Ngọc Tỉnh áo quyết
(An Đông Đỗ Khiêm sáng tác – Vạn Dân Anh chú giải)
Phàm lý suy thành tạo hóa, phép lấy ngày làm chủ.
(Chỉ lấy đề cương làm Thể, phải cho rằng làm chủ đầu mối. Được hóa khí làm bản thể, nhập môn thì phải biến thông. Phải biết can chủ có bản tượng có hóa tượng, mới nắm tin tức. Như Giáp bản tượng tức là mộc, hóa tượng là thổ. )
Chi thần tọa dưới, trước tìm ý nghĩa.
(Là toạ dưới nhật can, thủ trước tiên xem địa chi này. Cùng một vị chi tháng, một vị chi giờ, một vị chi năm. Hình xung phá hại, sinh khắc tỉ hòa như thế nào. Can chủ có vật gì được hỉ kỵ, không thể xem là bình thường, không thể nhìn quanh. )
Khí tháng thiển thâm, vật nào chủ quyền.
(Dưới nguyệt kiến, khí hậu thiển thâm (nông sâu). Khí ngũ hành, can thần là gì. Thoả đáng ngày này, nắm lệnh thiên thời (khí hậu). Khí 5 ngày là một hầu. Chuyên nói [ Đức Tú có hay không ])
Địa chi chí thiết, đảng thịnh là cường.
(Địa chi là 4 vị chi thần, là chí thiết, xem thiên can là càng cấp thiết vậy. Phải xem Trạch xá ( chỗ nhà ở) can chủ là gì, dụng thần cơ nghiệp là gì. Lực nào khinh, lực nào trọng. Trạch xá tức là được phương đắc địa, Chi thần tức là chỗ nhận quý. Một là, xem thế lực Xung khởi, là chi thần nào. Hai là, xem thế lực Củng khởi, là chi thần nào. Ba là, xem thế lực Hình khởi, là chi thần nào. Bốn là xem, thế lực Hợp khởi, là chi thần nào. Năm là xem, địa chi cai quản. Phép này là có lập ở không trung vậy. Luận địa chi, 4 mấu chốt Xung Củng Hình Hợp, là cánh cửa cấp thiết vô cùng. Có một phép, thủ dụng chỉ nắm nhật can làm chủ. Trung gian hoặc có cát thần có hình xung, hung sát có củng hợp. Sinh vượng hưu phế, giao nhau không đều, khó bề hành động. Không bằng chỉ xem kĩ 4 nền tảng địa chi, trong ngũ khí vật nào tối trọng, đo lường tương lai tốt xấu. Lại xem thần nào hao tán, thần nào có thể sinh phù, thần nào có thể xung hợp, thần nào có thể biến hóa. Sau đó lại xem nhật can thuộc ngũ khí nào, cùng khí nào cai quản tối trọng nhất. Liền nắm các vật Tài Quan, khí dụng thần, cùng ngũ khí trước dẫn về tọa ở giờ, vật xem thêm tính toán. Thần nào khinh, thần nào trọng, nghĩa lý điều thuận là nói cát, trái lại là xấu vậy. Như chỗ này đã lập định, sau đó xem khí địa chi. Đều có đầu mối chỗ hỉ chỗ kỵ, không thể không xem xét. Ngũ khí là nói 5 khí mộc hỏa thổ kim thủy, từng cái cần phải nhớ kĩ đề mục. Nếu trong ngũ khí, đảng nào nhiều thì là trọng. Như can chi trong ngoài, Minh Ám có nhiều mộc, thì khí mộc đảng thịnh vậy. Hỉ kỵ đã luận ở trước trong ngũ hành. )
Chuyên chấp dụng thần, thiết tường hỉ kỵ.
(Chuyên nhất một vị dụng thần gọi là Tôn trưởng, là quyền thần, là mệnh lệnh, là bản lĩnh, là chỗ dựa. Chỗ này không phải tầm thường, nắm mà suy, không dám cẩu thả tuỳ ý cầu. Thủ ngoài dụng thần, các loại then chốt như Tài hoặc Quan, hoặc Nhận hoặc Sát, hoặc Thực hoặc Quý, hoặc Ấn hoặc Lộc Mã. Lấy các loại ví dụ. vốn không có phép định. Dụng thần tối kỵ tổn phạm, kiêm sợ chia cướp, không nên thái quá hay bất cập. Như vật thái quá, vốn là không tốt. Hoặc tuế vận lại đến sinh phù, tức là phá hư lật đổ. Như mộc bị gãy, thủy bị khô, thổ bị sụp, hỏa cùng phát mà tắt, kim thì hao tổn. Như vật bất cập, vốn không tốt. Hoặc có tuế vận lại đến cướp khắc, phá hư hết vật, sao không có họa. Dụng thần hỉ kỵ, rất mới rất hay, sẽ nói phần khác, vật phải được trung hòa là quý. )
Khí khí thiết cùng kỳ lý, vật vật chí cực chuyển quan.
(Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ, nhất âm nhất dương, cộng có 10 loại tin tức. Nghiên cứu lý lẽ cho tận nơi từng cái phải xem suy vượng, khinh trọng, sáng tối, rộng hẹp, cùng tắc. Thần nào sinh, thần nào khắc, thần nào hình, thần nào hợp. Vật bị phá, vật được sinh, thuộc chủ việc gì. Đem từng vật đi suy, cần phải có căn cứ chỗ dựa tung tích. Đến chỗ không thể tránh được, đó là Chuyển quan. Nhập điều cách nào, xứ cực vừa chuyển, tức là kiến công, viên hoạt thông suốt. Nhưng phải kiến định tung tích, đoán thế nào là thành khí hay không thành khí. )
Hữu khí là cấp, Hữu tình là thiết.
(Hữu khí, là đương thời (nắm thời tiết) vậy, xem trong ngoài bát tự can chi minh ám. Như trung khí tháng 6, tiết Đại Thử, thổ kim vượng tướng, là loại hữu khí. Chỗ này là rất cấp, còn lại thì không. Hữu tình, là hợp khí vậy, như loại Giáp thấy Kỷ, Bính thấy Tân, Đinh thấy Nhâm. Giữa can chi minh ám, có hợp đều lấy, chỗ này là tối thiết vậy. Vừa nói chẳng những Hợp khí Hữu tình, cát thần sinh ta khắc ta, cũng là hữu tình. Hư Củng quý khí, sinh ta, khắc ta, hình ta, hợp ta. Cũng không có khác vậy. )
Can năm quản lý, thứ xem tháng giờ, như lúc quyền hành, gia giảm một ít.
(Xem chỗ can năm ngồi trên chi nào, cùng ta hút nhau như thế nào là thiết. Cũng cần dẫn ở quý địa hữu khí, phương thể cục lớn. Lại xem dụng thần, lại gắn với Tuế quân, là cát hung thần sát nào. Nếu thêm dụng thần cùng Tuế quân hòa, thì hoàn toàn quý là không sai. Thứ xem quan hệ giữa hai thiên can tháng giờ, cuối cùng không thể lấy sai biệt, lại không có bó buộc. Trong trụ tượng số biến hóa, ngũ khí chân giả, cát hung thần sát, đều nên dẫn quy về tọa ở giờ. Phân kĩ khinh trọng, một chút cũng phải so sánh. Lại nói: Thái tuế là lĩnh tụ một năm, là chủ tể của chư thần, rất có chỗ dùng. Chỉ vì Từ Tử Bình lấy ngày làm chủ, chuyên thủ Tài Quan. Ít nhiều kẻ hậu nhân hiểu nghĩa sai lầm.
Cho nên viết: Năm nói giống như cái đầu móc cân, dùng để buộc vật. Tháng nói ví như cái móc treo vật, để nâng vật lên. Ngày giống như thân đòn cân, phân chia không sai một ly. Giờ ví như quả cân, dùng gia giảm nặng nhẹ. Ví dụ hầu như là phù hợp vậy. )
Tùy hợp vẫn khẩn, diêu hợp bất nhàn.
(Tùy hợp: Như Bính Ngọ khí tráng, liền biết có hai chữ Tân Mùi. Như ảnh theo hình, cũng xem Tân Mùi, vẫn là ân nhân của nhà ta, nhưng là cừu nhân. Diêu hợp: Tức là chỗ thần tàng ở trong chi, cùng nó hợp khí chỗ ẩn tàng vậy. Như các loại Thân Mão, Tý Tị, Hợi Ngọ. Che cái có khí, loại việc hợp xa, tự ý không để nhàn hạ vậy. )
Thể chế phải rộng lớn.
(Phàm bát tự phải xem quy mô khí tượng: Thế thể rộng rãi, trời đất đâu vào đấy, hùng tráng kiện thực. Ngũ khí thuận khắc mà có lực, đảo sinh nghịch hóa mà có công. Quý khí qua lại không hỗn tạp, tất không phải loại cách tầm thường. Lại xem bát tự đại ý thể đoạn: Quá thanh, thì hoặc là hàn hoặc là bạc. Quá dầy, thì hoặc là trọc hoặc là trì trệ. Quá hoa lệ, thì hoặc là khinh hoặc là phù. Quá tuỳ tiện, thì hoặc là lưu hoặc là đãng. Quá hữu tình, thì hoặc là lạm hoặc là dâm. Quá cô giới, thì độc lập không thể dung vật. Quá cương dũng, thì hoặc là bạo hoặc là táo mà không có hàm dưỡng. Quá nhu nhược, thì hoặc là ngu hoặc là độn mà không có hành động. Quá chân thực chấp nê, thì tự trói buộc chỉ có biết mình. Quá mở rộng, thì mưu đồ nhiều mà hoa nở không có quả. )
Mặt chữ phân trước sau.
(Trói dụng nét chữ, xa mà ở sau, hoặc bị mặt chữ nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không thương phạm, cần có tuế vận sinh phù, mới là toàn mỹ. Trói dụng nét chữ, tuy gần mà ở trước, nhưng có nét chữ nhàn thần, chỗ xa ở sau. Động xa mà gần, nét chữ dụng thần mới ngại. Lại xem trong trụ, vật nào có thể tiêu trừ đi được. )
Thiên can chuyên luận sinh khắc chế hóa.
(Sinh là tương sinh, lý là có sinh hay không muốn sinh. Khắc là tương khắc, tình có khắc hay không muốn khắc. Chế như là thủy khắc hỏa, mà có thổ chế sát, hỏa có tình phục sinh. Hóa là bản thủy khắc hỏa, thấy mộc có thể cướp khí, lý là hỏa chuyển được sinh. Còn lại loại suy. )
(An Đông Đỗ Khiêm sáng tác – Vạn Dân Anh chú giải)
Phàm lý suy thành tạo hóa, phép lấy ngày làm chủ.
(Chỉ lấy đề cương làm Thể, phải cho rằng làm chủ đầu mối. Được hóa khí làm bản thể, nhập môn thì phải biến thông. Phải biết can chủ có bản tượng có hóa tượng, mới nắm tin tức. Như Giáp bản tượng tức là mộc, hóa tượng là thổ. )
Chi thần tọa dưới, trước tìm ý nghĩa.
(Là toạ dưới nhật can, thủ trước tiên xem địa chi này. Cùng một vị chi tháng, một vị chi giờ, một vị chi năm. Hình xung phá hại, sinh khắc tỉ hòa như thế nào. Can chủ có vật gì được hỉ kỵ, không thể xem là bình thường, không thể nhìn quanh. )
Khí tháng thiển thâm, vật nào chủ quyền.
(Dưới nguyệt kiến, khí hậu thiển thâm (nông sâu). Khí ngũ hành, can thần là gì. Thoả đáng ngày này, nắm lệnh thiên thời (khí hậu). Khí 5 ngày là một hầu. Chuyên nói [ Đức Tú có hay không ])
Địa chi chí thiết, đảng thịnh là cường.
(Địa chi là 4 vị chi thần, là chí thiết, xem thiên can là càng cấp thiết vậy. Phải xem Trạch xá ( chỗ nhà ở) can chủ là gì, dụng thần cơ nghiệp là gì. Lực nào khinh, lực nào trọng. Trạch xá tức là được phương đắc địa, Chi thần tức là chỗ nhận quý. Một là, xem thế lực Xung khởi, là chi thần nào. Hai là, xem thế lực Củng khởi, là chi thần nào. Ba là, xem thế lực Hình khởi, là chi thần nào. Bốn là xem, thế lực Hợp khởi, là chi thần nào. Năm là xem, địa chi cai quản. Phép này là có lập ở không trung vậy. Luận địa chi, 4 mấu chốt Xung Củng Hình Hợp, là cánh cửa cấp thiết vô cùng. Có một phép, thủ dụng chỉ nắm nhật can làm chủ. Trung gian hoặc có cát thần có hình xung, hung sát có củng hợp. Sinh vượng hưu phế, giao nhau không đều, khó bề hành động. Không bằng chỉ xem kĩ 4 nền tảng địa chi, trong ngũ khí vật nào tối trọng, đo lường tương lai tốt xấu. Lại xem thần nào hao tán, thần nào có thể sinh phù, thần nào có thể xung hợp, thần nào có thể biến hóa. Sau đó lại xem nhật can thuộc ngũ khí nào, cùng khí nào cai quản tối trọng nhất. Liền nắm các vật Tài Quan, khí dụng thần, cùng ngũ khí trước dẫn về tọa ở giờ, vật xem thêm tính toán. Thần nào khinh, thần nào trọng, nghĩa lý điều thuận là nói cát, trái lại là xấu vậy. Như chỗ này đã lập định, sau đó xem khí địa chi. Đều có đầu mối chỗ hỉ chỗ kỵ, không thể không xem xét. Ngũ khí là nói 5 khí mộc hỏa thổ kim thủy, từng cái cần phải nhớ kĩ đề mục. Nếu trong ngũ khí, đảng nào nhiều thì là trọng. Như can chi trong ngoài, Minh Ám có nhiều mộc, thì khí mộc đảng thịnh vậy. Hỉ kỵ đã luận ở trước trong ngũ hành. )
Chuyên chấp dụng thần, thiết tường hỉ kỵ.
(Chuyên nhất một vị dụng thần gọi là Tôn trưởng, là quyền thần, là mệnh lệnh, là bản lĩnh, là chỗ dựa. Chỗ này không phải tầm thường, nắm mà suy, không dám cẩu thả tuỳ ý cầu. Thủ ngoài dụng thần, các loại then chốt như Tài hoặc Quan, hoặc Nhận hoặc Sát, hoặc Thực hoặc Quý, hoặc Ấn hoặc Lộc Mã. Lấy các loại ví dụ. vốn không có phép định. Dụng thần tối kỵ tổn phạm, kiêm sợ chia cướp, không nên thái quá hay bất cập. Như vật thái quá, vốn là không tốt. Hoặc tuế vận lại đến sinh phù, tức là phá hư lật đổ. Như mộc bị gãy, thủy bị khô, thổ bị sụp, hỏa cùng phát mà tắt, kim thì hao tổn. Như vật bất cập, vốn không tốt. Hoặc có tuế vận lại đến cướp khắc, phá hư hết vật, sao không có họa. Dụng thần hỉ kỵ, rất mới rất hay, sẽ nói phần khác, vật phải được trung hòa là quý. )
Khí khí thiết cùng kỳ lý, vật vật chí cực chuyển quan.
(Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ, nhất âm nhất dương, cộng có 10 loại tin tức. Nghiên cứu lý lẽ cho tận nơi từng cái phải xem suy vượng, khinh trọng, sáng tối, rộng hẹp, cùng tắc. Thần nào sinh, thần nào khắc, thần nào hình, thần nào hợp. Vật bị phá, vật được sinh, thuộc chủ việc gì. Đem từng vật đi suy, cần phải có căn cứ chỗ dựa tung tích. Đến chỗ không thể tránh được, đó là Chuyển quan. Nhập điều cách nào, xứ cực vừa chuyển, tức là kiến công, viên hoạt thông suốt. Nhưng phải kiến định tung tích, đoán thế nào là thành khí hay không thành khí. )
Hữu khí là cấp, Hữu tình là thiết.
(Hữu khí, là đương thời (nắm thời tiết) vậy, xem trong ngoài bát tự can chi minh ám. Như trung khí tháng 6, tiết Đại Thử, thổ kim vượng tướng, là loại hữu khí. Chỗ này là rất cấp, còn lại thì không. Hữu tình, là hợp khí vậy, như loại Giáp thấy Kỷ, Bính thấy Tân, Đinh thấy Nhâm. Giữa can chi minh ám, có hợp đều lấy, chỗ này là tối thiết vậy. Vừa nói chẳng những Hợp khí Hữu tình, cát thần sinh ta khắc ta, cũng là hữu tình. Hư Củng quý khí, sinh ta, khắc ta, hình ta, hợp ta. Cũng không có khác vậy. )
Can năm quản lý, thứ xem tháng giờ, như lúc quyền hành, gia giảm một ít.
(Xem chỗ can năm ngồi trên chi nào, cùng ta hút nhau như thế nào là thiết. Cũng cần dẫn ở quý địa hữu khí, phương thể cục lớn. Lại xem dụng thần, lại gắn với Tuế quân, là cát hung thần sát nào. Nếu thêm dụng thần cùng Tuế quân hòa, thì hoàn toàn quý là không sai. Thứ xem quan hệ giữa hai thiên can tháng giờ, cuối cùng không thể lấy sai biệt, lại không có bó buộc. Trong trụ tượng số biến hóa, ngũ khí chân giả, cát hung thần sát, đều nên dẫn quy về tọa ở giờ. Phân kĩ khinh trọng, một chút cũng phải so sánh. Lại nói: Thái tuế là lĩnh tụ một năm, là chủ tể của chư thần, rất có chỗ dùng. Chỉ vì Từ Tử Bình lấy ngày làm chủ, chuyên thủ Tài Quan. Ít nhiều kẻ hậu nhân hiểu nghĩa sai lầm.
Cho nên viết: Năm nói giống như cái đầu móc cân, dùng để buộc vật. Tháng nói ví như cái móc treo vật, để nâng vật lên. Ngày giống như thân đòn cân, phân chia không sai một ly. Giờ ví như quả cân, dùng gia giảm nặng nhẹ. Ví dụ hầu như là phù hợp vậy. )
Tùy hợp vẫn khẩn, diêu hợp bất nhàn.
(Tùy hợp: Như Bính Ngọ khí tráng, liền biết có hai chữ Tân Mùi. Như ảnh theo hình, cũng xem Tân Mùi, vẫn là ân nhân của nhà ta, nhưng là cừu nhân. Diêu hợp: Tức là chỗ thần tàng ở trong chi, cùng nó hợp khí chỗ ẩn tàng vậy. Như các loại Thân Mão, Tý Tị, Hợi Ngọ. Che cái có khí, loại việc hợp xa, tự ý không để nhàn hạ vậy. )
Thể chế phải rộng lớn.
(Phàm bát tự phải xem quy mô khí tượng: Thế thể rộng rãi, trời đất đâu vào đấy, hùng tráng kiện thực. Ngũ khí thuận khắc mà có lực, đảo sinh nghịch hóa mà có công. Quý khí qua lại không hỗn tạp, tất không phải loại cách tầm thường. Lại xem bát tự đại ý thể đoạn: Quá thanh, thì hoặc là hàn hoặc là bạc. Quá dầy, thì hoặc là trọc hoặc là trì trệ. Quá hoa lệ, thì hoặc là khinh hoặc là phù. Quá tuỳ tiện, thì hoặc là lưu hoặc là đãng. Quá hữu tình, thì hoặc là lạm hoặc là dâm. Quá cô giới, thì độc lập không thể dung vật. Quá cương dũng, thì hoặc là bạo hoặc là táo mà không có hàm dưỡng. Quá nhu nhược, thì hoặc là ngu hoặc là độn mà không có hành động. Quá chân thực chấp nê, thì tự trói buộc chỉ có biết mình. Quá mở rộng, thì mưu đồ nhiều mà hoa nở không có quả. )
Mặt chữ phân trước sau.
(Trói dụng nét chữ, xa mà ở sau, hoặc bị mặt chữ nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không thương phạm, cần có tuế vận sinh phù, mới là toàn mỹ. Trói dụng nét chữ, tuy gần mà ở trước, nhưng có nét chữ nhàn thần, chỗ xa ở sau. Động xa mà gần, nét chữ dụng thần mới ngại. Lại xem trong trụ, vật nào có thể tiêu trừ đi được. )
Thiên can chuyên luận sinh khắc chế hóa.
(Sinh là tương sinh, lý là có sinh hay không muốn sinh. Khắc là tương khắc, tình có khắc hay không muốn khắc. Chế như là thủy khắc hỏa, mà có thổ chế sát, hỏa có tình phục sinh. Hóa là bản thủy khắc hỏa, thấy mộc có thể cướp khí, lý là hỏa chuyển được sinh. Còn lại loại suy. )