Luận Thiên can âm dương sinh tử
Có hỏi: Thập can phân ra âm dương, có cương nhu, có sinh tử, thuyết này đúng hay không?
Trả lời: Thập can có ngũ dương và ngũ âm, dương là cương, âm là nhu, phân ra sinh tử như mẹ sinh ra con, con trưởng thành mà mẹ già chết, lý là tự nhiên. Phú viết: Dương sinh Âm tử, Dương tử Âm sinh, tuần hoàn thuận nghịch, mà thấy biến hóa vậy.
Giáp mộc là đứng đầu thập can, chủ tể bốn mùa, sinh dưỡng vạn vật; ở trên trời là sấm là Rồng, ở đất là xà nhà, là đòn dông, gọi là Dương mộc. Lộc đến Dần. Dần là mộc ở trên cao, rễ đã đứt, cành đã tuyệt, gọi là Tử mộc. Tử mộc, là Cương mộc vậy, cần phải cầm búa rìu để đẽo gọt mới thành khí. Trường sinh ở Hợi, Hợi là thủy ở sông, đầm, ao hồ, danh viết là Tử Thủy ( nước tù đọng), Cho nên Tử mộc bỏ vào trong Tử thủy, mặc dù ngâm trong nước lâu năm, cũng không thể mục nát, ví như ngọn cây Dầu, ở trong nước thì rất kiên cố. Nếu xa rời nước mà đến bờ mà gặp Quý thủy, Quý thủy là Hoạt thủy vậy, là mưa sương ở giữa trời đất, dạn dày nắng gió, khô ẩm không điều hòa, liền thành khô mục, thì có thể sinh hỏa, hỏa vượng mà mộc tất phải đốt cháy vậy, cho nên có họa tan thành mây khói vậy. Còn Ngọ thuộc Ly hỏa, hỏa dựa vào mộc sinh, mộc là mẹ của hỏa, hỏa là con của mộc, là Tử vượng Mẫu suy, lý chỗ này cuối cùng không hết? Cho nên Giáp mộc tử ở Ngọ. Kinh nói: Mộc không chạy hướng Nam. Chính là chỗ này vậy.
Ất mộc kế sau Giáp, phát dục vạn vật, sinh sinh không dứt; ở trên trời là gió, ở dưới đất là cây, gọi là Âm mộc. Lộc đến Mão, Mão là cây cối, rễ sâu là tốt, gọi là Hoạt mộc. Hoạt mộc, là Nhu mộc vậy, sợ dương kim chặt bổ là tai họa, sợ đến mùa Thu cây suy yếu rơi ngã, muốn Nhuận thổ mà bồi căn, lợi ở Hoạt thủy mà cành là sinh sôi. Hoạt thủy, là Quý thủy vậy, tức là mưa sương ở trên trời, suối nguồn trong đất; Nhuận thổ, là Kỷ thổ vậy, như thổ làm ruộng, công thành Giá Sắc. Kỷ lộc ở Ngọ, Ngọ là Lục Dương tiêu mất, lại sinh Nhất Âm, cho nên câu lúa nở hoa ở giờ Ngọ, Ất mộc sinh ở đất Ngọ. Tháng 10 thấy Hợi, Hợi chính là thuần âm nắm lệnh, Nhâm Lộc đến Hợi nắm quyền, Tử thủy phiếm lạm, thổ suy căn hư, mất có bồi dưỡng. Cho nên Ất mộc tử ở Hợi. Kinh nói: Thủy phiếm Mộc phù. Chính là chỗ này vậy.
Bính hỏa dựa vào ở giữa trời, chiếu khắp trên dưới và bốn phương; ở trên trời là ánh Thái Dương là tia chớp điện, ở dưới đất là bếp là nấu, gọi là Dương hỏa. Lộc ở Tị, Tị là hỏa bếp nấu, gọi là Tử hỏa. Tử hỏa, là Cương hỏa vậy, hỷ Tử mộc để phát ra ánh sáng, ghét kim, thổ vì che mất ánh sáng. Tử mộc, là Giáp mộc vậy, Giáp Lộc ở Dần, Dần là thành dương mộc, mộc thịnh hỏa sinh, ẩn ở giữa thạch mộc, người không thể sử dụng, không thể phát sinh, cho nên Ngũ Dương đều xuất ra ở tự nhiên mà thành Tiên thiên, Ngũ Âm đều thuộc ở nhân sự mà thành Hậu Thiên, Bính hỏa sinh ở Dần, lý là rất rõ ràng. Như hỏa Thái Dương từ phương Đông mà lên cao, đến phương Tây mà lặn, còn Dậu thuộc cung Đoài, Đoài là Trạch; Kỷ thổ sinh kim, kim khí thịnh, tức che mất ánh sáng Bính hỏa, không thể chiếu rõ, sao không mờ chứ? Cho nên Bính hỏa sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh nói: Hỏa không hướng Tây. Chính là chỗ này vậy.
Đinh hỏa kế sau Bính hỏa, là Tinh sao của vạn vật, tượng văn minh; ở trên trời là dội ngủ ngôi sao, ở dưới đất là ngọn đèn dầu, gọi là Âm hỏa. Lộc đến Ngọ, là lấy Lục Âm, bên trong có Ất mộc, có thể sinh Đinh hỏa. Ất là Hoạt mộc, Đinh là Hoạt hỏa. Hoạt hỏa, là Nhu hỏa vậy, Đinh hỷ Ất mộc mà sinh, là âm sinh âm vậy, ý nghĩa giống thế gian sử dụng dầu cải, dầu mè để làm nến, nói dầu là dầu của Ất mộc vậy. Về phần giờ Dậu, là Tứ âm nắm quyền, thì ngọn đèn dầu có thể sáng rực, đội ngũ ngôi sao thì có thể rực rỡ, cho nên Đinh sinh ở Dậu; Về phần đất Dần, hợp làm Tam Dương, mà sinh Dương hỏa, mà lui Âm hỏa, như mặt trời từ hướng Đông lên cao, hàng ngũ ngôi sao ẩn sáng, đèn dù có ánh lửa, ánh sáng không hiện. Cho nên Đinh sinh ở Dậu mà tử ở Dần vậy. Kinh nói: Hỏa minh tắc diệt. Chính là chỗ này vậy.
Mậu thổ trời đất chưa phân, trong giữ lấy một, trời đất đã phân, chở dày vạn vật, tụ ở trung ương, tán ở bốn góc. Ở trời là bụi, ở đất là núi, gọi là dương thổ. Lộc ở Tị, Tị là lửa ở trong lò vậy, nung luyện thành khí, khó có âm thanh, tính thì cương mãnh, khó mà xúc phạm. Hỷ có dương hỏa tương sinh, sợ âm kim cướp khí. Dương hỏa, là Bính hỏa vậy, Bính sinh ở Dần, Dần thuộc cung Cấn, Cấn là núi, núi là Cương thổ, tức là Mậu thổ vậy, dựa vào Bính hỏa mà sinh ra chỗ này. Về phần đất Dậu, Dậu thuộc cung Đoài, kim cướp hao tổn khí Mậu thổ, chính là kim thịnh thổ hư, là Mẫu suy Tử vượng, thêm kim đánh đá vỡ, sao có thể thọ dài chứ? Cho nên Mậu thổ sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh nói: Thổ hư thì băng. Chính là chỗ này vậy.
Kỷ thổ kế sau Mậu thổ, là nguyên khí của trời, là chân thổ của đất. Thanh khí thăng lên cao, xung hòa trời đất, trọc khí giáng xuống, tụ sinh vạn vật, gọi là Âm thổ. Thiên địa nhân là tam tài đều không thể thiếu khuyết ở thổ, như trong Càn Khôn ở giữa có người làm mai mối, chỗ này mất âm dương, sao có thể mà phối ngẫu? Cho nên không có ở bốn hành thì không tồn tại, ở bốn mùa thì gửi vượng ở chỗ này, chính là chân thổ vậy. Hỷ Đinh hỏa mà sinh, sợ dương hỏa mà táo. Lộc đến Ngọ, trong Ngọ có Đinh hỏa có thể sinh Kỷ thổ, bị Ất mộc cướp khí bồi gốc. Về phần đất Dậu, mà Đinh hỏa sinh, ký sinh ở Đinh hỏa, Kỷ thổ cũng có thể sinh vậy; đến Dần dụng sự, mộc hỏa nắm quyền, nung luyện Kỷ thổ, liền thành gốm sứ, khí lại mất trung hòa, lý là sao không có tổn hại chứ? Cho nên Kỷ thổ sinh ở Dậu mà tử ở Dần. Kinh nói: Hỏa táo thổ liệt. Chính là chỗ này vậy.
Canh kim nắm quyền cung kính trời đất, chủ thay đổi quyền bính ở nhân gian. Ở trời là gió sương, ở đất là kim loại, gọi là Dương kim. Lộc đến Thân, Thân chính là Cương kim, hỷ Mậu thổ mà sinh, sợ Quý thủy mà chìm; trường sinh ở Tị, trong Tị có Mậu thổ có thể sinh Canh kim, là dương sinh dương vậy; Tị là lửa trong lò bếp, nung luyện Canh kim, khí liền thành chung đỉnh, khỏ mà có âm thanh, nếu gặp thủy thổ vùi chôn thì không có âm thanh vậy, chỗ gọi là Kim thực vô thanh. Về phần Tý địa, là đất thủy vượng, là kim hàn thủy lạnh, là Tử vượng Mẫu suy, cũng gặp họa chìm sâu, sao có thể mà hồi sinh? Cho nên Canh kim sinh ở Tị mà tử ở Tý. Kinh nói: Kim thẩm thủy để. Chính là chỗ này vậy.
Tân kim kế sau Canh kim, là lấy Ngũ kim, là nguồn gốc đá thạch. Ở trên trời là mặt trăng, mặt tời, là sao Thái Âm, ở đất là kim loại, kim là quặng mỏ đá, gọi là Âm kim. Lộc đến Dậu, trong Dậu có Kỷ thổ có thể sinh Tân kim, là âm sinh âm vậy, gọi là Nhu Kim, là sao Thái Âm. Trường sinh ở Tý, Tý là thành của quẻ Khảm thủy, trong Khảm kim thuộc Nhất Dương, lại có Nhị Âm thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, là Tử ẩn trong bào thai của Mẫu, chưa hiển lộ hình thể, được Tý thủy mênh mông, tránh khỏi phù sa, mới có thể xuất sắc, chỗ này là Thủy giúp Kim sáng, ánh sáng óng ánh. Về phần Tị địa, Tị là lửa trong bếp lò, đem Tân kim luyện thành tử khí, cũng bị ở trong Tị có Mậu thổ chôn vùi, hình thể không thể biến hóa, sao có thể mà hồi sinh? Cho nên Tân kim sinh ở Tý mà tử ở Tị vậy. Kinh nói: Thổ trọng kim mai. Chính là chỗ này vậy.
Nhâm thủy hỷ dương thổ trợ giúp mà thành bờ đê, lo sợ âm mộc cướp khí. Ở trên trời là mây, ở dưới đất là đầm hồ, gọi là Dương Thủy. Lộc ở Hợi, Hợi là thủy ao hồ tồn đọng lưu tồn, gọi là Tử thủy. Tử thủy, là cương thủy vậy, dựa vào Canh kim mà sinh, Canh Lộc đến Thân, có thể sinh Nhâm thủy, là khí ngũ hành chuyển dưỡng. về phần Mão địa, Mão là hoa lá của cây cối, mộc vượng ở Mão thì có thể khắc thổ, thổ hư thì sụp đổ, cho nên bờ đê sụp lở, mà đi tiết Nhâm thủy, tán mạn bốn phương vậy, lưu mà không phản, lại bị âm mộc cướp khí, sao hoạt động được tồn tại chứ? Cho nên Nhâm thủy sinh ở Thân mà tử ở Mão vậy. Kinh nói: Tử thủy hoành lưu. Chính là chỗ này vậy.
Quý thủy kế sau Nhâm thủy, chính là khí âm dương tạo thành một vòng thiên can, dần dần hoàn thành mà cuối cùng là qua về ban đầu, cho nên là bắt đầu phân lấy thanh trọc, tán ra bốn phương, có công nhuận hạ trợ thổ, là đức sinh sôi vạn vật. Ở trên trời là vũ lộ ( mưa sương), ở dưới đất là suối khe đá, gọi là Âm Thủy. Lộc ở Tý, Tý là đất âm cực dương sinh, Tân sinh thành thì Canh tử; Quý là Hoạt thủy, Hoạt thủy, là Nhu Thủy vậy, hỷ âm kim mà sinh, sợ dương kim mà trì trệ, muốn hành âm mộc thì căn có thể khai thông âm thổ, âm thổ đã thông ở mạch đất thì có thể lưu thông. Tháng 2 thấy Mão, là hoa quả cây cối, là mộc vượng nhà thổ, Quý thủy mới được thông đạt. Về phần Thân địa, là Tam Âm dụng sự, quẻ Bĩ nắm quyền, trời đất không giao hòa, vạn vật không thông, trong Thân có Khôn thổ, Canh kim liền trở thành đê ngằn sông, khiến cho Quý thủy không thể lưu thông, khốn đốn ở hồ nước, không có chỗ thi hành, sao lại sinh vật? Cho nên Quý thủy sinh ở Mão mà tử ở Thân. Kinh nói: Thủy không chảy về Tây. Chính là chỗ này vậy.
Luận viết: Lý Ngũ hành trường sinh mà cũng giống như vạn vật. Ví như giờ ở đầu ngày, quang cảnh trong sáng, đến Ngọ Ly cung, trời sáng càng đậm, ở đầu tháng, giả như đàn bà, rất hi vọng ánh sáng thanh khiết; như sinh ra con người, tự thiếu chí mạnh mẽ, từ già đến chết, là lẽ thường tình vậy. Vậy con người sinh ra, trẻ em chỉ biết khóc cười mà thôi, đến thời kỳ thanh niên thấy rõ hiền ngu, vạn vật đều giống như vậy.
Giáp mộc sinh ở Hợi, Hợi thuộc thủy, Giáp mộc ở chỗ này; mộc vượng ở mùa xuân, đến Dần là Lâm quan quy Lộc, Giáp mộc đắc thành, đến Ngọ thì tử; Bính hỏa sinh ở Dần, Dần thuộc mộc, Bính hỏa ở chỗ này, hỏa vượng ở mùa Hạ, đến Tị là Lâm quan quy Lộc, Bính hỏa đắc thành, đến Dậu thì tử; Canh kim sinh ở Tị, Tị có Mậu thổ, Canh kim ở chỗ này, kim vượng ở Thu, đến Thân là Lâm quan quy Lộc, canh kim đắc thành, đến Tý thì tử; Nhâm thủy sinh ở Thân, Thân thuộc lệnh kim, Nhâm thủy ở chỗ này, thủy vượng ở Mùa đông, đến Hợi là Lâm Quan quy Lộc, Nhâm thủy đắc thành, đến Mão thì tử; Mậu thổ sinh ở Dần, trong Dần có Bính hỏa, Mậu thổ sinh chỗ này, là mùa Tam Dương, thổ cao lấy động, vạn vật phát sinh, là Mậu sinh ở Dần vậy. Thổ vượng ở các tháng tứ quý, hỏa thổ có giống như Mẫu Tử tương sinh, cho nên Mậu theo Bính Lâm quan quy Lộc ở Tị.
Có hỏi: Thập can phân ra âm dương, có cương nhu, có sinh tử, thuyết này đúng hay không?
Trả lời: Thập can có ngũ dương và ngũ âm, dương là cương, âm là nhu, phân ra sinh tử như mẹ sinh ra con, con trưởng thành mà mẹ già chết, lý là tự nhiên. Phú viết: Dương sinh Âm tử, Dương tử Âm sinh, tuần hoàn thuận nghịch, mà thấy biến hóa vậy.
Giáp mộc là đứng đầu thập can, chủ tể bốn mùa, sinh dưỡng vạn vật; ở trên trời là sấm là Rồng, ở đất là xà nhà, là đòn dông, gọi là Dương mộc. Lộc đến Dần. Dần là mộc ở trên cao, rễ đã đứt, cành đã tuyệt, gọi là Tử mộc. Tử mộc, là Cương mộc vậy, cần phải cầm búa rìu để đẽo gọt mới thành khí. Trường sinh ở Hợi, Hợi là thủy ở sông, đầm, ao hồ, danh viết là Tử Thủy ( nước tù đọng), Cho nên Tử mộc bỏ vào trong Tử thủy, mặc dù ngâm trong nước lâu năm, cũng không thể mục nát, ví như ngọn cây Dầu, ở trong nước thì rất kiên cố. Nếu xa rời nước mà đến bờ mà gặp Quý thủy, Quý thủy là Hoạt thủy vậy, là mưa sương ở giữa trời đất, dạn dày nắng gió, khô ẩm không điều hòa, liền thành khô mục, thì có thể sinh hỏa, hỏa vượng mà mộc tất phải đốt cháy vậy, cho nên có họa tan thành mây khói vậy. Còn Ngọ thuộc Ly hỏa, hỏa dựa vào mộc sinh, mộc là mẹ của hỏa, hỏa là con của mộc, là Tử vượng Mẫu suy, lý chỗ này cuối cùng không hết? Cho nên Giáp mộc tử ở Ngọ. Kinh nói: Mộc không chạy hướng Nam. Chính là chỗ này vậy.
Ất mộc kế sau Giáp, phát dục vạn vật, sinh sinh không dứt; ở trên trời là gió, ở dưới đất là cây, gọi là Âm mộc. Lộc đến Mão, Mão là cây cối, rễ sâu là tốt, gọi là Hoạt mộc. Hoạt mộc, là Nhu mộc vậy, sợ dương kim chặt bổ là tai họa, sợ đến mùa Thu cây suy yếu rơi ngã, muốn Nhuận thổ mà bồi căn, lợi ở Hoạt thủy mà cành là sinh sôi. Hoạt thủy, là Quý thủy vậy, tức là mưa sương ở trên trời, suối nguồn trong đất; Nhuận thổ, là Kỷ thổ vậy, như thổ làm ruộng, công thành Giá Sắc. Kỷ lộc ở Ngọ, Ngọ là Lục Dương tiêu mất, lại sinh Nhất Âm, cho nên câu lúa nở hoa ở giờ Ngọ, Ất mộc sinh ở đất Ngọ. Tháng 10 thấy Hợi, Hợi chính là thuần âm nắm lệnh, Nhâm Lộc đến Hợi nắm quyền, Tử thủy phiếm lạm, thổ suy căn hư, mất có bồi dưỡng. Cho nên Ất mộc tử ở Hợi. Kinh nói: Thủy phiếm Mộc phù. Chính là chỗ này vậy.
Bính hỏa dựa vào ở giữa trời, chiếu khắp trên dưới và bốn phương; ở trên trời là ánh Thái Dương là tia chớp điện, ở dưới đất là bếp là nấu, gọi là Dương hỏa. Lộc ở Tị, Tị là hỏa bếp nấu, gọi là Tử hỏa. Tử hỏa, là Cương hỏa vậy, hỷ Tử mộc để phát ra ánh sáng, ghét kim, thổ vì che mất ánh sáng. Tử mộc, là Giáp mộc vậy, Giáp Lộc ở Dần, Dần là thành dương mộc, mộc thịnh hỏa sinh, ẩn ở giữa thạch mộc, người không thể sử dụng, không thể phát sinh, cho nên Ngũ Dương đều xuất ra ở tự nhiên mà thành Tiên thiên, Ngũ Âm đều thuộc ở nhân sự mà thành Hậu Thiên, Bính hỏa sinh ở Dần, lý là rất rõ ràng. Như hỏa Thái Dương từ phương Đông mà lên cao, đến phương Tây mà lặn, còn Dậu thuộc cung Đoài, Đoài là Trạch; Kỷ thổ sinh kim, kim khí thịnh, tức che mất ánh sáng Bính hỏa, không thể chiếu rõ, sao không mờ chứ? Cho nên Bính hỏa sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh nói: Hỏa không hướng Tây. Chính là chỗ này vậy.
Đinh hỏa kế sau Bính hỏa, là Tinh sao của vạn vật, tượng văn minh; ở trên trời là dội ngủ ngôi sao, ở dưới đất là ngọn đèn dầu, gọi là Âm hỏa. Lộc đến Ngọ, là lấy Lục Âm, bên trong có Ất mộc, có thể sinh Đinh hỏa. Ất là Hoạt mộc, Đinh là Hoạt hỏa. Hoạt hỏa, là Nhu hỏa vậy, Đinh hỷ Ất mộc mà sinh, là âm sinh âm vậy, ý nghĩa giống thế gian sử dụng dầu cải, dầu mè để làm nến, nói dầu là dầu của Ất mộc vậy. Về phần giờ Dậu, là Tứ âm nắm quyền, thì ngọn đèn dầu có thể sáng rực, đội ngũ ngôi sao thì có thể rực rỡ, cho nên Đinh sinh ở Dậu; Về phần đất Dần, hợp làm Tam Dương, mà sinh Dương hỏa, mà lui Âm hỏa, như mặt trời từ hướng Đông lên cao, hàng ngũ ngôi sao ẩn sáng, đèn dù có ánh lửa, ánh sáng không hiện. Cho nên Đinh sinh ở Dậu mà tử ở Dần vậy. Kinh nói: Hỏa minh tắc diệt. Chính là chỗ này vậy.
Mậu thổ trời đất chưa phân, trong giữ lấy một, trời đất đã phân, chở dày vạn vật, tụ ở trung ương, tán ở bốn góc. Ở trời là bụi, ở đất là núi, gọi là dương thổ. Lộc ở Tị, Tị là lửa ở trong lò vậy, nung luyện thành khí, khó có âm thanh, tính thì cương mãnh, khó mà xúc phạm. Hỷ có dương hỏa tương sinh, sợ âm kim cướp khí. Dương hỏa, là Bính hỏa vậy, Bính sinh ở Dần, Dần thuộc cung Cấn, Cấn là núi, núi là Cương thổ, tức là Mậu thổ vậy, dựa vào Bính hỏa mà sinh ra chỗ này. Về phần đất Dậu, Dậu thuộc cung Đoài, kim cướp hao tổn khí Mậu thổ, chính là kim thịnh thổ hư, là Mẫu suy Tử vượng, thêm kim đánh đá vỡ, sao có thể thọ dài chứ? Cho nên Mậu thổ sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Kinh nói: Thổ hư thì băng. Chính là chỗ này vậy.
Kỷ thổ kế sau Mậu thổ, là nguyên khí của trời, là chân thổ của đất. Thanh khí thăng lên cao, xung hòa trời đất, trọc khí giáng xuống, tụ sinh vạn vật, gọi là Âm thổ. Thiên địa nhân là tam tài đều không thể thiếu khuyết ở thổ, như trong Càn Khôn ở giữa có người làm mai mối, chỗ này mất âm dương, sao có thể mà phối ngẫu? Cho nên không có ở bốn hành thì không tồn tại, ở bốn mùa thì gửi vượng ở chỗ này, chính là chân thổ vậy. Hỷ Đinh hỏa mà sinh, sợ dương hỏa mà táo. Lộc đến Ngọ, trong Ngọ có Đinh hỏa có thể sinh Kỷ thổ, bị Ất mộc cướp khí bồi gốc. Về phần đất Dậu, mà Đinh hỏa sinh, ký sinh ở Đinh hỏa, Kỷ thổ cũng có thể sinh vậy; đến Dần dụng sự, mộc hỏa nắm quyền, nung luyện Kỷ thổ, liền thành gốm sứ, khí lại mất trung hòa, lý là sao không có tổn hại chứ? Cho nên Kỷ thổ sinh ở Dậu mà tử ở Dần. Kinh nói: Hỏa táo thổ liệt. Chính là chỗ này vậy.
Canh kim nắm quyền cung kính trời đất, chủ thay đổi quyền bính ở nhân gian. Ở trời là gió sương, ở đất là kim loại, gọi là Dương kim. Lộc đến Thân, Thân chính là Cương kim, hỷ Mậu thổ mà sinh, sợ Quý thủy mà chìm; trường sinh ở Tị, trong Tị có Mậu thổ có thể sinh Canh kim, là dương sinh dương vậy; Tị là lửa trong lò bếp, nung luyện Canh kim, khí liền thành chung đỉnh, khỏ mà có âm thanh, nếu gặp thủy thổ vùi chôn thì không có âm thanh vậy, chỗ gọi là Kim thực vô thanh. Về phần Tý địa, là đất thủy vượng, là kim hàn thủy lạnh, là Tử vượng Mẫu suy, cũng gặp họa chìm sâu, sao có thể mà hồi sinh? Cho nên Canh kim sinh ở Tị mà tử ở Tý. Kinh nói: Kim thẩm thủy để. Chính là chỗ này vậy.
Tân kim kế sau Canh kim, là lấy Ngũ kim, là nguồn gốc đá thạch. Ở trên trời là mặt trăng, mặt tời, là sao Thái Âm, ở đất là kim loại, kim là quặng mỏ đá, gọi là Âm kim. Lộc đến Dậu, trong Dậu có Kỷ thổ có thể sinh Tân kim, là âm sinh âm vậy, gọi là Nhu Kim, là sao Thái Âm. Trường sinh ở Tý, Tý là thành của quẻ Khảm thủy, trong Khảm kim thuộc Nhất Dương, lại có Nhị Âm thuộc thổ, thổ có thể sinh kim, là Tử ẩn trong bào thai của Mẫu, chưa hiển lộ hình thể, được Tý thủy mênh mông, tránh khỏi phù sa, mới có thể xuất sắc, chỗ này là Thủy giúp Kim sáng, ánh sáng óng ánh. Về phần Tị địa, Tị là lửa trong bếp lò, đem Tân kim luyện thành tử khí, cũng bị ở trong Tị có Mậu thổ chôn vùi, hình thể không thể biến hóa, sao có thể mà hồi sinh? Cho nên Tân kim sinh ở Tý mà tử ở Tị vậy. Kinh nói: Thổ trọng kim mai. Chính là chỗ này vậy.
Nhâm thủy hỷ dương thổ trợ giúp mà thành bờ đê, lo sợ âm mộc cướp khí. Ở trên trời là mây, ở dưới đất là đầm hồ, gọi là Dương Thủy. Lộc ở Hợi, Hợi là thủy ao hồ tồn đọng lưu tồn, gọi là Tử thủy. Tử thủy, là cương thủy vậy, dựa vào Canh kim mà sinh, Canh Lộc đến Thân, có thể sinh Nhâm thủy, là khí ngũ hành chuyển dưỡng. về phần Mão địa, Mão là hoa lá của cây cối, mộc vượng ở Mão thì có thể khắc thổ, thổ hư thì sụp đổ, cho nên bờ đê sụp lở, mà đi tiết Nhâm thủy, tán mạn bốn phương vậy, lưu mà không phản, lại bị âm mộc cướp khí, sao hoạt động được tồn tại chứ? Cho nên Nhâm thủy sinh ở Thân mà tử ở Mão vậy. Kinh nói: Tử thủy hoành lưu. Chính là chỗ này vậy.
Quý thủy kế sau Nhâm thủy, chính là khí âm dương tạo thành một vòng thiên can, dần dần hoàn thành mà cuối cùng là qua về ban đầu, cho nên là bắt đầu phân lấy thanh trọc, tán ra bốn phương, có công nhuận hạ trợ thổ, là đức sinh sôi vạn vật. Ở trên trời là vũ lộ ( mưa sương), ở dưới đất là suối khe đá, gọi là Âm Thủy. Lộc ở Tý, Tý là đất âm cực dương sinh, Tân sinh thành thì Canh tử; Quý là Hoạt thủy, Hoạt thủy, là Nhu Thủy vậy, hỷ âm kim mà sinh, sợ dương kim mà trì trệ, muốn hành âm mộc thì căn có thể khai thông âm thổ, âm thổ đã thông ở mạch đất thì có thể lưu thông. Tháng 2 thấy Mão, là hoa quả cây cối, là mộc vượng nhà thổ, Quý thủy mới được thông đạt. Về phần Thân địa, là Tam Âm dụng sự, quẻ Bĩ nắm quyền, trời đất không giao hòa, vạn vật không thông, trong Thân có Khôn thổ, Canh kim liền trở thành đê ngằn sông, khiến cho Quý thủy không thể lưu thông, khốn đốn ở hồ nước, không có chỗ thi hành, sao lại sinh vật? Cho nên Quý thủy sinh ở Mão mà tử ở Thân. Kinh nói: Thủy không chảy về Tây. Chính là chỗ này vậy.
Luận viết: Lý Ngũ hành trường sinh mà cũng giống như vạn vật. Ví như giờ ở đầu ngày, quang cảnh trong sáng, đến Ngọ Ly cung, trời sáng càng đậm, ở đầu tháng, giả như đàn bà, rất hi vọng ánh sáng thanh khiết; như sinh ra con người, tự thiếu chí mạnh mẽ, từ già đến chết, là lẽ thường tình vậy. Vậy con người sinh ra, trẻ em chỉ biết khóc cười mà thôi, đến thời kỳ thanh niên thấy rõ hiền ngu, vạn vật đều giống như vậy.
Giáp mộc sinh ở Hợi, Hợi thuộc thủy, Giáp mộc ở chỗ này; mộc vượng ở mùa xuân, đến Dần là Lâm quan quy Lộc, Giáp mộc đắc thành, đến Ngọ thì tử; Bính hỏa sinh ở Dần, Dần thuộc mộc, Bính hỏa ở chỗ này, hỏa vượng ở mùa Hạ, đến Tị là Lâm quan quy Lộc, Bính hỏa đắc thành, đến Dậu thì tử; Canh kim sinh ở Tị, Tị có Mậu thổ, Canh kim ở chỗ này, kim vượng ở Thu, đến Thân là Lâm quan quy Lộc, canh kim đắc thành, đến Tý thì tử; Nhâm thủy sinh ở Thân, Thân thuộc lệnh kim, Nhâm thủy ở chỗ này, thủy vượng ở Mùa đông, đến Hợi là Lâm Quan quy Lộc, Nhâm thủy đắc thành, đến Mão thì tử; Mậu thổ sinh ở Dần, trong Dần có Bính hỏa, Mậu thổ sinh chỗ này, là mùa Tam Dương, thổ cao lấy động, vạn vật phát sinh, là Mậu sinh ở Dần vậy. Thổ vượng ở các tháng tứ quý, hỏa thổ có giống như Mẫu Tử tương sinh, cho nên Mậu theo Bính Lâm quan quy Lộc ở Tị.