thanh cao; là Thương Kiếp, thì biết tổ tiên nghèo hèn. Trụ tháng chảy là Tài Quan, cho biết cha mẹ lập nghiệp; là Thương động, biết cha mẹ là phá bại. Trụ ngày giờ là Tài Quan Thực Ấn, tất là tay trắng lập nghiệp, hoặc là vợ hiền con quý. Trụ ngày giờ chảy là Thương Kiếp Kiêu Nhận, tất vợ xấu con kém, hoặc là vì vợ mà gây họa, phá gia chịu nhục. Nhưng phải xem nhật chủ hỉ kỵ mà suy đoán, không lúc nào không nghiệm vậy.
Căn nguyên khởi nơi nào?
Chảy đến phương nào dừng?
Mấu chốt cầu ở đây,
Biết đến cũng biết đi.
Nguyên chú: Chẳng cần luận nắm lệnh hay thất lệnh, chỉ luận lấy tối đa tối vượng, mà năng lực tổ tông có thỏa mãn cục, chính là Nguyên đầu vậy. Xem nguyên đầu chảy đến phương nào, nơi chảy tới, là chỗ hỉ thần, tức dừng ở đây, là thỏa đáng trở về. Như Tân Dậu - Quý Tị - Mậu Thân - Đinh Tị, lấy hỏa là nguyên đầu (đầu nguồn), chảy đến phương kim thủy là dừng, cho nên là đứng đầu phú quý, nếu lại chảy đến đất mộc, thì khí tiết là loạn. Như chưa chảy đến phương thuận lợi, giữa đường dù gặp trở ngại, xem thần nào gây trở ngại, để đoán tốt xấu, đất chảy ở đất nào, để biết địa vị. Như: Quý Sửu/ Nhâm Tuất/ Quý Sửu/ Nhâm Tý, lấy thổ là nguyên đầu, dừng ở phương thủy, chỉ sinh được một thân, mà khí hỏa thổ ở trong Tuất thổ, được dẫn trợ theo, cho nên là căm ghét vậy."
Nhâm thị viết: Nguyên thần, tức là vượng thần trong tứ trụ, bất luận Tài, Quan Ấn thụ, Thực Thương, Tỉ Kiếp, đều có thể là nguyên đầu vậy. Chung quy lưu thông sinh hóa, cục nhận được đẹp là tốt.
+ Hoặc khởi ở Tỉ Kiếp, dừng ở Tài Quan là hỉ;
+ Hoặc khởi ở Tài Quan, dừng ở Tỉ Kiếp là nhớ kỵ.
Giống như sơn xuyên phát mạch lai long, nhận khí ở tại đại phụ mẫu, xem tôn tinh. Nhận khí ở chân tử tức, xem chủ tinh. Nhận khí ở tại phương giao cấu, xem thai phục tinh. Nhận khí ở tại thành thai dục, xem thai tức tinh. Nhận khí ở tại hóa Sát vi quyền, xem giải tinh. Nhận khí ở tuyệt xứ phùng sinh, xem ân tinh. Lấy thế nhận nguyên khí, lấy tình nhận lưu khí. Cho nên đất nguyên đầu dừng chảy, tức là chỗ sơn xuyên kết huyệt vậy, không thể không nghiên cứu.
Chỗ nguyên đầu cản trở tiết khí, tức ý là lai long bị phá tổn đoạn tuyệt. Không thể không xem xét. Xem nguyên đầu chảy dừng ở đất nào, mà biết ai hưng ai thay. Xem thần nào cản trở, để luận lúc nào cát lúc nào hung.
+ Như nguyên đầu khởi ở năm tháng là Thực Ấn, ở trụ ngày giờ là Tài Quan, thì ở trên nhận được che chở của tổ tiên, dưới hưởng phúc con cháu;
+ Hoặc khởi phát tại năm tháng là quan, trong trụ ngày giờ là thương kiếp, tất tổ phụ rách nát, hình thê khắc tử. Nếu như khởi tại ngày giờ là tài quan, trong trụ năm tháng là thực ấn, tất trên tổ phụ vẻ vang, dưới con cháu tạo dựng sự nghiệp;
+ Hoặc khởi ở năm tháng là Quan, ở trụ ngày giờ là Thương Kiếp, thì phá bại tổ nghiệp, hình thê khắc tử. Như khởi ở ngày đúng là Tài Quan, ở trụ năm tháng là Thực Ấn, thì ở trên tổ tiên là vinh quang, ở dưới cùng con cháu lập nghiệp.
+ Hoặc khởi ở ngày giờ là Tài Quan, ở trụ năm tháng là Thương Kiếp, thì khó hưởng tổ nghiệp, tự nghĩ ra đổi mới. Trụ năm chảy là Quan Ấn, biết tổ thượng là thanh cao; là Thương Kiếp, thì biết tổ tiên nghèo hèn. Trụ tháng chảy là Tài Quan, cho biết cha mẹ lập nghiệp; là Thương động, biết cha mẹ là phá bại. Trụ ngày giờ là Tài Quan Thực Ấn, tất là tay trắng lập nghiệp, hoặc là vợ hiền con quý. Trụ ngày giờ chảy là Thương Kiếp Kiêu Nhận, tất vợ xấu con kém, hoặc là vì vợ mà gây họa, phá gia chịu nhục. Nhưng phải xem nhật chủ hỉ kỵ mà suy đoán, không lúc nào không nghiệm vậy.