Chương 39. Luận Thiên Quan
Nguyên văn:
Sát dùng tấn công thân, giống như không phải là vật dụng tốt, mà cách là đại quý thì phần đa đều có tồn tại Thất Sát. Nếu khống chế thích hợp thì Sát thành cái cho Ta dùng, như đại anh hùng, đại hào kiệt, giống như khó mà tiết chế được cả phương xa, mà nơi ở có phương hướng, thì việc kinh thiên động địa bỗng nhiên mà hoàn thành. Mệnh các bậc Vương Hầu phần đa đều có tồn tại Thất Sát vậy.
Từ chú:
Quan Sát là đồng loại, nhưng cách dùng thì có khác. Quan là dương với âm, hoặc âm với dương, khác loại mà hút nhau; còn Sát là dương với dương, âm với âm, đồng loại mà đẩy nhau. Cho nên Quan Sát tuy có giống nhau, là vật khắc thân mà có phân biệt có tình hay vô tình. Quan không thể hại mà Sát cần có chế, đều lấy chỗ này vậy. Quan nhiều thân nhược, Quan cũng như Sát; Sát nhẹ thân cường, thì Sát cũng giống như Quan. Chỗ này thì không thể không biết vậy.
Nguyên văn:
Cách cục Thất Sát cũng không như nhau: Sát dụng Thực chế, là thượng cách; Sát vượng, Thực cường mà thân kiện, là cách cực quý. Như Ất Hợi/ Ất Dậu/Ất Mão/Đinh Sửu là cách cực quý vậy.
Từ chú:
Sát vượng Thực cường, can dương và can âm là khác nhau. Can âm không sợ Sát vượng, chỉ cần có Thực chế; Can dương nhất định cần thân vượng, nếu không, khắc tiết xảy ra, không dụng Ấn thì không thể vậy. Mệnh trên, Hợi Mão hội, Dậu Sửu hội, đúng thực là cách cục hợp chế Sát; Tứ trụ thanh thuần, không có một Nhàn thần lẫn tạp, phù hợp với mệnh cực quý vậy. ( Xem lại Tiết luận Dụng thần cao thấp, chương sáu mệnh của Thương Diêm)
Nguyên văn:
Sát dụng Thực chế không nên lộ Tài thấu Ấn, lấy Tài có thể chuyển Thực sinh Sát, mà Ấn có thể khứ Thực hộ Sát vậy. Nhưng mà trước Tài sau Thực, Tài sinh Sát mà Thực để chế vậy. Hoặc Ấn trước, Thực sau, Thực thái vượng mà Ấn chế, thì cách thành đại quý. Như Thoát Thừa tướng mệnh, Nhâm Thìn/Giáp Thìn/Bính Tuất/Mậu Tuất, Thìn trong có ám tàng Sát, Nhâm thấu xuất, Mậu tọa bốn chi, Thực thái trọng mà thấu Giáp Ấn, lấy làm tổn hại thái quá, sao không phải quý cách? Nếu Sát cường Thực tiết mà Ấn lộ, thì phá cục vậy.
Từ chú:
Sát dụng Thực chế, không nên có Tài Ấn cùng thấu, chỗ này là rất thuần túy. Dẫn chứng mệnh của Thoát Thừa tướng, Thực thần tiết khí quá nặng, lấy Giáp Ấn làm tổn kỳ thái quá, lại kiêm dùng lấy sinh trợ nhật nguyên, cho nên hành Bính Ngọ, Đinh Mùi trở thành mệnh đại quý. Khí Nhâm thủy tiết ở Giáp, không thể dùng lại, mà thiên can Nhâm Giáp Bính Mậu,đều thuận theo tương sinh, càng là dấu hiệu của quý mệnh vậy. Về phần Tài trước Thực sau, như hiện thời mệnh của Trình tổng tham mưu trưởng: Nhâm Ngọ/Quý Mão/Kỷ Tị/Tân Mùi, cách này là hợp xác thực, trụ năm tháng có Tài sinh Sát vượng, can giờ có Thực lấy chế Sát, mà Kỷ thổ đắc lộc ở Ngọ, thông căn ở Mùi. Thân vượng, Thực Sát đều thanh, quả thật là dấu hiệu của đại quý vậy. Nếu Tân ở trụ năm tháng, tức là Thực thần sinh Tài, là cục Tài sinh Sát; Ngọ trong có Đinh Ấn mà thấu xuất, thì là Thực kém mà Ấn lộ, Kiêu thần đoạt Thực hộ Sát, đều là phá cách.
(Lâm chú: Mệnh của Tổng tham mưu trưởng Trình Tiềm, chính là thân nhược, là cách Sát Ấn tương sinh, lấy dụng thần nhật chủ tọa ở dưới Tị hỏa, đại vận Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu một mạch hỏa thổ là dụng, nên đại quý. Từ thị lấy kỳ là Thực thần chế sát, thử hỏi Mão mộc Sát tinh, can giờ là Thực thần làm sao mà chế nguyệt chi là Sát. Để lại cho người cười bậc thầy!)
Nguyên văn:
Sát dùng tấn công thân, giống như không phải là vật dụng tốt, mà cách là đại quý thì phần đa đều có tồn tại Thất Sát. Nếu khống chế thích hợp thì Sát thành cái cho Ta dùng, như đại anh hùng, đại hào kiệt, giống như khó mà tiết chế được cả phương xa, mà nơi ở có phương hướng, thì việc kinh thiên động địa bỗng nhiên mà hoàn thành. Mệnh các bậc Vương Hầu phần đa đều có tồn tại Thất Sát vậy.
Từ chú:
Quan Sát là đồng loại, nhưng cách dùng thì có khác. Quan là dương với âm, hoặc âm với dương, khác loại mà hút nhau; còn Sát là dương với dương, âm với âm, đồng loại mà đẩy nhau. Cho nên Quan Sát tuy có giống nhau, là vật khắc thân mà có phân biệt có tình hay vô tình. Quan không thể hại mà Sát cần có chế, đều lấy chỗ này vậy. Quan nhiều thân nhược, Quan cũng như Sát; Sát nhẹ thân cường, thì Sát cũng giống như Quan. Chỗ này thì không thể không biết vậy.
Nguyên văn:
Cách cục Thất Sát cũng không như nhau: Sát dụng Thực chế, là thượng cách; Sát vượng, Thực cường mà thân kiện, là cách cực quý. Như Ất Hợi/ Ất Dậu/Ất Mão/Đinh Sửu là cách cực quý vậy.
Từ chú:
Sát vượng Thực cường, can dương và can âm là khác nhau. Can âm không sợ Sát vượng, chỉ cần có Thực chế; Can dương nhất định cần thân vượng, nếu không, khắc tiết xảy ra, không dụng Ấn thì không thể vậy. Mệnh trên, Hợi Mão hội, Dậu Sửu hội, đúng thực là cách cục hợp chế Sát; Tứ trụ thanh thuần, không có một Nhàn thần lẫn tạp, phù hợp với mệnh cực quý vậy. ( Xem lại Tiết luận Dụng thần cao thấp, chương sáu mệnh của Thương Diêm)
Nguyên văn:
Sát dụng Thực chế không nên lộ Tài thấu Ấn, lấy Tài có thể chuyển Thực sinh Sát, mà Ấn có thể khứ Thực hộ Sát vậy. Nhưng mà trước Tài sau Thực, Tài sinh Sát mà Thực để chế vậy. Hoặc Ấn trước, Thực sau, Thực thái vượng mà Ấn chế, thì cách thành đại quý. Như Thoát Thừa tướng mệnh, Nhâm Thìn/Giáp Thìn/Bính Tuất/Mậu Tuất, Thìn trong có ám tàng Sát, Nhâm thấu xuất, Mậu tọa bốn chi, Thực thái trọng mà thấu Giáp Ấn, lấy làm tổn hại thái quá, sao không phải quý cách? Nếu Sát cường Thực tiết mà Ấn lộ, thì phá cục vậy.
Từ chú:
Sát dụng Thực chế, không nên có Tài Ấn cùng thấu, chỗ này là rất thuần túy. Dẫn chứng mệnh của Thoát Thừa tướng, Thực thần tiết khí quá nặng, lấy Giáp Ấn làm tổn kỳ thái quá, lại kiêm dùng lấy sinh trợ nhật nguyên, cho nên hành Bính Ngọ, Đinh Mùi trở thành mệnh đại quý. Khí Nhâm thủy tiết ở Giáp, không thể dùng lại, mà thiên can Nhâm Giáp Bính Mậu,đều thuận theo tương sinh, càng là dấu hiệu của quý mệnh vậy. Về phần Tài trước Thực sau, như hiện thời mệnh của Trình tổng tham mưu trưởng: Nhâm Ngọ/Quý Mão/Kỷ Tị/Tân Mùi, cách này là hợp xác thực, trụ năm tháng có Tài sinh Sát vượng, can giờ có Thực lấy chế Sát, mà Kỷ thổ đắc lộc ở Ngọ, thông căn ở Mùi. Thân vượng, Thực Sát đều thanh, quả thật là dấu hiệu của đại quý vậy. Nếu Tân ở trụ năm tháng, tức là Thực thần sinh Tài, là cục Tài sinh Sát; Ngọ trong có Đinh Ấn mà thấu xuất, thì là Thực kém mà Ấn lộ, Kiêu thần đoạt Thực hộ Sát, đều là phá cách.
(Lâm chú: Mệnh của Tổng tham mưu trưởng Trình Tiềm, chính là thân nhược, là cách Sát Ấn tương sinh, lấy dụng thần nhật chủ tọa ở dưới Tị hỏa, đại vận Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu một mạch hỏa thổ là dụng, nên đại quý. Từ thị lấy kỳ là Thực thần chế sát, thử hỏi Mão mộc Sát tinh, can giờ là Thực thần làm sao mà chế nguyệt chi là Sát. Để lại cho người cười bậc thầy!)