Người dịch: lang_tu, 2012
Ngọc Chiếu Định Chân Kinh
Ngọc Chiếu Đinh Chân Kinh là bộ sách cổ về mệnh lý, tuy hiện nay thị trường có xuất bản thế nhưng lời văn chú thích khá lũng củng có nhiều chổ không hợp lý trong ứng dụng thực tiển.
Vì lẻ đó, tôi mạo muội sưu tầm kinh văn của Ngọc Chiếu và bình chú lại sao cho phù hợp với nguyên lý ứng dụng của bát tự. Quá trình biên tập có chổ nào không phù hợp rất mong các bậc cao minh chỉ điểm thêm, cho tôi được tinh tấn trên con đường đam mê nghiên cứu mệnh lý học.
1. Kinh văn:
Quái Phùng Sanh Khí, Thiên Đức Hợp, Thế Thế Trường Niên.
_Chú vân : Tam hợp sanh phương giả vi sanh khí, tu yếu nhật thời giả.
_Hựu vân: Trường sanh diệc danh sanh khí. Giáp mộc đáo hợi, ất mộc đáo ngọ. Bính hỏa đáo dần, đinh hỏa đáo dậu. Mậu thổ đáo dần, kỷ thổ đáo dậu. Canh kim đáo tị, tân kim đáo tí. Nhâm thủy đáo thân, quí thủy đáo mão.
Thiên đức giả, chính đinh, nhị khôn, tam nhâm, tứ tân, ngũ càn, lục giáp, thất quí, bát cấn, cữu bính, thập ất, nhập nhất tốn, thập nhị canh.
Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp.
Bình chú:
_Mỗi trường hợp bát tự đều có mỗi bố cục riêng, thuật ngữ thường gọi là mệnh cục. Vậy kinh văn trên dùng đến từ “quái" là chỉ cho mệnh cục trong bát tự.
Đến đây có thể tạm dịch:
Mệnh cục gặp được sanh khí, cùng Thiên Đức Hợp thì mệnh tạo ấy hưởng được tuổi thọ và vinh hoa phú quí.
Thế nào là mệnh cục được sanh khí?
Có thuyết cho rằng tam hợp, bán hợp là sanh khí. Có thuyết cho rằng trường sanh nhật can là sanh khí.
Theo tôi khái niệm sanh khí trong bát tự, điều kiện cần thiết nhất là sự cân bằng âm dương và ngũ hành của nhật can. Thực tế khó có lá số bát tự nào tự động cân bằng trung dung về mặt âm dương ngũ hành, do đó cần đến hệ số điều chỉnh tức dụng thần của mệnh cục.
Vậy đoạn “tu yếu nhật thời giả” trong lời chú, nói lên quan trọng tại nơi nhật trụ(trụ ngày) và thời trụ (trụ giờ)
Nếu dụng thần trong bát tự xuất hiện tại nhật trụ, hay thời trụ điều đó nói lên rằng mệnh cục gặp được sanh khí tại khoảng thời điểm trung và hậu vận của đời người, thì mệnh số ấy sẻ được cao thọ và hưởng được nhiều lạc phúc.
Còn việc ứng dụng thêm thần sát là việc phụ trợ, được xem là công cụ nhấn mạnh phân tích luận giải mệnh lý. Nếu ứng dụng thần sát một cách tùy tiện thì không có giá trị phân tích luận giải mệnh lý.
_Nếu nhật can suy nhược, nhưng được trường sanh, quan đới hay lâm quan tại nguyệt lệnh cùng sự tam hợp hay bán hợp, lục hợp địa chi tại nhật trụ và thời trụ tương trợ nhật can, cũng được xem là mệnh cục gặp phương sanh khí.
Ví dụ càn tạo: Năm mậu thân, tháng mậu ngọ, ngày ất hợi, giờ kỹ mão.
Với ví dụ trên, nhật can ất mộc tuy bị lực thổ kim dày tương khắc làm cho thân mệnh suy nhược. Nhưng nhật can đuợc truờng sanh tại nguyệt lệnh ngọ hỏa, và được nhật chi là Thiên Đức Hợp tương sanh, đồng thời nhật chi hợi bán hợp mão mộc cuộc tương trợ nhật can ất mộc. Do đó mệnh cục này được xem là phùng sanh khí cùng Thiên Đức, chủ phát phúc hậu vận và được trường thọ vậy.
Câu: “Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp”. Lấy ví dụ trên làm sáng tỏ.
Ngọc Chiếu Định Chân Kinh
Ngọc Chiếu Đinh Chân Kinh là bộ sách cổ về mệnh lý, tuy hiện nay thị trường có xuất bản thế nhưng lời văn chú thích khá lũng củng có nhiều chổ không hợp lý trong ứng dụng thực tiển.
Vì lẻ đó, tôi mạo muội sưu tầm kinh văn của Ngọc Chiếu và bình chú lại sao cho phù hợp với nguyên lý ứng dụng của bát tự. Quá trình biên tập có chổ nào không phù hợp rất mong các bậc cao minh chỉ điểm thêm, cho tôi được tinh tấn trên con đường đam mê nghiên cứu mệnh lý học.
1. Kinh văn:
Quái Phùng Sanh Khí, Thiên Đức Hợp, Thế Thế Trường Niên.
_Chú vân : Tam hợp sanh phương giả vi sanh khí, tu yếu nhật thời giả.
_Hựu vân: Trường sanh diệc danh sanh khí. Giáp mộc đáo hợi, ất mộc đáo ngọ. Bính hỏa đáo dần, đinh hỏa đáo dậu. Mậu thổ đáo dần, kỷ thổ đáo dậu. Canh kim đáo tị, tân kim đáo tí. Nhâm thủy đáo thân, quí thủy đáo mão.
Thiên đức giả, chính đinh, nhị khôn, tam nhâm, tứ tân, ngũ càn, lục giáp, thất quí, bát cấn, cữu bính, thập ất, nhập nhất tốn, thập nhị canh.
Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp.
Bình chú:
_Mỗi trường hợp bát tự đều có mỗi bố cục riêng, thuật ngữ thường gọi là mệnh cục. Vậy kinh văn trên dùng đến từ “quái" là chỉ cho mệnh cục trong bát tự.
Đến đây có thể tạm dịch:
Mệnh cục gặp được sanh khí, cùng Thiên Đức Hợp thì mệnh tạo ấy hưởng được tuổi thọ và vinh hoa phú quí.
Thế nào là mệnh cục được sanh khí?
Có thuyết cho rằng tam hợp, bán hợp là sanh khí. Có thuyết cho rằng trường sanh nhật can là sanh khí.
Theo tôi khái niệm sanh khí trong bát tự, điều kiện cần thiết nhất là sự cân bằng âm dương và ngũ hành của nhật can. Thực tế khó có lá số bát tự nào tự động cân bằng trung dung về mặt âm dương ngũ hành, do đó cần đến hệ số điều chỉnh tức dụng thần của mệnh cục.
Vậy đoạn “tu yếu nhật thời giả” trong lời chú, nói lên quan trọng tại nơi nhật trụ(trụ ngày) và thời trụ (trụ giờ)
Nếu dụng thần trong bát tự xuất hiện tại nhật trụ, hay thời trụ điều đó nói lên rằng mệnh cục gặp được sanh khí tại khoảng thời điểm trung và hậu vận của đời người, thì mệnh số ấy sẻ được cao thọ và hưởng được nhiều lạc phúc.
Còn việc ứng dụng thêm thần sát là việc phụ trợ, được xem là công cụ nhấn mạnh phân tích luận giải mệnh lý. Nếu ứng dụng thần sát một cách tùy tiện thì không có giá trị phân tích luận giải mệnh lý.
_Nếu nhật can suy nhược, nhưng được trường sanh, quan đới hay lâm quan tại nguyệt lệnh cùng sự tam hợp hay bán hợp, lục hợp địa chi tại nhật trụ và thời trụ tương trợ nhật can, cũng được xem là mệnh cục gặp phương sanh khí.
Ví dụ càn tạo: Năm mậu thân, tháng mậu ngọ, ngày ất hợi, giờ kỹ mão.
Với ví dụ trên, nhật can ất mộc tuy bị lực thổ kim dày tương khắc làm cho thân mệnh suy nhược. Nhưng nhật can đuợc truờng sanh tại nguyệt lệnh ngọ hỏa, và được nhật chi là Thiên Đức Hợp tương sanh, đồng thời nhật chi hợi bán hợp mão mộc cuộc tương trợ nhật can ất mộc. Do đó mệnh cục này được xem là phùng sanh khí cùng Thiên Đức, chủ phát phúc hậu vận và được trường thọ vậy.
Câu: “Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp”. Lấy ví dụ trên làm sáng tỏ.