KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

2 posters

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyUyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Tác giả: Từ Đại Thăng (Trung Quốc)
Người dịch: Hùng804

Tựa

Lý lẽ Uyên Hải Tử bình, bắt đầu có từ Đại phu Lý Công Hư Trung thời nhà Đường, lấy năm tháng ngày giờ người sinh, sinh khắc vượng tướng, hưu tù chế hóa, quyết định cả đời, ứng nghiệm như thần vậy. Cùng với các chư vị họ Công, Hoăng, Xương, Lê, Hàn, Công làm ra tác phẩm Mộ chí để ghi nhớ, sau đến Lữ Tài đại phu lại chế định, cũng không kể ra ai là tác giả. Đến thời Tống có Từ Đại Thăng lại lấy nhật chủ con người sinh phân ra làm lục sự, nghị luận tinh vi, ý là tập hợp lại nhiều nhà nho làm ra sách 《 Uyên Hải 》, truyền bá cho đến nay, biết tất cả tổ tông. Về sau có nhiều nhà, sao lục tập Uyên Nguyên, phụ họa nghĩa lý văn chương, cho đến nay đã mấy trăm năm rồi. Bản tịch sai lầm có Hợi heo lỗ ngư, nghĩa lý học giả ít biết. Thời Kim Đường vua khen ngợi làm nghi lễ thỉnh cầu tinh thông lý lẻ này, lấy hai sách hợp lại, thêm khẩu quyết, đúng là sai lầm bịp bợm. Ôi! không treo bình mà hóa gậy, ai có thể dễ dàng thay đổi. Hành khắc hậu thế, để kẻ học sau, không thể phạm tới người xưa. Thành sách, chỉ có thời Đường, ghi chép ngoài còn lại để dẫn.

Sùng Trinh (niên hiệu của Vua Tư Tông thời nhà Minh bên Trung Quốc, công nguyên 1628-1644), Đầu mùa Đông năm thứ 7, ngày tốt khắc trùng.

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Quyển một (1)
Luận Bắt nguồn chỗ sinh ra ngũ hành


Bởi do trời đất chưa phân ra, lúc đang còn hỗn độn; Càn Khôn chưa phân chia, gọi là Phôi thai; chưa sinh ra Nhật Nguyệt Tinh Thần, âm dương nóng lạnh cũng chưa phân ra vậy. Ở bên trên thì không có mưa sương, không có mây gió, không có sương tuyết, không có sấm chớp, chẳng qua chỉ là một màn u tối. Ở bên dưới thì không có cây cỏ, không có sông núi, không có cầm thú, không có con người, chỉ là cảnh tượng tối đen âm u. Lúc kết thành Nhất Khí, vì vậy Thái Dịch sinh thủy ( chưa có khí gọi là Thái Dịch ), Thái Sơ sinh hỏa ( có khí nhưng chưa có hình gọi là Thái Sơ ), Thái Thủy sinh mộc ( có hình chưa có chất gọi là Thái Thủy ), Thái Tố sinh kim (có chất chưa có thể gọi là Thái Tố ), Thái Cực sinh thổ ( chính là hình thể đã có đầy đủ gọi là Thái Cực ). Do đó, thủy số 1, hỏa số 2, mộc số 3, kim số 4, thổ số 5. Đến lúc này Tam Nguyên đã Cực, hỗn độn nhất phán, chính là phôi thai chia ra. Thanh nhẹ là Thiên, Trọc nặng là Địa. Nhị khí cùng hỗ trợ nhau, đã phát sinh Lưỡng Nghi, hóa mà thành thiên, bắt đầu từ chỗ này vậy. Hoặc đầu chim mà hình người, hoặc là đầu người mà thân rắn. Không có thèm muốn, không có danh tính, không có quốc gia, không có quân thần. Sống thành đàn, ăn lông ở lỗ, cho dù mưa gió, thân sơ họ hàng như nhau, không biết cha con. Không ăn ngũ cốc, ăn lông uống máu, cùng sống vui vẻ. Đến khi thánh hiền xuất hiện ( xưng là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế ), phân ra hai ngôi trí tuệ và ngu dốt, rồi nảy ra quân thần phụ tử, quy định nghi lễ áo quan. Than ôi! bỏ Đại đạo mà sinh gian trá, yêu quái xuất hiện. ( là lúc trời mở ra ở Tý, đất mở ra ở Sửu, người sinh ra ở Dần, nghĩa là bắt đầu lập ra trời đất. Vạn vật thì sinh ra, gian trá cũng bắt đầu, yêu quái cùng xuất hiện.)

【 Lời giải thích: "Hỗn độn phôi thai", là lời nói ví von giống như con gà con, chưa rõ thanh hay trọc."Hợp lại chồng chất", hình thù hỗn độn đều không phân biệt."Nhất phán, nãi phân", ý là đã có trời đất. "Trác", là miệng con chim vậy."Sào xứ huyệt cư", là kết tổ ở trên cành cây, thân thể là theo ở trên trời."Ẩm huyết như mao", không có lửa, phải ăn vật tươi sống. "Yêu quái", gọi là thần Xuy Vưu. 】

Luận chỗ sinh ra thiên địa can chi
Thiết nghĩ sinh ra gian trá, sinh ra yêu quái. Thời Hoàng đế có thần Xi Vưu nhiễu loạn, lúc này là, Hoàng Đế rất khổ cựa lo lắng cho dân, liền chiến đấu với Xi Vưu ở nơi Trác Lộc ( Trác Lộc, là tên một Quận). Máu chảy trăm dặm, không thể cai trị ( thời Đế thủy chế tạo binh khí ), Hoàng Đế bèn lập đàn trai giới cúng tế trời đất, lễ nghi ở trên gò đất. Trời bèn giáng xuống Thập Can ( tức là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý ), Thập nhị Chi ( tức là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi ). Vua bèn đem hết Thập can sắp xếp thành hình tròn, tượng hình là trời; thập nhị chi đem xếp thành hình vuông, tượng hình là đất. Mới lấy can là trời, chi là đất, hợp lại làm cửa ải để dựa vào đó mà cai quản, sau đó liền cai trị được vậy ( chỗ này là sinh ra Thập Can, Thập nhị Chi vậy). Từ đó về sau có họ Đại Nạo, là người đời sau lo âu nói: Ô hô! Hoàng Đế là Thánh nhân, không thể không chú trọng trừng trị ác sát, vạn nhất hậu thế sẽ thấy tai họa mà bị khổ, phải làm sao đây! Vì thế nói đem Thập Can, Thập nhị Chi phân phối thành Lục thập Giáp Tý.

Thập thiên can chỗ thuận âm dương:
Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
Dương Âm Dương Âm Dương Âm Dương Âm Dương Âm
Giáp Bính Mậu Canh Nhâm thuộc dương, Ất Đinh Kỷ Tân Quý thuộc âm.

【 Lời giải thích: "Vua bèn đem Thập can xếp thành vòng tròn, tượng hình là trời; thập nhị chi xếp thành hình vuông, tượng hình là đất", ở chỗ này bắt đầu nói đến trời tròn đất vuông. 】

Chú thích: Chỗ này có đồ hình thiên can và địa chi.

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Thiên can tương hợp
Giáp và Kỷ hợp ( Giáp thuộc mộc, Kỷ thuộc thổ, mộc lấy thổ làm thê tài, cho nên được hợp ), Ất và Canh hợp, Bính và Tân hợp, Đinh và Nhâm hợp, Mậu và Quý hợp ( ý tương hợp giống như ở trên).
【Lời giải thích: Giáp đếm thuận tới Kỷ, được hợp thành Lục Âm, nói số đảo nghịch thuận, còn lại làm theo chỗ này. 】

Luận Thập can chỗ thuộc phương vị chỗ thuộc thập nhị chi
Giáp Ất mộc thuộc Đông phương ( Vị trí Dần Mão Thìn là Đông phương, tượng là Thanh Long), Bính Đinh hỏa thuộc Nam phương ( vị trí Tị Ngọ Mùi là Nam phương, tượng là Chu Tước), Mậu Kỷ thổ chủ Trung Ương ( vị trí Thìn Tuất Sửu Mùi, tượng là Câu Trần, Đằng Xà), Canh Tân kim thuộc Tây phương ( vị trí Thân Dậu Tuất là Tây phương, tượng là Bạch Hổ), Nhâm Quý thủy chủ Bắc phương (vị trí Hợi Tý Sửu là Bắc phương, tượng là Huyền Vũ).
Đúng thời Đại Nạo tuy là lấy Giáp Ất thuộc mộc, Bính Đinh thuộc hỏa, Mậu Kỷ thuộc thổ, Canh Tân thuộc kim, Nhâm Quý thuộc thủy. Còn lấy chi Dần Mão thuộc mộc, Tị Ngọ thuộc hỏa, Thân Dậu thuộc kim, Hợi Tý thuộc thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc thổ, lý này nghĩa là sao vậy?
Hoặc viết: Đông phương có thần Thái Hạo, nhận cung Chấn nắm giữ quy tắc điều khiển mùa Xuân, sinh ra lòng nhân ái và hòa thuận, vạn vật phát sinh, cho nên mộc bắt đầu từ ở chỗ này, cùng với Giáp Ất Dần Mão vậy.
Nam phương có vua Thần Nông, nhận cung Ly nắm giữ mùa Hạ, sinh ra mặt trời xinh đẹp khốc khí, vạn vật đến chỗ này đều như nhau, cho nên lý do hỏa ở đây, cùng Bính Đinh Tị Ngọ vậy. (mùa Hạ chủ nuôi dưỡng vạn vật, cây cối xanh tốt rậm rạp, tất cả đều nhờ công đức của hỏa vậy.)
Tây phương có thần Thiếu Hạo, nhận cung Đoài nắm giữ mùa Thu, khí sinh yên tĩnh mà xơ xác tiêu điều, vạn vật đến chỗ này đều thu lại, cho nên lý do kim ở đây, cùng Canh Tân Thân Dậu vậy. (khí mùa Thu là kim như đao, khí khái tiêu điều xơ xác, cây cỏ đều điêu tàn, lúc khí thành thục thu vào.)
Bắc phương có thần Chuyên Đế, nhận cung Khảm nắm giữ mùa Đông, khí phát sinh ngưng kết chặt chẽ, vạn vật đến chỗ này đều ẩn tàng, cho nên lý do thủy ở đây, cùng Nhâm Quý Hợi Tý vậy.
Trung Ương có thần Hoàng Đế, nhận cung Khôn thổ nắm giữ ở giữa, huống chi mộc hỏa kim thủy tất cả đều không thể không có thổ, cho nên đem Mậu Kỷ ở Trung Ương, Thìn Tuất Sửu Mùi phân tán ra bốn góc, chiếm lấy tất cả. (Tứ Duy ( là bốn góc), tháng 3 mùa Xuân, tháng 6 mùa Hạ, tháng 9 mùa Thu, tháng 12 mùa Đông.)

Hà Công luận viết: Nếu trời không có thổ, không thể tròn che chở ở trên; nếu đất không có thổ, không thể dày lớn mà tải đầy đất, mà không sinh ngũ cốc; người nếu không có thổ, ở trong không thể di chuyển, không lập ngũ hành ( nói Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín là ngũ thường, kim mộc thủy hỏa thổ là ngũ hành). Chỗ này Tam Tài không thể thiếu thổ vậy (Tam Tài còn gọi là Thiên Địa Nhân). Mộc nếu không có thổ, không có lực tái bồi; hỏa nếu không có thổ, không thể chiếu sáng khắp bốn phương; kim nếu không có thổ, khó thành khí sắc nhọn; thủy nếu không có thổ, sóng không thể ngập tràn đê; thổ nếu không có thủy, vạn vật không thể nuôi dưỡng. Cho nên chỗ này ngũ hành đều không thể không có thổ. Bởi thế thổ ở Trung Ương, phân tán ra bốn góc, mà thành lập ngũ hành vậy.

【 Lời giải thích: Giáp Ất mộc màu xanh, Bính Đinh hỏa màu đỏ, Mậu Kỷ thổ màu vàng, Canh Tân kim màu trắng, Nhâm Quý thủy màu đen. Mộc chủ Nhân, hỏa chủ Lễ, kim chủ Nghĩa, thủy chủ Trí, thổ chủ Tín."Thái Hạo", là vua Phục Hi."Chuyên Đế", là vua Cao Dương, xưng là Hoàng Đế. Thổ màu vàng, Hoàng Đế lấy đức tín cai trị thiên hạ, cho nên xưng là Hoàng Đế. Chỗ này là luận về Thập Can vậy. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận chỗ thuộc về âm dương Thập nhị Địa chi
Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
Dương Âm Dương Âm Dương Âm Dương Âm Dương Âm Dương Âm

Luận Thập nhị Chi lục hợp
Tý và Sửu hợp thổ, Dần và Hợi hợp mộc, Mão và Tuất hợp hỏa, Thìn và Dậu hợp kim, Tị và Thân hợp thủy, Ngọ và Mùi hợp hỏa, Ngọ là Thái Dương, Mùi là Thái Âm vậy.

Luận Thập nhị Chi tam hợp
Thân Tý Thìn thủy cục, Hợi Mão Mùi mộc cục, Dần Ngọ Tuất hỏa cục, Tị Dậu Sửu kim cục, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ cục. ( thông thường xem mệnh lấy tam hợp thủ dụng làm cục nhập cách. )
【Lời giải thích: Hợp cục là quý, nhưng ngũ hành phải thuận nhau. 】

Luận Thập nhị Chi tương Xung
Tý Ngọ tương xung, Dần Thân tương xung, Mão Dậu tương xung, Thìn Tuất tương xung, Tị Hợi tương xung, Sửu Mùi tương xung. ( Tý cung Quý thủy, Ngọ cung Đinh hỏa, cho nên thủy có thể khắc hỏa vậy. Dần cung Giáp mộc, Thân cung Canh kim, cho nên kim khắc mộc vậy. Lấy trong chi có ám hại là xung, còn lại theo chỗ này mà suy. )
【Lời giải thích: Tương xung nhưng có được gặp hợp thì không thể xung.】

Luận Thập nhị Chi tương Xuyên ( còn gọi là Hại)
Tý Mùi tương xuyên, Sửu Ngọ tương xuyên, Dần Tị tương xuyên, Mão Thìn tương xuyên, Thân Hợi tương xuyên, Dậu Tuất tương xuyên.
【Lời giải thích: Tương xuyên là hại, phạm chỗ này là tổn hại lục thân, không lấy khó khăn trở ngại mà luận. 】

Luận Thập nhị Chi Tương Hình
Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần, gọi là hình thế; Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi, Mùi hình Sửu, gọi là hình vô ân; Tý hình Mão, Mão hình Tý, gọi là hình vô lễ; Thìn Ngọ Dậu Hợi, gọi là tự hình.

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận ý nghĩa Can Chi
《 Quần Thư Khảo Dị 》 viết: Giáp là nứt ra vậy, là nói giải phẩu vạn vật mà ra chữ Giáp vậy. 《 Dịch 》 viết: Trăm loại quả của cây cỏ đều nứt ra từ Giáp. Ất là nói lúc vạn vật mới sinh ra bị cong lại mà không duỗi ra thẳng vậy. Bính là nói vạn vật sáng chói mà thấy rõ ràng. Đinh là nói hình dạng vạn vật đầy đặn khỏe mạnh, cho nên 《 Bang Quốc Đồ Tạ 》 viết: là con trai trưởng thành. Mậu, xum xuê vậy, là nói vật rất hưng thịnh, cho nên 《 Hán Chí 》 viết: tội nghiệt nhiều là do ở Mậu vậy. Kỷ, là kỷ luật vậy, nói vạn vật đã có hình, có thể biết kỷ luật vậy. Canh, là tướng mạo kiên cường, là nói vạn vật thu lại mà có hạt vậy. Tân, là nói phương vạn vật hưng thịnh mà lấy chế tạo, cho nên vất vã đau đớn vậy. Nhâm, là mang thai vậy, âm dương giao nhau, là nói vạn vật từ khi mang thai cho đến khi ra đời vậy. Quý là lúc mùa Đông thổ đã yên ổn, vạn vật có thể tính toán đo lường vậy. Tý, là lớn thêm vậy, khí dương bắt đầu nảy sinh nghiệt ngã, ở dưới mọc lên vậy. Sửu, là buộc, thắt vậy, khí lạnh tự co vào vậy. Dần, là xương đầu gối vậy, khí dương muốn phát ra, khí âm còn mạnh mà ở dưới phát triển xương đầu gối. Mão là bốc lên vậy, vạn vật bất chấp mặt đất mà đi ra. Thìn, kéo duỗi ra vậy, tất cả mọi vật đều duỗi ra. Tị, là dừng lại vậy, khí dương đã dừng lại vậy. Ngọ, xác chết vậy, âm dương giao nhau kinh sợ mà giống như xác chết vậy. Mùi, là che dấu, là mơ hồ, là me muội vậy, quá trưa thì mặt trời ngã về tây, mặt trời xế dần hướng về đêm vậy. Thân, là duỗi ra trói buộc lại đã hoàn thành, cho nên 《 Tấn Chí 》 viết: Tất cả thân thể vạn vật đã hoàn thành vậy. Dậu, là thành tựu vậy, vạn vật đã thành thục. Tuất, là tiêu diệt vậy, vạn vật đã bị tận diệt. Hợi, là hạt vậy, vạn vật thu tàng, tất cả thành hạt cứng vậy.

Luận cầm tinh của Thập nhị Chi
Tý dương, Sửu âm, Dần dương, Mão âm, Thìn dương, Tị âm, Ngọ dương, Mùi âm, Thân dương, Dậu âm, Tuất dương, Hợi âm.
《 Thất Tu Loại Toản 》 viết: Nhân Hòa Lang Hán nói: Địa chi thuộc 12 loài vật, lấy tính cách không được đầy đủ. Lấy Tý mà nói, lại sao không có đủ 12 chăng? Lấy ở dưới địa chi, đều lấy vuốt chân theo âm dương mà phân chia. Như Tý dù thuộc là dương, trước 4 khắc là ban đêm là âm, sau 4 khắc là ngày hôm nay là dương. Cho nên 4 móng chân trước của Chuột tượng là âm, 5 móng chân sau của Chuột tượng là dương vậy. Sửu thuộc âm, trâu bò cũng là 2 móng chân vậy; Dần thuộc dương, Cọp có 5 vuốt chân; Mão thuộc âm, Thỏ khuyết môi mà có 4 móng chân vậy. Thìn thuộc dương, Rồng đúng có 5 vuốt chân. Tị thuộc âm, lưỡi Rắn chia làm hai vậy. Ngọ thuộc dương, móng Ngựa hình tròn vậy. Mùi thuộc âm, móng chân con Dê cũng chia hai vậy. Thân thuộc dương, Khỉ có 5 móng chân. Dậu thuộc âm, chân Gà có 4 móng vậy. Tuất thuộc dương, Chó có 5 móng chân vậy. Hợi thuộc âm, Móng chân Heo cũng chia hai vậy.
Lại viết: Tý là cực âm, chỗ âm u mờ mịt vậy, lấy Chuột phối nhau, Chuột ẩn giấu kín đáo vậy. Ngọ là cực dương, lộ rõ tính mạnh mẽ, lấy Ngựa phối nhau, Ngựa đi nhanh vậy. Sửu cũng là âm, chỗ này nơi sinh sản hiền lành, lấy Trâu bò phối nhau, trâu bò có con bê con hiền lành. Mùi cũng là âm, ngửa mặt cung kính nghi lễ, lấy Dê phối nhau, Dê khi sinh sản quỳ xuống. Dần là tam dương, dương thắng thì hung bạo, lấy Cọp phối nhau, tính Cọp là hung dữ vậy. Thân là tam âm, âm thắng thì xảo quyệt, lấy Khỉ phối nhau, tính Khỉ ranh mãnh vậy. Mặt trời sinh ở hướng Đông mà hướng Tây có Dậu Gà, mặt trăng sinh ở Dậu mà hướng Đông có Mão Thỏ, chỗ này nghĩa là âm dương giao cảm, cho nên nói Mão Dậu là cánh cửa riêng của Nhật Nguyệt vậy. Nói Thỏ liếm lông con đực mà có mang thai, Gà phối hợp đạp lên nhau mà không nhìn thấy, đều có tình cảm mà không giao nhau, cho nên Mão Dậu thuộc Gà và Thỏ. Thìn Tị khởi từ dương mà làm việc cần mẫn, Rồng là mạnh mẽ, tượng hình là Rắn, cho nên lấy Rồng Rắn phối chỗ này, Rồng Rắn là vật biến hóa vậy. Tuất Hợi khởi là âm mà thu lại ẩn náu, Chó chủ về đêm, Heo thì điềm tĩnh, cho nên Chó Heo phối chỗ này. Chó Heo, là vật trông giữ vậy. Chỗ này nhà nho luận cũng rõ ràng, cho nên phải nhớ kĩ càng.
【Lời giải thích: Lấy 5 là dương, 4 là âm. Tròn là dương, vuông là âm. Gọi là "Bất toàn" vì: Chuột không có con ngươi, Trâu không có răng, Cọp không có gáy, Thỏ không có nhìn, Rồng không có tai, Rắn không có chân, Ngựa không có túi mật, Dê không có con ngươi, Khỉ không có quai hàm, Gà không có quả thận, Chó không có bao tử, Heo không có gân. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận nạp âm Lục thập hoa Giáp Tý cùng chú giải

Nói đến Giáp Tý, bắt đầu bởi họ Đại Nạo, còn nạp âm là từ Quỷ Cốc Tử, thành tượng bởi Đông Phương Mạn Thiến Tử. Thời Mạn Thiến Tử đã thành tượng, hiệu viết là: "Hoa Giáp Tý" . Nhưng Giáp Tý, từ Tý đến Hợi, 12 cung đều thuộc về kim mộc thủy hỏa thổ. Bắt đầu khởi ở Tý, là Nhất Dương. Cuối cùng ở Hợi, là Lục Âm. Chỗ thuộc về ngũ hành, giống như thế sự của con người vậy. Tại sao gọi là thế sự? Đại để Ngũ Hành kim mộc thủy hỏa thổ, ở trên trời gọi là Ngũ tinh, ở dưới đất gọi là Ngũ Nhạc, ở đạo đức gọi là Ngũ Thường, ở con người gọi là Ngũ Tạng, ở sinh mệnh cũng gọi là Ngũ Hành. Do đó Giáp Tý là ứng với ở mệnh, mệnh là chuyện cả đời, cho nên Giáp Tý là tượng nạp âm. Lúc Thánh nhân thuyết minh, cũng như sự tình của một đời người vậy. Sự việc một đời, chỗ Thánh nhân truyền lại là Tam thập nhi lập, Tứ thập nhi bất hoặc, Ngũ thập nhi tri thiên mệnh, Lục thập nhi nhĩ thuận, Thất thập nhi tòng tâm ( Ý là, 30 tuổi lập nghiệp, 40 tuổi biết đúng sai mà không lầm lỡ, 50 tuổi mới biết mệnh trời, 60 tuổi mới biết thuận theo mệnh, 70 tuổi mà theo tâm ý). Tượng Giáp Tý, từ Tý cho đến Hợi, lý lẽ rõ ràng vẫn có thể nhìn thấy vậy. Còn như hai vị Tý, Sửu, âm dương mở đầu có mang thai, người đang ở bào thai, vật tàng ở hạt cây, chưa có ranh giới vậy. Hai vị Dần Mão, âm dương dần dần thông suốt, người dần dần sinh trưởng, vật theo Giáp tách ra, bầy hoa dần dần nở rộ, như con người sinh ra mà lập thân vậy. Hai vị Thìn Tị, khí âm dương hưng thịnh, vật nở hoa rộ, con người đến 30, 40, mà có đất lập thân, tượng tiến thủ. Hai vị Ngọ Mùi, âm dương lộ ra rõ ràng, tìm tọi cùng nhau mà hợp thành, con người đến 50, 60, phú quý bần tiện có thể biết ngay, phàm việc hưng suy có thể thấy vậy. Hai vị Thân Dậu, âm dương xác xơ tiêu điều, vật dừng lại thu nhoạch, người đã chùn chân rụt cổ, tất cả phải yên tĩnh vậy. Hai vị Tuất Hợi, âm dương đã bế tắc, khí vật trở về gốc cội, người cũng ngừng nghĩ, tất cả đều trở về gốc vậy. Nhưng chỉ tường thuật rõ ràng trước sau 12 vị mà vẫn có thể nhìn thấy, ở Lục thập Giáp Tý theo thứ tự mà biết rõ vậy.
【Lời giải thích: Thời nhà Chu có Vương Hủ hiểu đạo, ẩn ở thanh khê Quỷ cốc, thế gian gọi là Quỷ Cốc Tử. "Ngũ tinh", là kim tinh, mộc tinh, thủy tinh, hỏa tinh và thổ tinh."Ngũ thường", là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. "Ngũ hành", là kim mộc thủy hỏa thổ. "Thủy dựng", giống như người đàn bà mới mang thai ở trong bụng. "Chiết Giáp", giống như nói tách cây măng vẫn có võ ở bên ngoài. "Quần ba", giống như nói hoa có hoa gạo, có hoa cỏ. "Lập thân" giống như thắt đai lưng ở triều đình, thịnh vượng mà hành đạo vậy. Người 50, 60 tuổi có thể thấy quý tiện, đến khi con người 70 tuổi, tinh thần suy nhược, cũng đã hết số, là bất lực vậy. 】

+ Giáp Tý, Ất Sửu là Hải Trung kim
—— vì Tý thuộc thủy, lại là hồ nước, lại là đất thủy vượng. Gồm cả kim tử ở Tý, mộ ở Sửu, thủy vượng mà kim tử mộ, cho nên viết là Hải Trung kim ( vàng trong biển) vậy. Lại viết: Khí ở ẩn tàng, vật cực thì tiềm ẩn.
【Lời giải thích: hình thể kim đi ở đường thủy, là tính nhược mà thể hàn. 】

+ Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung hỏa
—— vì Dần là Tam Dương, Mão là Tứ Dương, hỏa đã đắc vị, lại lấy Dần Mão mộc sinh. Lúc này trời đất mở ra bếp lò lửa, vạn vật bắt đầu phát sinh, cho nên viết là Lư Trung hỏa ( lửa trong bếp lò) vậy. Trời đất là lò lửa, âm dương là than củi.
【 Lời giải thích: Hình hành dương, mà thế lực dần tăng, núi cao dựng thẳng mà dừng. 】

+ Mậu Thìn, Kỷ Tị là Đại Lâm mộc
—— vì Thìn là vùng quê, Tị là Lục Dương. Thủy tới Lục Dương thì càng tốt lá xanh rậm rạp, vì đại lâm mộc xanh tốt mà sinh trưởng ở giữa vùng quê, cho nên viết là Đại Lâm mộc vậy (rừng cây cổ thụ). Âm thanh lan truyền lên chín tầng mây, khuynh hướng âm sinh vạn vật.
【Lời giải thích: Rồng Rắn giấu hình, khí đang thành hình, vật đã lộ ra cây. 】

+ Canh Ngọ, Tân Mùi là Lộ Bàng thổ
—— vì mộc có ở trong Mùi, vượng hỏa sinh ở bên trong Ngọ, hỏa vượng thì thổ nhận hình phạt ở chỗ này. Chỗ sinh thổ, chưa thể nuôi dưỡng vật, giống như Lộ Bàng thổ vậy ( thổ bên đường). Cùng với thời gian cường tráng, đủ dày mới tải mộc, mộc nhiều không thích.
【Lời giải thích: hình thổ có chất, có vật thì có hình. 】

+ Nhâm Thân, Quý Dậu là Kiếm Phong kim
—— vì là chính vị Thân Dậu kim, bao gồm cả Thân ở lâm quan, dậu là đế vượng. Kim đã sinh vượng, thì trở thành cương cứng vậy. Cương thì không vượt qua khỏi thanh kiếm, cho nên viết là Kiếm Phong kim ( Thanh gươm vàng) vậy. Hai ngôi sao Đẩu và Ngưu phát ra ánh sáng cầu vòng, gươm sắc ngưng tụ sương tuyết.
【Lời giải thích: Nắm tính kiên cường, vật cần sinh vượng, chính là công thành không thoái lui sẽ tổn thương hòa khí. 】

+ Giáp Tuất, Ất Hợi là Sơn Đầu hỏa
—— Vì Tuất Hợi là Thiên Môn, ngọn lửa chiếu sáng ở Thiên Môn, ánh sáng lên cao, cho nên viết là Sơn Đầu hỏa vậy (Ngọn lửa trên đỉnh núi). Ánh tà dương ở chân trời, mặt trời lặn ở đỉnh núi, tản ra đẹp đẽ vì phản chiếu, mây màu nở ra vốn là từ ánh sáng dư thừa còn lại.
【Lời giải thích: Khí như khói mù che lấp ngọn lửa, như ánh sáng bay đáp lại quẻ Càn, quay lại trong ngưng nghĩ. 】

+ Bính Tý, Đinh Sửu là Giản Hạ thủy —— Vì thủy vượng ở Tý, suy ở Sửu, vượng mà trái lại suy, thì không thể thành sông lớn, cho nên viết là Giản Hạ thủy vậy ( đưa nước xuống khe suối). Dòng suối nhỏ chảy quanh núi, tuyết phun ra mà nước chảy xiết, khuynh hướng đổ sâu vào eo sông (chỗ hai quả núi kẹp dòng sông ở giữa), cho nên ví von như khe suối vậy.
【Lời giải thích: hung ác ở lúc sinh vượng, địa vị đã nghĩ ngơi, khí đã thành vật.】

+ Mậu Dần, Kỷ Mão là Thành Đầu thổ
—— Vì thiên can Mậu Kỷ thuộc thổ, Dần là Cấn là núi, thổ tích tụ mà thành núi, cho nên viết là Thành Đầu thổ vậy ( đất ở trên bức thành). Đá ngọc chồng chất ở kinh đô, Hoàng Đế ở trong lầu vàng, hình thể như Rồng uốn lượn bay đi nghìn dặm, thế lực dũng mãnh bốn phương vậy.
【Lời giải thích: Thổ thích mộc khai thông, chắc chắn thành công. 】

+ Canh Thìn, Tân Tị là Bạch Chá kim —— Vì kim dưỡng ở Thìn, sinh ở Tị, thể chất mới thành, chưa có thể kiên cố, cho nên viết là Bạch Chá kim vậy (kim bạch lạp, đèn cầy). Khí dần dần phát sinh, kim suy nhược ở mỏ quặng, ánh sáng đến nghĩ ở Nhật Nguyệt ( mặt trời và mặt trăng), tượng khí âm dương ngưng tụ.
【Lời giải thích: Kim bắt đầu bỏ đất Sửu, nên mẫu tử phân chia, tất nhiên thành lập, cần có hỏa để thành hình. 】

+ Nhâm Ngọ, Quý Mùi là Dương Liễu mộc
—— Vì mộc tử ở Ngọ, mộ ở Mùi. Mộc đã bị tử mộ, dù có được thiên can Nhâm Quý thủy để sinh trưởng, cuối cùng vẫn là nhu mộc, cho nên viết là Dương Liễu mộc (cây Dương liễu). Vạn sợi dây tơ tằm nối nhau liên tiếp, như nghìn sợi tơ không có khâu lại.
【Lời giải thích: Vật dương khí thịnh, thủy tế thành công. 】

+ Giáp Thân, Ất Dậu là Tuyền Trung thủy —— Kim lâm quan ở Thân, đế vượng ở Dậu, kim đã sinh vượng, thì thủy cũng được sinh, nhưng ranh giới giữa phương sinh, lực lượng không lớn, cho nên viết là Tỉnh Tuyền thủy vậy ( nước ở trong giếng). Khí dừng mà yên tĩnh, quá mà không kiệt, ra mà không tận.
【Lời giải thích: Ổn định là tĩnh mà Thanh, rối loạn là động mà Trọc. 】

+ Bính Tuất, Đinh Hợi là Ốc Thượng thổ —— Vì Bính Đinh thuộc hỏa, Tuất Hợi là Thiên Môn, hỏa đã viêm thượng, thì thổ không ở dưới mà sinh, cho nên viết là Ốc Thượng thổ vậy ( Đất ở trên nhà ở). Do hỏa mộc còn sinh vượng, là theo thế mà tăng thêm, tới chỗ tử tuyệt, mừng để yên ổn.
【Lời giải thích: Bởi thành quả che đậy tuyết sương, sự nghiệp chấn động lấn gió mưa. 】

+ Mậu Tý, Kỷ Sửu là Phích Lịch hỏa —— Sửu thuộc thổ, Tý thuộc thủy. Thủy ở chính vị mà nạp âm là hỏa, hỏa ở trong thủy, không phải Rồng thần thì không có, cho nên viết là Phích Lịch hỏa ( Lửa sấm sét). Thế điện chớp giật như kim xà, ý nói đội quân tinh nhuệ chạy rất nhanh, tượng biến hóa.
【Lời giải thích: Khí ở Nhất Dương, hình cư ở mộc. 】

+ Canh Dần, Tân Mão là Tùng Bách mộc —— Vì mộc lâm quan ở Dần, đế vượng ở Mão, mộc đã sinh vượng, so sánh thì không có nhu nhược, cho nên viết là Tùng Bách mộc vậy. Khinh tuyết mà lấn sương, bao phủ đất mà che ngút trời cao, gió lay động biểu diễn tấu khúc nhạc, sau mưa bày cờ ra xem.
【Lời giải thích: Hỏa vượng thì mộc ẩn tàng, chính là thích thủy để thấm nhuận.】

+ Nhâm Thìn, Quý Tị là Trường Lưu thủy —— Thìn là thủy khố, Tị là đất kim trường sinh, kim thì sinh thủy, tính thủy đã tồn tại, lấy khố thủy mà kim được sinh, cuối cùng nguồn nước không bị khô kiệt, cho nên viết là Trường Lưu thủy vậy (dòng nước chảy dài). Thế ở Đông Nam, quý ở yên tĩnh.
【Lời giải thích: Đến bất tận, nạp vô tận. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
+ Giáp Ngọ, Ất Mùi là Sa Trung kim —— Ngọ là đất hỏa vượng, hỏa vượng thì kim bại. Mùi là đất hỏa suy, hỏa suy thì kim quan đới, bại mà phương ở quan đới, không thể đốn chặt, cho nên viết là Sa Trung kim vậy ( Vàng trong cát).

+ Bính Thân, Đinh Dậu là Sơn Hạ hỏa —— Thân là Địa Hộ, Dậu là Mặt trời đi vào cửa ngõ. Mặt trời đến chỗ này là ánh sáng bị dập tắt vậy, cho nên viết là Sơn Hạ hỏa ( lửa dưới chân núi). Dậu chìm ở ngôi Đoài, lại hỷ Đông Nam, xuất ra cung Chấn sáng ở cung Ly, ánh sáng càng mạnh, lửa ám hung, thích được cứu sáng.
【Lời giải thích: Rùa rụt đầu ở cung Đoài, thể lực suy nhược. 】

+ Mậu Tuất, Kỷ Hợi là Bình Địa mộc —— Tuất là vùng quê (đồng bằng), Hợi là đất mộc sinh. Nói mộc sinh ở vùng quê, thì một cây không thể so với một cánh rừng, cho nên viết là Bình Địa mộc vậy (Cây ở đất đồng bằng). Duy chỉ có công quý ở Vũ lộ (mưa sương), không hỷ tích lũy tuyết sương.
【Lời giải thích: Kim vượng thì tổn hại, thổ dày thì vun bồi. 】

+ Canh Tý, Tân Sửu là Bích Thượng thổ —— Sửu tuy là thổ gia ở chính vị, còn Tý là đất thủy vượng, thổ thấy thủy nhiều thì thành nê nước vậy, cho nên viết là Bích Thượng thổ vậy (đất trên vách). Khí ở lúc bế tắc, vật còn ẩn giấu, che hình ngăn thể, cho nên trong ngoài đều không đủ vậy.
【Lời giải thích: Thế chưa hữu dụng, Sửu chưa thể sinh. 】

+ Nhâm Dần, Quý Mão là Kim Bạc kim —— Dần Mão là đất mộc vượng, mộc vượng thì kim thừa. Mà kim tuyệt ở Dần, thai ở Mão, kim đã không có lực, cho nên viết là Kim Bạc kim ( kim mỏng manh). Khí ở Dần, thì kim là tuyệt địa, mới nói suy nhược mà buộc lụa.
【Lời giải thích: Mộc nhiều phí công tổn lực, kim trợ thì cương nghị quả cảm. 】

+ Giáp Thìn, Ất Tị là Phúc Đăng hỏa —— Thìn là giờ ăn, Tị là ban trưa, mặt trời ở Ngọ, cảnh sắc tươi đẹp, chiếu sáng khắp thiên hạ, cho nên viết là Phúc Đăng hỏa (ngọn đèn dầu bao phủ). Ly vàng lung linh tỏa sáng, bục ngọc xinh đẹp, Nhật Nguyệt chiếu nơi không chiếu, lúc trời đất không sáng tỏ.
【Lời giải thích: khí hình cùng địa thế thành lập mới cao. 】

+ Bính Ngọ, Đinh Mùi là Thiên Hà thủy —— Bính Đinh thuộc hỏa, Ngọ là đất hỏa vượng, mà nạp âm là thủy, thủy từ hỏa xuất ra, không phải dãi Ngân hà nhà Hán thì không có vậy, cho nên viết là Thiên Hà thủy ( nước sông Ngân Hà). Khí đang lên xuống, sung túc nhưng đang mưa dầm, có công cứu giúp sinh vượng.
【Lời giải thích: Kim có thể giúp đỡ ở bên trong tất dày, mộc hỏa cùng hành, thế hỏa khó đảm nhận. 】

+ Mậu Thân, Kỷ Dậu là Đại Dịch thổ —— Thân là Khôn, Khôn là đất; Dậu là Đoài, Đoài là đầm, ao hồ. Mậu Kỷ thổ thêm ở Khôn ở trên đầm, hồ, thổ không phải chỗ khác mỏng manh xốc nỗi, cho nên viết là Đại Dịch thổ (nơi đất rộng lớn). Khí đã trở lại ngừng nghĩ, cho nên nói chỗ vật đang thu vào.
【Lời giải thích: Thổ yên tĩnh âm u mà vững chắc, như con rùa rụt cổ mà thoái lui, đẹp mà vô tích sự. 】

+ Canh Tuất, Tân Hợi là Thoa Xuyến kim —— kim tới Tuất mà suy, tới Hợi mà bệnh, kim đã suy bệnh, thì thành nhu nhược vậy, cho nên viết là Thoa Xuyến kim (cây trâm cài của phụ nữ). Hình đã thành khí, vật trang sức phát sáng, thỏa mãn ở sinh vượng, quý ở hình thể ẩn giấu, hỏa thịnh làm tổn thương hình, cuối cùng là không tốt.
【Lời giải thích: Khí mới ẩn náu, hình thể đã tàn, nung luyện trang sức mà thành hình. 】

+ Nhâm Tý, Quý Sửu là Tang Chá ( âm thanh giống như bị gãy ) mộc —— Tý thuộc thủy, Sửu thuộc kim, phương mộc sinh hỏa, kim thì khắc phạt, giống như phương sinh cây dâu tằm, người liền lấy để đốn chặt, cho nên viết là Tang Chá mộc vậy (cây dâu tằm). Khí ở cong queo, ở vào thủy vậy, không làm phiền đao phủ thi hành.
【Lời giải thích: Hỷ thủy nuôi dưỡng, thấy kim không có công. 】

+ Giáp Dần, Ất Mão là Đại Khê thủy —— Dần là phương Đông vượng, duy chỉ có Mão là chính hướng Đông. Nước chảy chính hướng Đông, thì tính thuận, mà tất cả sông nước ao hồ đều hợp lại mà quy tụ, cho nên viết là Đại Khê thủy. Khí đến dương minh, thế thủy nhờ gốc, cho nên nói nước cuồn cuộn mà chảy về hướng Đông.
【Lời giải thích: Thế hành hướng Đông, nếu nói sông khe suối ao hồ, gặp ác thổ ngăn chặn, thích có kim trợ giúp thêm. 】

+ Bính Thìn, Đinh Tị là Sa Trung thổ —— khố thổ ở Thìn mà tuyệt ở Tị, mà thời gian hỏa Bính Đinh đến Thìn là quan đới, mà lâm quan ở Tị, quân vừa khố tuyệt, vượng hỏa sinh phục hưng, cho nên viết là Sa Trung thổ. Khí thổ khai thông cho nên không thích hợp.
【Lời giải thích: Khí đã nhận dương, đã qua phát sinh, ác hỏa ngại kim. 】

+ Mậu Ngọ, Kỷ Mùi là Thiên Thượng hỏa —— Ngọ là đất hỏa vượng, trong Mùi có mộc lại hồi sinh, tính hỏa viêm thượng lại gặp sinh địa, cho nên viết là Thiên Thượng hỏa. Khí đi qua cung dương, lại gặp cung Ly, kết thành ánh sáng rực rỡ, cho nên nói trên rất nóng mà phát ra ngọn lửa.
【Lời giải thích: Thuận thì cát, nghịch thì họa. 】

+ Canh Thân, Tân Dậu là Thạch Lựu mộc —— Thân là tháng 7, Dậu là tháng 8, lúc này mộc ở tuyệt địa vậy, duy chỉ có quả cây Thạch Lựu mộc lại đầy, cho nên viết là Thạch Lựu mộc. Khí trở về yên tĩnh nghiêm túc, vật dần dần thành quả, thành hạt, mộc ở bên trên kim, cho nên nói là thu hoạch quả trái cây.
【Lời giải thích: Kim nhiều thì tổn, thủy nhuận thì vinh. 】

+ Nhâm Tuất, Quý Hợi là Đại Hải thủy —— thủy quan đới ở Tuất, lâm quan ở Hợi, thủy thì lực dày vậy. Bao gồm cả Hợi là sông lớn, không so với nước ở ao hồ kênh rạch, cho nên viết là Đại Hải thủy. Cho nên nói xu thế ở Thiên Môn, trải qua sự việc đã xong, sinh vượng không lộ ra, tử tuyệt không khô cạn.
【 Lời giải thích: Trăm sông đổ vào biển, trút hết vào biển cả, Tuất gọi là Thiên Môn, Hợi Tý là sông biển lớn. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Thiên can sinh vượng tử tuyệt

12 cung: Trường sinh, Mộc dục, Quan Đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng

Thiên can lần lượt tính từ Trường Sinh đến Dưỡng qua các địa chi:

GIÁP: Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất
ẤT: Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất Dậu Thân Mùi
BÍNH: Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
ĐINH: Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất
MẬU: Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu
KỶ: Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất
CANH: Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn
TÂN: Tý Hợi Tuất Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần Sửu
NHÂM: Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi
QÚY: Mão Dần Sửu Tý Hợi Tuất Dậu Thân Mùi Ngọ Tị Thìn

【Ghi chú 】
+ Trường sinh là nói vật ở lúc phát sinh mà ra, như người được máu huyết của cha mẹ mang thai trong 10 tháng mà sinh ra vậy.
+ Mộc dục chính là mới sinh ra, trên mặt đất là đúng lúc suy nhược, như người smới inh ra được tắm rửa ở trong chậu, chưa có thể nói tốt.
+ Quan đới là vật trưởng thành, có thể được vận dụng, như con người đội nón thắt lưng, đã dùng gánh nhận sự việc.
+ Lâm quan là nói vật thịnh, như con người trưởng thành lớn lên đã có mưu kế mà lập nghiệp được vậy.
+ Đế vượng là nói vật có thể thành lập và duy trì sự nghiệp bền vững, như con người nhận được bổng lộc của vuac, thừa nhận quyền hành đảm nhân vị trí to lớn, tinh thần khỏe mạnh bình an, cho nên hoàn thành.
+ Suy là nói vật đã lão luyện, như tinh huyết con người vị hao tán mà thân thể mệt nhọc vậy.
+ Bệnh là nói vật có ham thích, như mang bệnh trong người mà không thể phục hồi để sử dụng vậy.
+ Thai là nói vật ẩn náu ở bên trong mà chưa nảy sinh, như con người đã nhận khí có thai ở trong bụng mẹ.
+ Dưỡng là nói vạn vật sinh trưởng, như con người ra khỏi bụng mẹ bắt đầu thành người vậy.

Nhưng chỉ nói kim mộc thủy hỏa thổ, ngụ ý là lấy con người vậy.

Nhưng mà gặp trường sinh, quan đới, lâm quan, đế vượng là cát, còn gặp mộc dục, suy, bệnh là không cát vậy. Về phần tử, tuyệt, giống như không có cứu trợ nói thẳng là hung vậy. Bào thai thụ khí cũng là nửa cát, dưỡng cũng giống quay trở lại ban đầu, lý lẽ có thể suy ra.

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Thiên can Ngũ Dương thông biến ( chỉ xem nhật chủ )
Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, 5 can thuộc dương hỷ hợp;
Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là loại Tỉ kiên huynh đệ.
Ất Đinh Kỷ Tân Quý là Kiếp tài là Bại tài, khắc cha cùng vợ.
Bính Mậu Canh Nhâm Giáp là Thực Thần, là Thiên Trù thọ tinh, là nam;
Đinh Kỷ Tân Quý Ất là Thương quan, là Thoái tài, là Hao khí, là cháu trai.
Mậu Canh Nhâm Giáp Bính là Thiên Tài, là thiên thê là thiên thiếp, khắc con trai.
Kỷ Tân Quý Ất Đinh là Chính Tài, Chính Thê, khắc mẫu, là Hợp thần;
Canh Nhâm Giáp Bính Mậu là Thiên Quan, Thất Sát, Quan Quỷ, Tướng tinh.
Tân Quý Ất Đinh Kỷ là Chính Quan, là Lộc Mã, là Vinh thần, là phụ mẫu.
Nhâm Giáp Bính Tuất Canh là Đảo thực, Thiên ấn, Kiêu thần, khắc con gái;
Quý Ất Đinh Kỷ Tân là ấn thụ, chính nhân quân tử, sản nghiệp;

Trong chi Nguyệt lệnh chỗ tàng can chi lấy ngày là chủ, lấy chi tháng kim mộc thủy hỏa thổ làm dụng thần, trong đó lại thủ lấy vượng suy. Như cung Tý nhiều thủ Quý thủy, phải xem ngày sinh như thế nào, nếu sinh từ ngày 1 đến ngày 10, nên lấy Nhâm thủy, từ ngày 11 đến ngày 30 mới lấy Quý thủy, để luận đoán lệnh thần dụng sự, không thể đồng loạt áp dụng, nếu không sẽ không có chuẩn xác. Đưa ra một ví dụ, còn lại theo đó mà suy.

Khắc Ta là Chính Quan Thiên Quan, sinh Ta là Chính ấn Thiên ấn, Ta khắc là Chính Tài Thiên Tài, Ta sinh là Thương quan Thực thần, đồng với Ta là Kiếp tài Bại tài.
【Lời giải thích: Giáp mộc chính là dương mộc, vậy Giáp thấy Giáp là Tỉ kiên, thấy Canh kim là Sát, Tân kim là Quan, Quý thủy là Chính ấn, Nhâm thủy là Thiên ấn, Bính hỏa là Thực thần, Đinh hỏa là Thương quan, Mậu thổ là Thiên Tài, Kỷ thổ là Chính Tài, đều lấy dương thấy âm là Chính, dương thấy dương là Thiên. Đưa ra ví dụ này, còn lại cứ suy ra. 】

Thiên can Ngũ Âm thông biến ( chỉ xem nhật chủ)
Ất Đinh Kỷ Tân Quý 5 can thuộc âm, thì thích xung.
Ất Đinh Kỷ Tân Quý là Tỉ kiên, huynh đệ, bằng hữu.
Bính Mậu Canh Nhâm Giáp là Thương quan, tiểu nhân, cướp khí, là cháu.
Đinh Kỷ Tân Quý Ất là Thực thần, Thiên trù Thọ tinh, con cháu;
Mậu Canh Nhâm Giáp Bính là Chính Tài, chính thê, khắc mẫu.
Kỷ Tân Quý Ất Đinh là Thiên Tài, Thiên thê, thiên thiếp, khắc con trai;
Canh Nhâm Giáp Bính Tuất là Chính Quan, Lộc Mã, khắc cha mẹ;
Tân Quý Ất Đinh Kỷ là Thiên Quan, Thất Sát là quan quỷ, người mai mối.
Nhâm Giáp Bính Mậu Canh là ấn thụ, chính nhân quân tử, kị sát;
Quý Ất Đinh Kỷ Tân là Đảo thực, Thiên ấn, Kiêu thần, khắc mẹ.
Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là Bại tài, là Trục mã, khắc vợ.
【Lời giải thích: Ngũ âm là phép thông biến, Tử Bình lấy chỗ ngày sinh con người làm chủ, như ngày Ất mộc thấy Canh là Quan, thấy Tân là Sát, thấy Bính là Thương quan, thấy Đinh là Thực thần, thấy Mậu là Chính Tài, thấy Kỷ là Thiên Tài, thấy Nhâm là Chính ấn, thấy Quý là Kiêu thần, thấy Giáp là Kiếp tài, thấy Ất là Tỉ kiên, đưa ra ví dụ như vậy, còn lại suy ra. Dương thấy dương là Thiên, dương thấy âm là Chính, âm thấy âm là Thiên, âm thấy dương là Chính. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận quy tắc khởi tháng từ năm

Năm Giáp Kỷ thủ lấy Bính,
Năm Ất Canh lấy Mậu làm đầu,
Năm Bính Tân tìm ở trên Canh,
Năm Đinh Nhâm lấy Nhâm thuận hành,
Nếu nói Mậu Quý khởi phương nào?
Ở trên Giáp Dần tìm là đúng.

Phép này như sinh năm Giáp Kỷ, ở trên tháng khởi từ Bính Dần, lấy tháng giêng là tháng Bính Dần, tháng hai là Đinh Mão, cứ đếm thuận mà đi, tới chỗ tháng sinh thì dừng lại, một tháng một vị mà thuận hành.

Luận quy tắc khởi giờ theo ngày
Giáp Kỷ hoàn gia giáp,
Ất Canh Bính tác sơ,
Bính Tân tòng Mậu khởi,
Đinh Nhâm Canh Tý cư,
Mậu Quý hà phương phát?
Nhâm Tý thị chân đồ.
Phép này lấy ngày Giáp Kỷ theo giờ khởi từ Giáp Tý, đếm tới giờ sinh dừng lại. Còn lại theo đó mà suy.
【Lời giải thích: Lấy ngày sinh Giáp Tý khởi ở Tý, như ngày Giáp Tý giờ Ngọ ở trên Tý khởi Giáp Tý, ở trên Sửu khởi Ất Sửu, ở trên Dần khởi Bính Dần, còn lại giống như vậy mà tính. 】

Luận phép khởi Thai Nguyên
Thai Nguyên, là tháng thụ thai vậy.
Tử Bình có viết: Trước tiên suy từ Thai tức, tiếp theo là đoán lẽ biến thông, sinh mệnh không thể không dùng chỗ quy tắc này vậy. Phép suy vốn chỉ có dựa theo trước tháng sinh bốn vị là đúng vậy. Phép này như tháng Kỷ Tị, thì ở trước Thân là Thai, lại đếm lui một vị, ở trên Mùi đem chữ Kỷ thiên can tháng sinh, hoán đổi khởi là Kỷ Mùi, đếm tới Canh Thân, chính là tháng thụ thai vậy. Còn lại theo cách này suy ra.

Luận phép khởi Thai tức
Lấy ở trên thiên can nhật chủ chỗ xứ hợp, xứ địa chi hợp là đúng.
Ví dụ như người sinh ngày Giáp Tý, thiên can trụ năm tháng giờ có chữ Kỷ, chính là Giáp và Kỷ hợp. Lại lấy địa chi trụ năm tháng giờ có chữ Sửu, tức là Kỷ Sửu vậy. Còn lại theo chỗ này mà suy ra, chính là Thai Tức vậy.
【Ghi chú: Như suy đoán quý mệnh trước tiên suy đoán Thai Tức tốt hay xấu, nếu sinh phù là quý, tương khắc là bần. 】

Luận khởi biến pháp
Lấy thiên can trụ giờ chỗ hợp xứ, địa chi ở dưới trụ giờ hợp xứ.
Ví dụ như giờ Bính Dần, lấy thiên can Bính và Tân hợp, địa chi Dần và Hợi hợp, tức là Tân Hợi vậy. Như trong trụ thiên can không có chữ Tân, địa chi không có chữ Hợi, chỉ đúng là Hư Yêu, bất tất phải câu nệ.
【Ghi chú: Phương pháp này, thầy thời nay hiếm thấy, không biết ý nghĩa này, sao có thể cùng sĩ phu đoán mệnh chứ. 】

Luận khởi thông pháp
Ví dụ như sinh tháng Giáp Tý giờ Dần, an mệnh ở trên Mão. Lấy năm Giáp Kỷ lấy chữ Bính là tháng Bính Dần, tức Đinh Mão là thông. Phương pháp này lấy Dần Mão tương thông, Thìn Tị tương thông, Ngọ Mùi tương thông, Thân Dậu tương thông, Tuất Hợi tương thông, Tý Sửu tương thông là đúng vậy.
【Ghi chú: Thông, là thông khí ở trong tháng, mà xuyên suốt nhau, vậy Dần Mão Mùi là khí tương thông. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận khởi Ngọc Đường Thiên Ất quý nhân
Giáp Mậu kiêm Ngưu Dương,
Ất Kỷ Thử Hầu hương,
Bính Đinh Trư Kê vị,
Nhâm Quý Thỏ Xà tàng,
Canh Tân phùng Mã Hổ,
Thử thị Quý nhân phương,
Mệnh trung như ngộ thử,
Định tác Tử vi lang.
Thập can đến thập chi đều là phương chỗ đến Quý nhân, duy chỉ có hai cung Thìn Tuất là không đến phương Quý nhân, không biết rằng Thìn Tuất là đất của ác tinh Khôi Cương, Thiên Ất quý nhân không đến, cho nên không là quý vậy.
【 Ghi chú: Quý nhân chính là thần ở trên trời, cho nên viết là Thiên Ất, chỗ phương đến có Ác sát là hỗn tạp, xung lạc đất Không Vong, cho nên không quý vậy. 】
Chú thích: Ngưu (là Sửu), Dương (Mùi), Thử (Tý), Hầu (Thân), Trư (Hợi), Kê (Dậu), Thỏ (Mão), Xà (Tỵ), Mã (Ngọ), Hổ (Dần), Long (Thìn), Khuyển (Tuất).

Khởi Thiên Quan quý nhân
Thiên Quan độn Giáp nhập Dương quần,
Ất hối Thanh Long sự khả trần,
Bính kiến Tị hề vi Quan quý,
Đinh kiến Dậu hề Mậu Tuất tầm,
Kỷ dụng Mão hề Canh nghi hợi,
Tân hỉ Thân hề Nhâm ái Dần,
Lục Quý chi nhân phùng kiến Ngọ,
Tất tác triêu đình hiển đại nhân.
Phương pháp này lấy can năm sinh mà luận. Sinh năm Giáp Thân thấy đúng Mùi, nếu thấy ở trụ giờ là rất tốt.
【Ghi chú: Thiên Quan cần Thiên nguyên thanh tú, không phản thương, cùng nạp âm mà có phúc thần trợ giúp, đúng là tốt vậy. Phúc thần là Tài Quan Ấn vậy. Gặp ác sát là không tốt. 】

Luận Thái Cực quý nhân
Giáp Ất sinh nhân Tý Ngọ trung,
Bính Đinh Kê Thỏ định hanh thông,
Mậu Kỷ lưỡng can lâm tứ quý,
Canh Tân Dần Hợi lộc doanh phong,
Nhâm Quý Tị Thân thiên hỉ mỹ,
Trị thử ứng đương phúc khí chung,
Canh tu quý cách tương phù hợp,
Phong hầu vạn hộ liệt tam công.
Phương pháp này là lấy năm sinh làm chủ, không lấy can thì không phải vậy.
【Ghi chú : Thái Cực là lúc khởi đầu vậy. Vật tạo ra ở lúc ban sơ nói là Cực, là thu lấy thành quả vậy. Vật có trở về viết là Cực, quý ở giữ gìn thủy chung cho nhau vậy. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Tam Kỳ quý nhân

Trên Thiên Tam Kỳ Giáp Mậu Canh,
Dưới Địa Tam Kỳ Ất Bính Đinh,
Giữa Nhân Tam Kỳ Nhâm Quý Tân.

Giáp Mậu Canh lấy Giáp là ngày, lấy Mậu là tháng, lấy Canh là Tinh, đã có Nhật Nguyệt Tinh, địa chi cần gặp Tuất Hợi là Thiên Môn, phương mới thành. Nếu không có Tuất Hợi, cần có Nhật Nguyệt Tinh mà không có Thiên Môn, thì không thành vậy. Còn có Thiên Môn, nếu có Sửu Mão Dậu Tị lại không thành. Trong Dần có sao Ki chủ về gió, trong Dậu có sao Tất chủ mưa, Sửu Mão là sấm gió, thì Tam Kỳ mất sáng, là không gặp thời vậy. Dưới Địa có Tam Kỳ, Ất là âm mộc Khôi tinh, Bính là vua dương hỏa, Đinh là sao âm hỏa, chỗ này Địa có thành kỳ. Phải dụng Ất, Ất thuộc Khôn thổ, nếu không có thì không tốt.
【Ghi chú : Trình Tư viết "Tam tinh phải thuận, đảo loạn là không phải, thì Thái dương sẽ thành mục nát vậy" . 《 Hồ Trung Tử 》 viết: "Tam Kỳ đảo loạn, Lã Vọng là vua đầu óc chuyên danh lợi" . 】
Nhật là Mặt trời, Nguyệt là Mặt Trăng, Tinh là các vì sao.

Luận Nguyệt Đức quý nhân
Tháng Dần Ngọ Tuất ở Bính; tháng Thân Tý Thìn ở Nhâm; tháng Hợi Mão Mùi ở Giáp; tháng Tị Dậu Sửu ở Canh.
Phương pháp này khởi từ Dần, Bính Giáp Nhâm Canh, tháng lần lượt đếm thuận, xoay vòng mà trở lại ban đầu, cũng cần thấy ở trên ngày, lại có Phúc thần trợ giúp là tốt.
【Ghi chú : Dần Ngọ Tuất Bính là hòa thuận, tháng 1, 5, 9; Thân Tý Thìn Nhâm là hòa thuận, tháng 3, 7, 11; Hợi Mão Mùi Giáp là hòa thuận, tháng 2, 6, 10; Tị Dậu Sửu Canh là hòa thuận, tháng 4, 8, 12. 】

Luận Nguyệt Đức hợp
Tháng Dần Ngọ Tuất ở Tân, tháng Thân Tý Thìn ở Đinh, tháng Hợi Mão Mùi ở Kỷ, tháng Tị Dậu Sửu ở Ất.
Phép này khởi từ Dần, vị trí Tân Kỷ Đinh Ất lần lượt đếm thuận.

Luận Thiên Đức quý nhân
Chính Đinh nhị Khôn trung,
Tam Nhâm tứ Tân đồng,
Ngũ kiền lục giáp thượng,
Thất Quý bát Dần đồng,
Cửu Bính thập quy Ất,
Tý Tốn Sửu Canh trung.
( 1 Đinh 2 thấy Khôn, 3 Nhâm 4 Tân đồng,5 Càn 6 đến Giáp,7 Quý cùng 8 Dần,9 Bính 10 quy Ất,Tý Tốn Sửu Canh thành).
Phép này lấy tháng sinh phân ra, người sinh tháng 1 thấy Đinh, tháng 2 thấy Thân là đúng vậy ( Thân thuộc cung Khôn).
【Ghi chú : Quý nhân ở trụ năm tháng, là có lợi cho cha mẹ, ở trụ ngày giờ thì có lợi cho bản thân.】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Thiên Trù quý nhân
Giáp Bính ái hành Song Nữ du,
Ất Đinh Sư Tử Kỷ Kim Ngưu,
Mậu tọa Mộc Dương Canh ngư Phúc,
Nhị thiên thạch lộc tọa hoàng châu,
Quý dụng Thiên Hạt Nhâm nhân Mã,
Tân đáo Bảo Bình lộc tự do,
Thử thị Thiên Trù chú Thiên Lộc,
Lệnh nhân phúc tuệ lưỡng ưu du.
【Ghi chú : Chỗ này là lúc lấy Giáp mộc sinh Bính là Thực, Bính lộc ở Tị, cho nên lấy Tị là lộc, giống như con ăn lộc của cha vậy. 】

Luận Phúc Tinh quý nhân
Giáp Bính tương yêu nhập Hổ hương,
Canh du Thử huyệt tối cao cường,
Mậu Hầu Kỷ Mùi Đinh nghi Hợi,
Bính nhân duy hỉ Tuất trung tàng.
Canh sấn Mã đầu Tân đáo Tị,
Nhâm kỵ Long bối hỉ phi thường,
Canh hữu Đinh nhân ái tầm Dậu,
Quý Ất nghi Ngưu Mão tự xương.
【Ghi chú : Chỗ này là lấy Giáp Thực Bính, lấy Giáp độn mộc, nếu được Bính Dần tức là Phúc tinh quý nhân, chủ đại lợi. Còn lại theo chỗ này mà suy. 】

Luận Tam Nguyên
Ví dụ như Giáp Tý, lấy Giáp mộc là Thiên nguyên, Tý là Địa nguyên, trong Tý chỗ tàng Quý thủy là Nhân nguyên.

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Thập Can Lộc
Giáp Lộc ở Dần, Ất lộc ở Mão, Bính Mậu lộc ở Tị, Đinh Kỷ lộc ở Ngọ, Canh lộc ở Thân, Tân lộc ở Dậu, Nhâm lộc ở Hợi, Quý lộc ở Tý.
Nói về Lộc là lấy chỗ thiên can địa chi ở đất vượng. Như Giáp lộc ở Dần, là địa chi ở Đông phương Giáp Ất; Thìn, Dần, Mão phối hợp, còn lại đều như vậy mà suy. Thìn Tuất Sửu Mùi là Thiên Cương ác sát, lộc thần không đến vậy.
Phàm mệnh người mang lộc, hoặc hung hoặc cát, hoặc quý hoặc tiện, lấy gì mà luận?
《 Thiên ất Diệu chỉ 》nói:
Lộc Mã quý nhân vô chuẩn thác,
Khảo cứu ngũ hành chi thiện ác,
Thiên nguyên luy nhược vị vi tai,
Địa khí kiên lao túc hoan nhạc.
《 Nguyên Tủy ca 》nói:
Lộc Mã canh hữu đa bàn thuyết,
Tự suy tự tử kiêm bại tuyệt.
Nhược vô cát sát gia trợ thì,
Định tri phá tổ đa phù liệt
【Ghi chú : Lộc là có được tước lộc vậy, được giàu có chính gọi là Lộc. Tối hỷ sinh vượng, tối kị hưu tù, như có lộc thì cần phải có Dương Nhận để bảo vệ mới nói là phúc. 】

Luận Dịch Mã
Thân Tý Thìn Mã ở Dần; Dần Ngọ Tuất Mã ở Thân; Tị Dậu Sửu Mã ở Hợi; Hợi Mão Mùi Mã ở Tị.
Phương pháp này lấy thủy sinh ở Thân, bệnh ở Dần mộc. Thủy sinh mộc, mộc là chỗ thủy tử, chỗ này chính là xứ bệnh thấy tiếp đến tử. Như người bệnh không thể tiến, chờ đón tiếp tử, giống như đến tiếp Dịch Mã. Còn lại theo chỗ này mà suy.
【Ghi chú : Có Ngựa thì cần phải có An (yên Ngựa), tất phải có Lan mới tốt. Không có An thì không thể cưỡi, không có Làn thì không thể dừng lại, đều là vô dụng vậy. Trước Mã là Lan, sau Mã là An.】

Luận Thiên Xá
Mùa Xuân là Mậu Dần, mùa Hạ là Giáp Ngọ, mùa Thu là Mậu Thân, mùa Đông là Giáp Tý. Phàm can ngày người sinh gặp là phương đắc dụng.
【Ghi chú : Sao này chuyên giải cứu tai họa. 】

Luận Hoa Cái
Dần Ngọ Tuất thấy Tuất, Tị Dậu Sửu thấy Sửu, Thân Tý Thìn thấy Thìn, Hợi Mão Mùi thấy Mùi.
Hoa Cái vốn là tốt, phàm trong mệnh con người gặp, đa số là chủ cô quả, dù có quý cũng không tránh khỏi cô độc vậy, đa số gặp là luận là tăng đạo. 《 Hồ Trung Tử 》nói: Hoa Cái là sao nghệ thuật, chủ cô quả.
【Ghi chú : Sao này giống như cái lộng dù che cho vua chúa. 】

Luận Thập Can Học Đường
Mệnh Kim thấy Tị, chính là Tân Tị; mệnh Mộc thấy Hợi, chính là Kỷ Hợi; mệnh Thủy thấy Thân, chính là Giáp Thân; mệnh Thổ thấy Thân, chính là Mậu Thân; mệnh Hỏa thấy Dần, chính là Bính Dần.
【Ghi chú : Người có sao này chủ thông minh, thông đạt, đăng khoa cập đệ. Phạm Không Vong, là làm nghề dạy học. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Thập Can Thực Lộc
Giáp Thực là Bính, Ất Thực là Đinh, Bính Thực là Mậu, Đinh Thực là Kỷ, Mậu Thực là Canh, Kỷ Thực là Tân, Canh Thực là Nhâm, Tân Thực là Quý, Nhâm Thực là Giáp, Quý Thực là Ất.
Ca viết:
Đương thời muốn biết tên Thực thần,
Người Giáp Thực Bính, người Ất Đinh,
Bính Thực Mậu này Đinh Thực Kỷ,
Kỷ Thực Tân này Mậu Thực Canh,
Canh Nhâm Tân Quý hỷ Thiên tướng,
Nhâm Giáp Quý Ất nhất vinh quang,
Nếu gặp Thực thần kỵ Lộc Mã,
Tất chỗ hào phú lập công danh.
Thực đừng Không Vong, Dương Nhận, Sát,
Thực đừng hưu tù cùng tử tuyệt.
Thực sinh Thực vượng, Thực quý thần,
Thực Ấn Thực Tài càng ưu việt.
Nếu như tìm hiểu được chính xác,
Thực Lộc Thiên Trù không dừng lại.
【Ghi chú : Thực Thần là con do Ta sinh ra vậy, như Giáp mộc sinh Bính hỏa gọi là Thực thần, vượng thì chủ thân thể mập mạp rất thích ăn uống. 】

Luận Kim Dư Lộc
Thập can trước Lộc hai vị là đúng. Như Giáp lộc ở Dần, ở trên Thìn là đúng, còn lại suy ra.
【Ghi chú : Gặp sao này chủ mang đến cho vợ của cải, tiền tài. 】

Luận Củng Lộc
Ví như người sinh Mậu Thìn thấy Bính Ngọ, người sinh Bính Ngọ thấy Mậu Thìn; người sinh Đinh Tị thấy Kỷ Mùi, người sinh Kỷ Mùi thấy Đinh Tị. Trước sau củng nhau, chỗ này chỉ có bốn vị, còn lại thì không phải.
【Ghi chú : Mậu Bính lộc ở Tị, Thìn Ngọ hư củng Tị lộc, kị thấy điền thực, chỉ cần Hư là quý. 】

Luận Giao lộc
Ví như người sinh Giáp Thân thấy Canh Dần, người sinh Canh Dần thấy Giáp Thân, vì Giáp lộc ở Dần, Canh lộc ở Thân, hoán đổi qua lại với nhau.

Luận Ám lộc
Ví như người sinh Giáp gặp Hợi, vì Giáp lộc ở Dần, Dần và Hợi hợp. Người sinh Ất gặp Tuất, vì Ất lộc ở Mão, Mão và Tuất hợp là đúng. Còn lại theo chỗ này mà suy.
【Ghi chú : Chỗ này tứ trụ không có lộc, lại thành quý mệnh, là bởi vì ám tàng Lộc Mã, con người không thể thấy, là đại quý. 】

Luận Giáp lộc
Ví như người sinh Giáp gặp đúng Sửu Mão. Vì Giáp lộc ở Dần, trước có Sửu, sau có Mão. Người sinh Ất gặp đúng Dần Thìn, Ất lộc ở Mão, trước có Thìn, sau có Dần. Còn lại theo chỗ này mà suy.

Luận Viên Thành
Viên Thành chủ cung Thê cùng hợp với Dịch Mã, chủ dâm dục. Phương pháp này lấy ở trên thiên can ngày trường sinh là đúng. Như sinh ngày Giáp Thìn trường sinh ở giờ Hợi, Giáp trường sinh ở Hợi, Thân Tý Thìn Mã ở Dần, tức là Hợi và Dần hợp vậy.
【Ghi chú : Tử Bình nói rằng: Viên Thành hợp Mã là vợ phạm pháp, chủ có vợ bỏ nhà theo trai, không thể không truy cứu. 】

Luận Đế Tọa
Phương pháp này lấy trụ giờ nạp âm đúng ở xứ vượng vậy. Như giờ Giáp Tý, nạp âm thuộc kim, kim vượng ở Dậu, tức là ở trên Dậu vậy. Còn lại theo đó mà suy. Đế tọa chủ ở cung Tử tức vậy.
【Ghi chú : Tử Bình nói: Đế Tọa gặp Hư thì con cái không ra gì, cho nên là nói như vậy.】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Lục Giáp Không Vong
Trong tuần Giáp Tý không có Tuất Hợi; trong tuần Giáp Tuất không có Thân Dậu; trong tuần Giáp Thân không có Ngọ Mùi, trong tuần Giáp Ngọ không có Thìn Tị; trong tuần Giáp Thìn không có Dần Mão; trong tuần Giáp Dần không có Tý Sửu.
Không Vong, còn gọi là Thiên Trung Sát. Giáp Tý thuộc kim, đến Dậu mà đủ 10 can vậy, vì độc nhất không có Tuất Hợi, nên gọi là Không Vong. Dương Không gọi là Không, âm Không gọi là Vong. Tuất gọi là Không, Hợi gọi là Vong, đối cung Thìn Tị gọi là Cô Hư. Còn lại theo chỗ này mà suy.
【Ghi chú : Không Vong đối cung là Cô Hư, hỏa Không thì phát, thủy Không thì bỏ, kim Không thì vang, mộc Không thì gãy, thổ Không thì sụp. 】

Luận Tiệt lộ Không Vong
Giáp Kỷ Thân Dậu ưu sầu nhất,
Ất Canh Ngọ Mùi không nên cầu,
Bính Tân Thìn Tị hỏi sao phiền?
Đinh Nhâm Dần Mão công dã tràng,
Mậu Quý Tý Sửu vua phải nhớ,
Cuộc đời chỗ này nhiều ưu phiền,
Đột nhiên lại được gặp phải Thai,
Trâm cài tóc bạc khổ không ngừng.
Lấy ngày áp dụng thấy ở trụ giờ là đúng, lấy năm luận ở ngày giờ là không phải vậy. Ngày Giáp Kỷ độn trong 12 giờ, Nhâm Quý là thủy thấy ở trên 2 giờ Thân và Dậu, cho nên Giáp Kỷ thấy Thân Dậu là vậy, còn lại suy ra theo chỗ này. Ví dụ như ngày Giáp Tý thấy giờ Thân Dậu chính là đúng phạm, còn lại đều là không phải vậy. Chỗ này không phải là Không Vong nhưng thấy ở trong mệnh là không tốt, cho đến trăn việc, cầu tài quan đều bất lợi vậy.
【Ghi chú : Tiệt lộ giống như con người ở trên đường lộ, gặp nước thì không thể tiến lên phía trước, không thể có cứu giúp, cho nên viết là Tiệt lộ Không vong. 】

Luận Tứ Đại Không Vong
Giáp Tý cùng Giáp Ngọ, trong tuần thủy tuyệt chảy, Giáp Dần cùng Giáp Thân, khí kim khó cầu.
Trong Lục Giáp chỉ có trong hai tuần Giáp Thìn, Giáp Tuất, có đủ kim mộc thủy hỏa thổ. Ở bên trong tuần Giáp Tý, Giáp Ngọ đơn độc không có thủy, tuần Giáp Dần, Giáp Thân không có kim. Ở trong bốn tuần này, ngũ hành không đủ, gọi là Tứ Đại Không Vong. Như tuần Giáp Tý, Giáp Ngọ, chủ người thấy thủy gọi là chính phạm. Như ở trong mệnh không phạm, hành vận đến đất thủy thỉ cũng là phạm vậy. Tuần Giáp Thân, Giáp Dần cũng luận giống như vậy.
【Ghi chú : Chỗ này chủ là chết yểu, 《 Hồ Trung Tử 》 viết: Nhan Hồi chết yểu, chỉ vì gặp Tứ đại Không vong. 】

Luận Thập ác Đại bại

Giáp Thìn, Ất Tị cùng Nhâm Thân; Bính Thân, Đinh Hợi cùng Canh Thìn; Mậu Tuất, Quý Hợi thêm Tân Tị, Ất Sửu đều đến 10 vị thần.
Dụng binh cứu quốc nên đại kị,
Rồng Rắn rời hang cũng khó thân,
Sinh mệnh nếu vẫn gặp ngày này,
Kho tàng vàng bạc hóa thành tro.
Thập ác là hung vậy. Đại bại là sợ địch vậy. Nói trong tuần lục Giáp, có 10 ngày lộc gặp nhập Không Vong, 10 ngày này gọi là Đại bại, cho nên viết là Thập ác Đại bại. Trong mệnh phạm, phương nên lấy nhật chủ thấy là đúng. Còn lại nếu thấy, không có thể liền lấy Thập Ác luận. Nếu có cát thần phù trợ thì hơi tốt. tại sao gọi là Lộc nhập Không vong? Như Giáp Thìn, Ất Tị, Giáp lấy Dần là lộc, Ất lấy Mão là lộc, vì Giáp Thìn lộc lấy Dần Mão mộc là Không vong, gặp chỗ này gọi là Lộc nhập Không vong, là lấy bại vậy. Nhâm Thân, Nhâm lấy Hợi là lộc, tuần Giáp Tý lấy Hợi là Không vong, là lấy bại vậy. Còn lại theo chỗ này mà suy ra.
【Ghi chú : Lấy ở trên can ngày thấy là đúng phương, tứ trụ có nhiều cát thần, thân vượng vẫn hơi có tốt, không thể liền lấy Thập Ác mà luận. 】

Luận ngày Tứ Phế
Mùa Xuân có Canh Thân ( Kim tù tử ), mùa Hạ có Nhâm Tý ( Thủy tù tử ), mùa Thu có Giáp Dần ( Mộc tù tử ), mùa Đông có Bính Ngọ ( hỏa tù tử ).
Bởi vì vị trí tử, tù mà phế bỏ, vô dụng. Mùa Xuân là mộc thần dụng sự, kim tù mà vô dụng, cho nên lấy Canh kim là Phế. Mùa Hạ dụng hỏa mà Nhâm thủy là Phế. Mùa Thu dụng kim mà Giáp mộc là Phế. Mùa Đông dụng thủy mà Bính hỏa là Phế. Phàm trong mệnh có gặp, chủ sự việc không thành, cần phân ra bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông xem mới chuẩn.
【Ghi chú : mệnh kim lấy Xuân thấy Canh Tân, mùa Hạ thấy Nhâm Quý, mùa Thu thấy Giáp Ất, mùa Đông thấy Bính Đinh đều gọi là Phế, đều phạm vậy. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Thiên Địa chuyển Sát
Xuân Mão Hạ Ngọ Thiên địa chuyển,
Thu dậu Đông Tý liền thành tai.
Người đi trên đường phải lo chết,
Làm nhà chưa thành lo tang trước.
Vật cực mà phản gọi là Chuyển,
Vượng ở thiên can viết Thiên chuyển,
Vượng ở nạp âm viết Địa chuyển.

Gọi là Thiên Địa chuyển. Như mùa Xuân mộc vượng, thấy Ất Mão chính là Thiên nối Thiên, gọi là Thiên chuyển. Thấy Tân Mão chính là nạp âm vượng liên tục, gọi là Địa chuyển. Mùa Hạ là hỏa vượng, thấy Bính Ngọ gọi là Thiên chuyển, thấy Mậu Ngọ là Địa chuyển. Mùa Thu chính là kim vượng, thấy Tân Dậu gọi là Thiên chuyển, thấy Quý Dậu là Địa chuyển. Mùa Đông là mùa thủy vượng, thấy Nhâm Tý gọi là Thiên chuyển, Bính Tý gọi là Địa chuyển. Địa chuyển lấy nạp âm là chính, là ngày tối kị, kiến quan nhận chức, xuất hành, mua bán, tạo việc làm, giá thú, chắc chắn sẽ gặp hung. Mệnh gặp ngày này, tất chủ chết yểu.
【Ghi chú : Xuân Ất Mão là Thiên chuyển, mùa Hạ Bính Ngọ, mùa Thu là Tân Dậu, mùa Đông là Nhâm Tý; mùa Xuân Tân Mão là Địa chuyển, mùa Hạ là Mậu Ngọ, mùa Thu là Quý Dậu, mùa Đông là Bính Tý. Kinh viết: Hàn Tín bị thương, chỉ vì do Thiên Địa chuyển Sát. 】

Luận Thiên La, Địa Võng
Thìn là Thiên La, Tuất là Địa Võng, lại là chỗ chiếm của Khôi Cương, là đất Thiên Ất quý nhân không đến vậy.
Tại sao thấy Tuất và Hợi gọi là Thiên La, Thìn và Tị gọi là Địa Võng?
Phàm người mệnh hỏa gặp Tuất Hợi thì gọi là Thiên La, người mệnh thủy thổ gặp Thìn Tị thì gọi là Địa Võng, chính là xứ ngũ hành mộ tuyệt vậy, chính là vị trí ám muội không rõ ràng. Nếu mệnh kim mộc, không có nói là Thiên la Địa võng. Nam kị Thiên La, nữ kị Địa Võng. Phần đa chủ trì trệ, thêm ác sát chắc chắn dẫn tới tử vong.
【Ghi chú : Tuất Hợi gọi là Thiên La, Thìn Tị gọi là Địa Võng. Duy chỉ có mệnh thủy hỏa thổ là kị, mệnh kim mộc thì không phạm. Nam kị Thiên la, nữ kị Địa võng. 】

Luận Dương Nhận Âm phi Nhận, đối cung Dương Nhận tức là Phi Nhận
Người sinh Giáp, Dương Nhận ở Mão, Dậu là Phi Nhận; người sinh Ất, Dương Nhận ở Thìn, Tuất là Phi Nhận; người sinh Bính, Dương Nhận ở Ngọ, Tý là Phi Nhận; người sinh Đinh, Dương Nhận ở Mùi, Sửu là Phi Nhận; người sinh Mậu, Dương Nhận ở Ngọ, Tý là Phi Nhận; người sinh Kỷ, Dương Nhận ở Mùi, Sửu là Phi Nhận; người sinh Canh, Dương Nhận ở Dậu, Mão là Phi Nhận; người sinh Tân, Dương Nhận ở Tuất, Thìn là Phi nhận; người sinh Nhâm, Dương Nhận ở Tý, Ngọ là Phi Nhận; người sinh Quý, Dương Nhận ở Sửu, Mùi là Phi Nhận.
Dương, là chủ cương. Nhận là chủ hình. Qua Lộc thì sinh Nhận, công thành nên thoái, không thoái chính là mê muội mà tiến vậy. Nói tiến mà gặp Thương quan, nên Dương Nhận ở trước lộc một thần, gọi là vật cực thì suy vậy.
【Ghi chú : 《 Hồ Trung Tử 》nói: Phàm người có Lộc tất phải dựa vào Nhận để bảo vệ.
Nhất Hành thiện sư viết: Dương Nhận trùng trùng lại kiến lộc, phú quý đầy vàng ngọc. Vì lấy ở thiên can năm mệnh chủ chinh chiến, sinh mệnh chủ ở chiến phạt, kẻ tiểu nhân chủ hành nghề đồ tể. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận phép khởi đại vận
Phàm khởi đại vận, đều theo chỗ ngày sinh, dương nam âm nữ thì thuận hành, đếm tới Tiết sắp đến. Dương nữ âm nam thì nghịch hành, đếm đến tiết đã qua, nhưng chia cho 3 ngày thành một năm.

+ Dương nam âm nữ thì thuận vận, ví dụ như năm Giáp Tý, năm Giáp Kỷ lấy Bính thủ, tháng giêng là thấy Bính Dần, nam sinh sau một ngày, đếm thuận tới tháng 2 là tiết Kinh Chập, mà được 30 ngày, khởi vận lúc 10 tuổi, thuận hành là Đinh Mão. Như năm Ất Sửu, năm Ất Canh lấy đầu là Mậu, tháng giêng khởi từ Mậu Dần, mùng 1 là Lập Xuân, nữ sinh ngày 18, đếm thuận tới tháng 2 tới tiết Kinh Chập dừng lại, được 4 lần 3 là 12 ngày, khởi vận lúc 4 tuổi, thuận hành đến Kỷ Mão. Còn lại suy theo cách này.

+ Âm nam dương nữ thì nghịch vận. Ví dụ như năm Ất Sửu, tuổi Ất Canh lấy can đầu là Mậu, tháng giêng khởi ở Mậu Dần, sau ngày mùng 1 là Lập Xuân nam sinh ngày 15. Đếm nghịch tới ngày 1 tiết Lập Xuân, được 3 lần 5 là 15 ngày, khởi vận lúc 5 tuổi, vận hành Đinh Sửu. Như sinh năm Giáp Tý, tuổi Giáp Kỷ lấy Bính làm đầu, tháng giêng là Bính Dần, nữ sinh sau ngày Lập Xuân 10 ngày, đếm nghịch tới ngày mùng 1 Lập Xuân dừng lại, được 9 ngày, 3 lần 3 là 9 ngày, khởi vận lúc 3 tuổi, nghịch hành đến Ất Sửu. Còn lại theo chỗ này mà suy ra. Nếu thừa 1 ngày, trừ đi 1 ngày; thiếu một ngày, thêm một ngày.
【Ghi chú : Như sinh giờ Ngọ ngày mùng 1, nếu giờ Mão là Lập Xuân, thì lấy tháng giêng; nếu sinh giờ Dần, giờ Mùi giao Xuân, vẫn còn tiết tháng 12 của năm trước mà suy đoán mệnh. Như sinh giờ Tý đầu tháng giêng, sinh giờ Tý ban đêm trước 4 khắc ( 1 khắc bằng 15 phút) vẫn lấy tháng 12 năm trước, giờ Tý sau 4 khắc suy ra lấy ngày đầu tháng giêng năm nay. Chính là nói thần tiên khó đoán giờ Tý ban đêm. 】

Luận phép hành Tiểu Vận
Phàm Tiểu Vận không nói 2 mệnh âm dương, nam một tuổi khởi ở Bính Dần, 2 tuổi thuận hành đến Đinh Mão. Tiệt pháp: 11 tuổi khởi Bính Tý, 21 tuổi khởi Bính Tuất, cứ xoay vòng mà trở lại ban đầu. Nữ một tuổi khởi từ Nhâm Thân, 2 tuổi nghịch hành khởi từ Tân Mùi. Tiệt pháp: 1 tuổi Nhâm Thân, 11 tuổi Nhâm Tuất, 21 tuổi Nhâm Tý, cứ xoay vòng mà trở lại ban đầu.
【Ghi chú : Phép Tiểu Vận, nam theo phương Bính Dần, lấy nghĩa Tam Dương, nữ theo Nhâm Thân, là theo nghĩa Tam âm. Một năm 1 tuổi, nam thuận nữ nghịch, đếm hết một Hoa Giáp trở lại ban đầu. 】

Luận ngũ hành tương sinh tương khắc
+ Luận ngũ hành tương sinh: Kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim.
+ Luận ngũ hành tương khắc: Kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim.
Sinh Ta gọi là phụ mẫu, Ta sinh gọi là tử tôn, khắc Ta gọi là quan quỷ, Ta khắc gọi là thê tài, Tỉ hòa Ta gọi là huynh đệ. Tường thuật theo ngũ dương, ngũ âm thông biến đồ.
【Ghi chú : Sinh Ta gọi là Ấn, Ta sinh gọi là Thương quan Thực thần, khắc Ta gọi là Quan quỷ Thất sát, Ta khắc gọi là thê tài, Tỉ hòa gọi là Tỉ kiên. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz

Luận Tiết khí ca
Tháng giêng Lập Xuân tiết Vũ Thủy,
Tháng 2 Kinh Chập cùng Xuân Phân,
Tháng 3 Thanh minh cùng Cốc Vũ,
Tháng 4 Lập Hạ Tiểu Mãn phương,

Tháng 5 Mang Chủng cùng Hạ Chí,
Tháng 6 Tiểu Thử còn Đại Thử,
Tháng 7 Lập Thu còn Xử Thử,
Tháng 8 Bạch Lộ và Thu Phân,

Tháng 9 Hàn Lộ còn Sương Giáng,
Tháng 10 Lập Đông giương Tiểu Tuyết,
Tháng 11 Tý Đại Tuyết tiết Đông Chí,
Tháng 12 Sửu Tiểu Hàn vượng Đại Hàn.

Luận thiên địa can chi ám tàng tổng quyết

Lập Xuân nhớ 3 dụng Bính hỏa,
Còn lại Giáp mộc vượng đề cương.
Kinh Chập Ất mộc chưa dụng sự,
Xuân Phân Ất mộc đúng thích hợp.

Thanh Minh Ất mộc quản 10 ngày,
Sau đến 8 ngày phương Quý thủy.
Cốc Vũ trước 3 Mậu thổ thịnh,
Trong đó thổ vượng phải tiêu tường.

Lập Hạ lại về phục Mậu thổ,
Tiểu Mãn quá trưa Bính hỏa sáng.
Mang Chủng Kỷ thổ vừa thích hợp,
Dừng đúng 7 ngày hỏa giương cao.

Hạ Chí âm sinh lợi dương cực,
Bính Đinh hỏa vượng có chủ trương.
Tiểu Thử 10 ngày Đinh hỏa vượng,
Sau đến 3 ngày Ất mộc phương.

Kỷ thổ 3 ngày uy phong thịnh,
Đại Thử Kỷ thổ 10 ngày vàng.
Lập Thu 10 ngày Nhâm thủy lên,
Xử Thử 10 ngày Canh kim tốt.

Bạch Lộ 7 ngày Canh kim vượng,
8 ngày chỉ độc hành Tân kim.
Hàn Lộ 7 ngày Tân kim quản,
8 ngày Đinh hỏa lại hàng thủy.

Sương Giáng Kỷ thổ 15 ngày,
Trong đó tạp khí thủ không sao.
Lập Đông 7 ngày Quý thủy vượng,
Nhâm thủy 8 ngày chớ vội chảy.

Tiểu Tuyết 7 ngày Nhâm thủy mạnh,
8 ngày Giáp thủy còn hương thơm.
Đại Tuyết 7 ngày Nhâm thủy quản,
Đông Chí Quý thủy càng chảy mạnh.

Tiểu Hàn 7 ngày Quý thủy dưỡng,
8 ngày Tân kim tàng Sửu khố.
Đại Hàn 10 ngày Kỷ thổ thịnh,
Thuật giả nghiên cứu nên kĩ càng.

【Ghi chú: Chỗ này bắt đầu là Lập Xuân, hoặc là tháng giêng ngày mùng 1 là Lập Xuân, hoặc 1,2,3,4,5,6 Lập Xuân, lại không nói Bính thêm 2 ngày, chỉ lấy bắt đầu từ tiết khí, mà Lập Xuân là Tiết, Vũ Thủy là Hậu, vừa thành tiết khí, lần lượt từng tháng giống như vậy. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
Luận Ngày làm chủ
Tôi thường xem chỗ ghi lại trong sách thời nhà Đường, có Lý Hư Trung, luận mệnh con người lấy chỗ can chi sinh năm, sinh khắc tháng, ngày, giờ để nói quý tiện, thọ yểu vậy. Đến phần thời Tống, mới có thuyết Tử Bình. Lấy nhật can làm chủ, lấy năm làm gốc, lấy tháng làm mầm mống, lấy ngày làm hoa, lấy giờ làm quả, lấy sinh vượng tử tuyệt hưu tù, chế hóa quyết mệnh người tốt xấu, lý lẽ là tất nhiên vậy, lại có gì mà nghi ngờ nữa chứ!

+ Một, viết Quan phân ra âm dương, viết Quan, viết Sát, như Giáp Ất thấy Canh Tân vậy (Giáp thấy Canh là Sát, là dương thấy dương vậy. Thấy Tân là Quan, là dương thấy âm vậy. Ất mộc Canh là Quan, thấy Tân là Sát).

+ Hai, viết Tài, phân ra âm dương, viết Chính Tài, Thiên Tài, như Giáp Ất là thấy Mậu Kỷ vậy (dương thấy âm là Chính Tài, âm thấy âm là Thiên Tài).

+ Ba, viết sinh khí âm dương, viết Ấn thụ, viết Đảo Thực, như Giáp Ất thấy Nhâm Quý là vậy (Giáp thấy Quý, Ất thấy Nhâm gọi là Ấn thụ; Giáp thấy Nhâm, Ất thấy Quý gọi là Thiên Ấn).

+ Bốn, viết cướp khí âm dương, viết là Thực thần, viết là Thương quan, như Giáp Ất thấy Bính Đinh là vậy (Giáp thấy Bính là Thực thần, thấy Đinh là Thương quan, Ất thấy Đinh là Thực thần, thấy Bính là Thương quan).

+ Năm, viết đồng loại âm dương, viết là Kiếp tài, viết là Dương Nhận, như Giáp Ất thấy Giáp Ất là vậy (dương thấy dương gọi là Dương Nhận, âm thấy dương gọi là Kiếp tài). Đại để quý tiện, thọ yểu, tử sinh, đều không thoát ra ở ngũ hành vậy. Nhưng mà có lập cách cục xằng bậy, theo bày ra tên gọi mà không có thực dụng, như Phi Thiên Lộc Mã, Đảo Xung, Tỉnh Lan Xoa tức là Thương quan. Tách ra mà lập thành, đưa ra một điểm này để biết, còn lại tự suy đoán vậy.
【Ghi chú : Cho dù thấy Sát Quan, thân vượng, Sát chủ cao cường, Quan chủ lấy tốt đẹp. Tài là gốc dưỡng mệnh. Ấn là mẹ sinh ra ta. Thương quan, Thực thần là chỗ ta sinh ra, là cướp khí mẹ. Giáp thấy Ất là Giáp có thể so với bản thân của ta, Ất thấy Giáp là cướp tài của ta, cho nên lấy cường mà chứa đựng nhược. 】

Lấy ngày làm chủ, năm là gốc, tháng là đề cương, giờ là phụ tá. Lấy ngày làm chủ, đại để phải xem giờ đến ở mức độ nào, hoặc là thân vượng, hoặc là thân nhược. Lại xem địa chi có cách cục nào, đếm số kim mộc thủy hỏa thổ, sau đó xem trong nguyệt lệnh có kim mộc thủy hỏa thổ chỗ nào vượng. Lại xem tuế vận có chỗ nào vượng, sau lại xem tin tức ở dưới ngày, chỗ này không phải là nói gò bó, câu nệ vậy. Ví dụ như sinh ngày Giáp Tý, trong tứ trụ có chữ Thân, dùng hợp Tý Thìn là thủy cục. Sau đó xem các thần còn lại có tăng hay giảm, trong tứ trụ có chữ nào làm tổn hại, nhật chủ Giáp Tý tú khí. Có hại cho dụng thần, thì phải lấy mà chế, không nên tăng thêm. Luận mệnh nhất thiết không thể chấp nê. Nguyệt lệnh cần phải rõ, dấu hiệu làm ra sự việc.
【Ghi chú : Lấy ngày làm chủ, như bản thân của mình. Can năm là tổ phụ, Chi là tổ mẫu, can tháng là cha, chi là mẹ cùng anh em vậy; can ngày là bản thân, chi ngày là thê thiếp, can giờ là con trai, chi giờ là con gái. Lấy Thai mệnh con người luận chính là xem khắc chế xem con người quý tiện. 】

descriptionUyên Hải Tử Bình toàn tập!  EmptyRe: Uyên Hải Tử Bình toàn tập!

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết