Chương 32. Luận Chính Quan thủ vận
(Bàn về việc áp dụng Chính quan cách vào vận hạn)
-tuhynhan, 10.8.2012-
Nguyên văn:
Nguyên lý Chính quan cách chọn vận thì mỗi Bát tự có cách luận riêng biệt, lý lẽ rất tinh tế, phương pháp thì rất linh hoạt, chỉ có thể nói tóm lược. Bát tự mỗi người biến hóa khác nhau, không thể câu chấp được.
Từ chú thích:
Cùng là cách Quan dụng Tài sinh nhưng thủ vận bất đồng, nguyên nhân vì sao, vì bát tự ngoài dụng thần, hỉ thần, kỵ thần ra còn có "nhàn thần", dụng thần hỉ kỵ có thể định còn nhàn thần thì vô định. Như Quan dụng Tài sinh, thì Chính Quan là Dụng thần; Tài là Hỉ thần và Thương quan là Kị thần. Mà trong bát tự vốn xen lẫn nhàn thần thì (cách cục) bất nhất; vị trí phối hợp của địa chi cũng không nhất định (chi đóng trước, chi đóng sau). Cho nên mỗi bát tự có mỗi cách luận, từ biến hóa tổ hợp thiên can và vị trí địa chi, mà xuất hiện chênh lệch phú – quý – bần – tiện. Xem ví dụ dưới đây chứng minh thì rõ.
Nguyên văn:
Như Chính quan thủ vận, tức lấy Chính quan cách làm gốc phân ra từng trường hợp để phối luận. Chính quan mà dụng Tài Ấn, thân hơi nhược thì áp dụng trợ giúp thân (tức dụng Ấn hóa Quan vượng), hành vận phải vào chổ vượng của Ấn; Quan hơi nhẹ (khinh) thì trợ Quan (tức dụng Tài sinh Quan), hành vận cũng phải ở nơi sinh Quan. Nếu Quan thấu lộ thì không thể gặp hợp, cũng không thể hỗn tạp Sát và không thể nhiều Quan. Địa chi tàng Quan gặp hình xung, thì không chỉ Quan cách mà cách cục khác cũng bất lợi.
Từ chú thích:
Thủ vận hỷ hay kị, mỗi bát tự đều bất nhất, nên dựa vào phần Luận bát cách ở chương trước áp dụng cho mỗi mệnh rồi phối hợp với hỉ kỵ vận, chỉ mang tính tham khảo mà thôi. Chính quan mà dụng Tài Ấn, tuy nói kiêm dụng cả hai nhưng ắt phải có chủ kiến; trường hợp Thân hơi nhược thì chọn trợ giúp cho thân, tức lấy Ấn làm chủ; Quan hơi nhược thì lấy trợ Quan, tức lấy Quan làm chủ. Nhưng Tài Ấn đều thấu thì tối hỷ vận Quan Sát, do Tài sinh Quan Sát, Quan Sát sinh Ấn, nhất khí tương thông (thông suốt một mạch), lúc này Quan Sát là sinh Ấn mà không khắc thân. Về phần Quan tinh thấu lộ ở can, gặp hợp Quan, tạp Sát, Quan trùng điệp, địa chi hình xung, đều là điều kị của Quan cách. Nếu như Quan tàng ở chi, mà địa chi hội hợp hình xung cũng kị.
Đây là mệnh Tiết tướng công đã luận ở phần Luận Chính quan (ở chương trước), nguyệt lệnh Chính quan kiêm dụng Tài Ấn, mừng giữa Tài và Ấn có Ất mộc ngăn cách làm cả hai không gây trở ngại cho nhau, nên có thể kiêm dụng. Nhưng mùa thu mộc điêu linh (tàn tạ), Quan phùng sinh gặp lộc, Tài cũng phùng sinh gặp lộc, Tài Quan cực vượng, nên mới gọi là thân hơi nhược (sảo khinh), cần phải trợ giúp thân. Dậu vận Thất sát, tiết Tài sinh Ấn là cực đẹp, Giáp vận trợ thân cũng tốt. Nếu trụ năm Giáp Thân mà đổi thành Kỷ Dậu, hành Giáp vận hợp Kiếp phá Ấn (thủy), tức không tốt. Thế mới nói do phối hợp của nhàn thần mà hỷ kị khác nhau. Tuất vận Tài vượng; nhưng mừng vì không tổn thương Ấn, nên không ngại. Vận Ất Hợi theo phương Bắc là đất Ấn thụ, nhưng đến Hợi vận gặp tứ xung khó tránh khỏi sóng gió ba đào, thế mới nói do phối hợp địa chi khác nhau mà hỉ kỵ cũng khác. Mậu vận Tài tinh phá Ấn, dần vận lưỡng dần xung Quan, cả hai đều không tốt, e rằng đến đây thì tận số.
Đây là mệnh ví dụ về tạp khí Chính quan trong phần Luận Chính quan ở chương trước, tuy Tài Ấn thấu có Đinh Nhâm hợp, nhưng Tài Ấn đều mất tác dụng (xem thêm tiết Thập can phối hợp tính tình), nên luận Quan cô độc không có phụ trợ. Thêm vào đó Mão Thân tương hợp (do tàng Ất Canh ám hợp), Tuất Mùi tương hình, gốc Quan tinh bị tổn hại, đây là nhược điểm cơ bản của bát tự này. Vào vận thì nhật nguyên đang vượng, Quan tinh hơi mỏng nên cần phải trợ giúp Quan. Trước vận Canh tuất thì không có vận tốt, hai mươi năm vận Hợi Nhâm Tý Quý là vận Tài, sinh trợ Quan tinh, là lúc thỏa chí cuộc đời.
Nguyên văn :
Chính quan dụng Tài, vận hạn hỷ vào đất Ấn thụ thân vượng, tránh gặp Thực Thương. Nếu thân vượng mà Tài khinh Quan nhược, thì vẫn tốt đẹp khi hành vận Tài Quan.
Từ chú thích :
Chính quan dụng Tài, cần phải chia thân vượng thân nhược vì hai trường hợp hoàn toàn khác nhau. Thân nhược hỷ đất Ấn thụ làm thân vượng lên, kị hành vận Thực Thương; Thân vượng hỷ theo hướng vượng địa là Tài Quan, xem mệnh trên thì quá hiển nhiên.
Nguyên văn :
Chính quan bội Ấn, vận hỉ Tài hương, Thương Thực trái lại cát lành. Nếu Quan mạnh thân khinh mà còn bội Ấn (tức có kèm theo Ấn tiết Quan sinh thân), thì thân được trợ nên vượng lên, bất tất gặp Tài vận (vì Tài sinh Quan và phá Ấn).
Từ chú thích:
Chính quan bội Ấn, cũng chia hai thành Thân vượng, Thân khinh (nhược). Thân vượng Ấn trọng, vận hỷ Tài tinh làm hao tổn Ấn, hành vận Thương Thực tiết tú khí của thân mà sinh Tài, Tài chuyển mà thăng Quan, tự thành vận đắc ý; nếu Quan nhiều Thân khinh và bội Ấn, tức phải dụng Ấn sinh thân, Tài vận phá Ấn là kỵ, vận Thực Thương cũng không đẹp, thích hợp với vận Tỉ Kiếp Lộc Ấn.
Quan hóa thành Ấn mà thấu Tài, đây là mệnh Kim Trạng nguyên đã nói đến ở chương Chính Quan. Hợi Mão Mùi tam hợp mộc cục, cho nên Quan (nguyệt lệnh Hợi thủy) hóa thành Ấn (mộc), Ất mộc lộ ra, thân vượng Ấn trọng. Dụng Tài để tổn Ấn, trụ giờ gặp Canh Tuất là Tài tinh hữu căn (Canh thông gốc tại Tuất do Tuất tàng Mậu Tân Đinh). Ban đầu hành vận hướng Tây Thân Dậu là Tài địa, Giáp không thông căn mất gốc, Ất tòng theo Canh để hóa, cho nên tự thành vận tốt đẹp như ý. Sau là vận Quý Mùi, vận chuyển sang phương Nam, nhật nguyên quá vượng, Nhâm Quý là Quan Sát tiết Tài sinh Ấn, cũng không được như ý. Đây là cái mà gọi là "Thân vượng bội Ấn, hỉ Thực Thương Tài hương".
Nguyên văn:
Chính quan cách kèm Thương Thực mà dụng Ấn để chế, vận hỷ đất Quan vượng Ấn vượng, tránh gặp Tài vận. Nếu Ấn thụ trùng điệp xuất lộ, thì gặp Tài vận vô hại.
Từ chú thích:
Chính Quan cách có kèm Thương Thực mà dụng Ấn, cần phải phân ra hai loại Ấn trọng, Ấn khinh. Nếu Thương Quan trọng Ấn thụ khinh, hỷ hành Ấn địa, do Quan vượng cho nên sinh Ấn thành ra tốt đẹp, còn nếu gặp Tài vận phá Ấn là điều tối kỵ. Trái lại, nếu Ấn thụ trùng điệp sinh thân, dụng Thực Thương tiết khí nhật nguyên thì Tài vận trái lại thành tốt, vì Thực Thương hỉ hành Tài địa, hơn nữa dùng nó để hao tổn Ấn (giống như Tiết hóa Quan vi Ấn ở trên).
Đây là mệnh Tuyên Tham Quốc đã nói ở phần Chính quan. Hợi Mão Mùi tam hợp mộc cục, Quan hóa thành Thương, nhật nguyên đóng ở Dần mộc, Dần Hợi lại hợp để hóa mộc, Thương Quan trùng trùng. Nhật nguyên tiết khí quá mức, lấy Tân Ấn chế Thương trợ thân làm dụng. Hai mươi năm Kỷ Tị, Mậu Thìn là đất Quan Sát vượng sinh cho Tân Ấn, nên tự là vận tốt; sau vừa nhập vận Đinh, Tài tinh phá Ấn, không thể dùng được rồi.
(Bàn về việc áp dụng Chính quan cách vào vận hạn)
-tuhynhan, 10.8.2012-
Nguyên văn:
Nguyên lý Chính quan cách chọn vận thì mỗi Bát tự có cách luận riêng biệt, lý lẽ rất tinh tế, phương pháp thì rất linh hoạt, chỉ có thể nói tóm lược. Bát tự mỗi người biến hóa khác nhau, không thể câu chấp được.
Từ chú thích:
Cùng là cách Quan dụng Tài sinh nhưng thủ vận bất đồng, nguyên nhân vì sao, vì bát tự ngoài dụng thần, hỉ thần, kỵ thần ra còn có "nhàn thần", dụng thần hỉ kỵ có thể định còn nhàn thần thì vô định. Như Quan dụng Tài sinh, thì Chính Quan là Dụng thần; Tài là Hỉ thần và Thương quan là Kị thần. Mà trong bát tự vốn xen lẫn nhàn thần thì (cách cục) bất nhất; vị trí phối hợp của địa chi cũng không nhất định (chi đóng trước, chi đóng sau). Cho nên mỗi bát tự có mỗi cách luận, từ biến hóa tổ hợp thiên can và vị trí địa chi, mà xuất hiện chênh lệch phú – quý – bần – tiện. Xem ví dụ dưới đây chứng minh thì rõ.
Nguyên văn:
Như Chính quan thủ vận, tức lấy Chính quan cách làm gốc phân ra từng trường hợp để phối luận. Chính quan mà dụng Tài Ấn, thân hơi nhược thì áp dụng trợ giúp thân (tức dụng Ấn hóa Quan vượng), hành vận phải vào chổ vượng của Ấn; Quan hơi nhẹ (khinh) thì trợ Quan (tức dụng Tài sinh Quan), hành vận cũng phải ở nơi sinh Quan. Nếu Quan thấu lộ thì không thể gặp hợp, cũng không thể hỗn tạp Sát và không thể nhiều Quan. Địa chi tàng Quan gặp hình xung, thì không chỉ Quan cách mà cách cục khác cũng bất lợi.
Từ chú thích:
Thủ vận hỷ hay kị, mỗi bát tự đều bất nhất, nên dựa vào phần Luận bát cách ở chương trước áp dụng cho mỗi mệnh rồi phối hợp với hỉ kỵ vận, chỉ mang tính tham khảo mà thôi. Chính quan mà dụng Tài Ấn, tuy nói kiêm dụng cả hai nhưng ắt phải có chủ kiến; trường hợp Thân hơi nhược thì chọn trợ giúp cho thân, tức lấy Ấn làm chủ; Quan hơi nhược thì lấy trợ Quan, tức lấy Quan làm chủ. Nhưng Tài Ấn đều thấu thì tối hỷ vận Quan Sát, do Tài sinh Quan Sát, Quan Sát sinh Ấn, nhất khí tương thông (thông suốt một mạch), lúc này Quan Sát là sinh Ấn mà không khắc thân. Về phần Quan tinh thấu lộ ở can, gặp hợp Quan, tạp Sát, Quan trùng điệp, địa chi hình xung, đều là điều kị của Quan cách. Nếu như Quan tàng ở chi, mà địa chi hội hợp hình xung cũng kị.
Giáp Thân / Nhâm Thân / Ất Tị / Mậu Dần
Quý Dậu -Giáp Tuất -Ất Hợi -Bính Tý -Đinh Sửu -Mậu Dần -Kỷ Mão
Quý Dậu -Giáp Tuất -Ất Hợi -Bính Tý -Đinh Sửu -Mậu Dần -Kỷ Mão
Đây là mệnh Tiết tướng công đã luận ở phần Luận Chính quan (ở chương trước), nguyệt lệnh Chính quan kiêm dụng Tài Ấn, mừng giữa Tài và Ấn có Ất mộc ngăn cách làm cả hai không gây trở ngại cho nhau, nên có thể kiêm dụng. Nhưng mùa thu mộc điêu linh (tàn tạ), Quan phùng sinh gặp lộc, Tài cũng phùng sinh gặp lộc, Tài Quan cực vượng, nên mới gọi là thân hơi nhược (sảo khinh), cần phải trợ giúp thân. Dậu vận Thất sát, tiết Tài sinh Ấn là cực đẹp, Giáp vận trợ thân cũng tốt. Nếu trụ năm Giáp Thân mà đổi thành Kỷ Dậu, hành Giáp vận hợp Kiếp phá Ấn (thủy), tức không tốt. Thế mới nói do phối hợp của nhàn thần mà hỷ kị khác nhau. Tuất vận Tài vượng; nhưng mừng vì không tổn thương Ấn, nên không ngại. Vận Ất Hợi theo phương Bắc là đất Ấn thụ, nhưng đến Hợi vận gặp tứ xung khó tránh khỏi sóng gió ba đào, thế mới nói do phối hợp địa chi khác nhau mà hỉ kỵ cũng khác. Mậu vận Tài tinh phá Ấn, dần vận lưỡng dần xung Quan, cả hai đều không tốt, e rằng đến đây thì tận số.
Nhâm Tuất / Đinh Mùi / Mậu Thân / Ất Mão
Mậu Thân -Kỷ Dậu -Canh Tuất -Tân Hợi -Nhâm Tý -Quý Sửu
Mậu Thân -Kỷ Dậu -Canh Tuất -Tân Hợi -Nhâm Tý -Quý Sửu
Đây là mệnh ví dụ về tạp khí Chính quan trong phần Luận Chính quan ở chương trước, tuy Tài Ấn thấu có Đinh Nhâm hợp, nhưng Tài Ấn đều mất tác dụng (xem thêm tiết Thập can phối hợp tính tình), nên luận Quan cô độc không có phụ trợ. Thêm vào đó Mão Thân tương hợp (do tàng Ất Canh ám hợp), Tuất Mùi tương hình, gốc Quan tinh bị tổn hại, đây là nhược điểm cơ bản của bát tự này. Vào vận thì nhật nguyên đang vượng, Quan tinh hơi mỏng nên cần phải trợ giúp Quan. Trước vận Canh tuất thì không có vận tốt, hai mươi năm vận Hợi Nhâm Tý Quý là vận Tài, sinh trợ Quan tinh, là lúc thỏa chí cuộc đời.
Nguyên văn :
Chính quan dụng Tài, vận hạn hỷ vào đất Ấn thụ thân vượng, tránh gặp Thực Thương. Nếu thân vượng mà Tài khinh Quan nhược, thì vẫn tốt đẹp khi hành vận Tài Quan.
Từ chú thích :
Chính quan dụng Tài, cần phải chia thân vượng thân nhược vì hai trường hợp hoàn toàn khác nhau. Thân nhược hỷ đất Ấn thụ làm thân vượng lên, kị hành vận Thực Thương; Thân vượng hỷ theo hướng vượng địa là Tài Quan, xem mệnh trên thì quá hiển nhiên.
Nguyên văn :
Chính quan bội Ấn, vận hỉ Tài hương, Thương Thực trái lại cát lành. Nếu Quan mạnh thân khinh mà còn bội Ấn (tức có kèm theo Ấn tiết Quan sinh thân), thì thân được trợ nên vượng lên, bất tất gặp Tài vận (vì Tài sinh Quan và phá Ấn).
Từ chú thích:
Chính quan bội Ấn, cũng chia hai thành Thân vượng, Thân khinh (nhược). Thân vượng Ấn trọng, vận hỷ Tài tinh làm hao tổn Ấn, hành vận Thương Thực tiết tú khí của thân mà sinh Tài, Tài chuyển mà thăng Quan, tự thành vận đắc ý; nếu Quan nhiều Thân khinh và bội Ấn, tức phải dụng Ấn sinh thân, Tài vận phá Ấn là kỵ, vận Thực Thương cũng không đẹp, thích hợp với vận Tỉ Kiếp Lộc Ấn.
Ất Mão / Đinh Hợi / Đinh Mùi / Canh Tuất
Bính Tuất - Ất Dậu - Giáp Thân - Quý Mùi - Nhâm Ngọ - Tân Tị
Bính Tuất - Ất Dậu - Giáp Thân - Quý Mùi - Nhâm Ngọ - Tân Tị
Quan hóa thành Ấn mà thấu Tài, đây là mệnh Kim Trạng nguyên đã nói đến ở chương Chính Quan. Hợi Mão Mùi tam hợp mộc cục, cho nên Quan (nguyệt lệnh Hợi thủy) hóa thành Ấn (mộc), Ất mộc lộ ra, thân vượng Ấn trọng. Dụng Tài để tổn Ấn, trụ giờ gặp Canh Tuất là Tài tinh hữu căn (Canh thông gốc tại Tuất do Tuất tàng Mậu Tân Đinh). Ban đầu hành vận hướng Tây Thân Dậu là Tài địa, Giáp không thông căn mất gốc, Ất tòng theo Canh để hóa, cho nên tự thành vận tốt đẹp như ý. Sau là vận Quý Mùi, vận chuyển sang phương Nam, nhật nguyên quá vượng, Nhâm Quý là Quan Sát tiết Tài sinh Ấn, cũng không được như ý. Đây là cái mà gọi là "Thân vượng bội Ấn, hỉ Thực Thương Tài hương".
Nguyên văn:
Chính quan cách kèm Thương Thực mà dụng Ấn để chế, vận hỷ đất Quan vượng Ấn vượng, tránh gặp Tài vận. Nếu Ấn thụ trùng điệp xuất lộ, thì gặp Tài vận vô hại.
Từ chú thích:
Chính Quan cách có kèm Thương Thực mà dụng Ấn, cần phải phân ra hai loại Ấn trọng, Ấn khinh. Nếu Thương Quan trọng Ấn thụ khinh, hỷ hành Ấn địa, do Quan vượng cho nên sinh Ấn thành ra tốt đẹp, còn nếu gặp Tài vận phá Ấn là điều tối kỵ. Trái lại, nếu Ấn thụ trùng điệp sinh thân, dụng Thực Thương tiết khí nhật nguyên thì Tài vận trái lại thành tốt, vì Thực Thương hỉ hành Tài địa, hơn nữa dùng nó để hao tổn Ấn (giống như Tiết hóa Quan vi Ấn ở trên).
Kỷ Mão / Tân Mùi / Nhâm Dần / Tân Hợi
Canh Ngọ - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Đinh Mão - Bính Dần - Ất Sửu
Canh Ngọ - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Đinh Mão - Bính Dần - Ất Sửu
Đây là mệnh Tuyên Tham Quốc đã nói ở phần Chính quan. Hợi Mão Mùi tam hợp mộc cục, Quan hóa thành Thương, nhật nguyên đóng ở Dần mộc, Dần Hợi lại hợp để hóa mộc, Thương Quan trùng trùng. Nhật nguyên tiết khí quá mức, lấy Tân Ấn chế Thương trợ thân làm dụng. Hai mươi năm Kỷ Tị, Mậu Thìn là đất Quan Sát vượng sinh cho Tân Ấn, nên tự là vận tốt; sau vừa nhập vận Đinh, Tài tinh phá Ấn, không thể dùng được rồi.