Chính văn:
18-Nhị tý bất xung ngọ,
Nhị dần bất xung thân,
Nhị ngọ bất xung tý,
Nhị thân bất xung dần.
Đại lục bình chú:
Giải thích về cách cục cơ bản, tác giả mới bắt đầu nói đến bát tự sinh khắc, chế hóa, một vài vấn đề chi tiết, trọng điểm thông thường là chỗ mệnh thư không có luận cùng vấn đề liên quan. Chỗ này là mượn Tý Ngọ xung và Dần Thân xung để thuyết minh một quy tắc sinh khắc, tức là: một không xung hai. Tại sao một không xung hai chứ? Người ta nói phủ nhận, chê cười, chẳng lẽ hai người chẳng lẽ hai người không đánh được một người ư? Thực ra là lý giải đối với chữ "Xung" nghĩa gốc của nó vẫn chưa đúng. Gốc của chữ Xung nghĩa là chỉ đối diện với phương vị xung khắc. Thí dụ như thiên can có Bính Nhâm xung, Đinh Quý xung, mà không có Mậu Nhâm xung và Kỷ Quý xung, nguyên nhân thì là phương vị của Mậu và Nhâm, Kỷ và Quý cũng không phải là đối diện, do đó mới không xung. Giống như kim nam châm không thể cùng lúc chỉ cả hai hướng Ngọ. Mời xem ví dụ thực tế:
Nam mệnh 1: Canh Tý/ Kỷ Mão/ Đinh Dậu/ Kỷ Dậu.
Nguyệt Đàm phú nói: "Độc Ấn phùng Tài, định đoán hồn quy địa ngục." là đúng mệnh này. Nếu như hai Dậu có thể xung một Mão, như vậy, mệnh chủ e rằng khi sinh ra đời cùng tháng cùng năm có tháng Dậu đều bị chết yểu, thế nhưng lại không có, thậm chí cùng với bệnh nặng lâu dài cũng không có. Đến 15 tuổi gặp vận Canh Thìn năm Ất Mão, hai Mão xung hai Dậu, mệnh chủ mắc bệnh ban đỏ mụt lở loét thì mới chết. Mão mộc là gan, Tý thủy là máu, Mão hình Tý và Dậu xung Mão, gan huyết đều tổn thương, cho nên mắc bệnh.
Nam mệnh 2: Kỷ Hợi/ Nhâm Thân/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất.
Ấn dựa Quan sinh cách. 21 tuổi vào vận Kỷ Tị, bởi vì lưu niên một đường kim thủy, Tài tinh không đủ để xác lập, mệnh chủ khó mà thành hôn. Đến 28 tuổi năm Bính Dần, một Tị xung một Hợi, còn lại ở dưới thì một Hợi cùng với Thái tuế Dần mộc tác hợp, Chính Tài tiến vào Thê cung, lại còn Dần Tị Thân tam hình cưỡng chế Thân kim xung Dần mộc, mệnh chủ mới có hỉ hoa chúc ( Tân hôn). Năm sau Đinh Mão, Hợi Mão hợp, vợ chồng bình an vô sự. 30 tuổi năm Mậu Thìn, Thìn Tuất xung, mở to khố thủy, nhiều thủy xung Tị hỏa, vợ bị tai nạn xe cộ mà chết.
Nữ mệnh 1: Ất Dậu/ Mậu Dần/ Canh Thân/ Giáp Thân.
Dần mộc Thiên Tài là phụ tinh nắm lệnh, đã bị Kiếp Nhận quá nặng bao vây tấn công, may mắn ở hai Thân không xung một Dần, lại thêm Dần mộc ôm Bính hỏa quyết tử mà kháng cự, nếu không, mệnh chủ lúc ra đời e rằng sẽ bị tang cha. Tại sao lúc sau này Thân kim mới khởi phát xung Dần mộc chứi? Là do gặp đại vận hợp khử một Thân kim vậy. Quả nhiên, ở trong vận Kỷ Mão, Canh Thìn cha bình an không có việc gì, mà khi đến vận Tị, hợp khử một Thân, đồng thời lại có tam hình Dần mộc, song song là hợp Dậu kim Dương Nhận chuẩn bị công kích Dần mộc, lưu niên Ất Mão xung động Dương Nhận, người cha bệnh gan mà chết.
Nữ mệnh 2: Đinh Dậu/ Quý Sửu/ Đinh Mùi/ Canh Tuất.
Có trụ tháng và ngày Sửu Mùi xung, vì Dậu Sửu hợp mà giải xung. Nhưng bát tự Thất Sát không có chế, ẩn tàng tai họa là rất lớn. 21 tuổi vận Mão năm Mậu Ngọ, Mậu Quý hợp, Ngọ Mùi hợp, Thất Sát được chế mà thành hôn. Năm sau vận chuyển Bính Thìn, lưu niên Kỷ Mùi, trực tiếp cùng với đề cương thiên khắc địa xung, em gái chồng bị người cưỡng dâm, người em gái phải khởi tố, tên cưỡng dâm phẩn nộ mà hạ sát cả gia đình người chồng ( bản thân chồng, em chồng và cả cha mẹ)! Là năm do có 2 Mùi xung một 1 Sửu, là do trước có Dậu Sửu hợp giải xung vậy.
18-Nhị tý bất xung ngọ,
Nhị dần bất xung thân,
Nhị ngọ bất xung tý,
Nhị thân bất xung dần.
Đại lục bình chú:
Giải thích về cách cục cơ bản, tác giả mới bắt đầu nói đến bát tự sinh khắc, chế hóa, một vài vấn đề chi tiết, trọng điểm thông thường là chỗ mệnh thư không có luận cùng vấn đề liên quan. Chỗ này là mượn Tý Ngọ xung và Dần Thân xung để thuyết minh một quy tắc sinh khắc, tức là: một không xung hai. Tại sao một không xung hai chứ? Người ta nói phủ nhận, chê cười, chẳng lẽ hai người chẳng lẽ hai người không đánh được một người ư? Thực ra là lý giải đối với chữ "Xung" nghĩa gốc của nó vẫn chưa đúng. Gốc của chữ Xung nghĩa là chỉ đối diện với phương vị xung khắc. Thí dụ như thiên can có Bính Nhâm xung, Đinh Quý xung, mà không có Mậu Nhâm xung và Kỷ Quý xung, nguyên nhân thì là phương vị của Mậu và Nhâm, Kỷ và Quý cũng không phải là đối diện, do đó mới không xung. Giống như kim nam châm không thể cùng lúc chỉ cả hai hướng Ngọ. Mời xem ví dụ thực tế:
Nam mệnh 1: Canh Tý/ Kỷ Mão/ Đinh Dậu/ Kỷ Dậu.
Nguyệt Đàm phú nói: "Độc Ấn phùng Tài, định đoán hồn quy địa ngục." là đúng mệnh này. Nếu như hai Dậu có thể xung một Mão, như vậy, mệnh chủ e rằng khi sinh ra đời cùng tháng cùng năm có tháng Dậu đều bị chết yểu, thế nhưng lại không có, thậm chí cùng với bệnh nặng lâu dài cũng không có. Đến 15 tuổi gặp vận Canh Thìn năm Ất Mão, hai Mão xung hai Dậu, mệnh chủ mắc bệnh ban đỏ mụt lở loét thì mới chết. Mão mộc là gan, Tý thủy là máu, Mão hình Tý và Dậu xung Mão, gan huyết đều tổn thương, cho nên mắc bệnh.
Nam mệnh 2: Kỷ Hợi/ Nhâm Thân/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất.
Ấn dựa Quan sinh cách. 21 tuổi vào vận Kỷ Tị, bởi vì lưu niên một đường kim thủy, Tài tinh không đủ để xác lập, mệnh chủ khó mà thành hôn. Đến 28 tuổi năm Bính Dần, một Tị xung một Hợi, còn lại ở dưới thì một Hợi cùng với Thái tuế Dần mộc tác hợp, Chính Tài tiến vào Thê cung, lại còn Dần Tị Thân tam hình cưỡng chế Thân kim xung Dần mộc, mệnh chủ mới có hỉ hoa chúc ( Tân hôn). Năm sau Đinh Mão, Hợi Mão hợp, vợ chồng bình an vô sự. 30 tuổi năm Mậu Thìn, Thìn Tuất xung, mở to khố thủy, nhiều thủy xung Tị hỏa, vợ bị tai nạn xe cộ mà chết.
Nữ mệnh 1: Ất Dậu/ Mậu Dần/ Canh Thân/ Giáp Thân.
Dần mộc Thiên Tài là phụ tinh nắm lệnh, đã bị Kiếp Nhận quá nặng bao vây tấn công, may mắn ở hai Thân không xung một Dần, lại thêm Dần mộc ôm Bính hỏa quyết tử mà kháng cự, nếu không, mệnh chủ lúc ra đời e rằng sẽ bị tang cha. Tại sao lúc sau này Thân kim mới khởi phát xung Dần mộc chứi? Là do gặp đại vận hợp khử một Thân kim vậy. Quả nhiên, ở trong vận Kỷ Mão, Canh Thìn cha bình an không có việc gì, mà khi đến vận Tị, hợp khử một Thân, đồng thời lại có tam hình Dần mộc, song song là hợp Dậu kim Dương Nhận chuẩn bị công kích Dần mộc, lưu niên Ất Mão xung động Dương Nhận, người cha bệnh gan mà chết.
Nữ mệnh 2: Đinh Dậu/ Quý Sửu/ Đinh Mùi/ Canh Tuất.
Có trụ tháng và ngày Sửu Mùi xung, vì Dậu Sửu hợp mà giải xung. Nhưng bát tự Thất Sát không có chế, ẩn tàng tai họa là rất lớn. 21 tuổi vận Mão năm Mậu Ngọ, Mậu Quý hợp, Ngọ Mùi hợp, Thất Sát được chế mà thành hôn. Năm sau vận chuyển Bính Thìn, lưu niên Kỷ Mùi, trực tiếp cùng với đề cương thiên khắc địa xung, em gái chồng bị người cưỡng dâm, người em gái phải khởi tố, tên cưỡng dâm phẩn nộ mà hạ sát cả gia đình người chồng ( bản thân chồng, em chồng và cả cha mẹ)! Là năm do có 2 Mùi xung một 1 Sửu, là do trước có Dậu Sửu hợp giải xung vậy.