KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Ngọc Tỉnh áo quyết
(An Đông Đỗ Khiêm sáng tác – Vạn Dân Anh chú giải)

Phàm lý suy thành tạo hóa, phép lấy ngày làm chủ.
(Chỉ lấy đề cương làm Thể, phải cho rằng làm chủ đầu mối. Được hóa khí làm bản thể, nhập môn thì phải biến thông. Phải biết can chủ có bản tượng có hóa tượng, mới nắm tin tức. Như Giáp bản tượng tức là mộc, hóa tượng là thổ. )

Chi thần tọa dưới, trước tìm ý nghĩa.
(Là toạ dưới nhật can, thủ trước tiên xem địa chi này. Cùng một vị chi tháng, một vị chi giờ, một vị chi năm. Hình xung phá hại, sinh khắc tỉ hòa như thế nào. Can chủ có vật gì được hỉ kỵ, không thể xem là bình thường, không thể nhìn quanh. )

Khí tháng thiển thâm, vật nào chủ quyền.
(Dưới nguyệt kiến, khí hậu thiển thâm (nông sâu). Khí ngũ hành, can thần là gì. Thoả đáng ngày này, nắm lệnh thiên thời (khí hậu). Khí 5 ngày là một hầu. Chuyên nói [ Đức Tú có hay không ])

Địa chi chí thiết, đảng thịnh là cường.
(Địa chi là 4 vị chi thần, là chí thiết, xem thiên can là càng cấp thiết vậy. Phải xem Trạch xá ( chỗ nhà ở) can chủ là gì, dụng thần cơ nghiệp là gì. Lực nào khinh, lực nào trọng. Trạch xá tức là được phương đắc địa, Chi thần tức là chỗ nhận quý. Một là, xem thế lực Xung khởi, là chi thần nào. Hai là, xem thế lực Củng khởi, là chi thần nào. Ba là, xem thế lực Hình khởi, là chi thần nào. Bốn là xem, thế lực Hợp khởi, là chi thần nào. Năm là xem, địa chi cai quản. Phép này là có lập ở không trung vậy. Luận địa chi, 4 mấu chốt Xung Củng Hình Hợp, là cánh cửa cấp thiết vô cùng. Có một phép, thủ dụng chỉ nắm nhật can làm chủ. Trung gian hoặc có cát thần có hình xung, hung sát có củng hợp. Sinh vượng hưu phế, giao nhau không đều, khó bề hành động. Không bằng chỉ xem kĩ 4 nền tảng địa chi, trong ngũ khí vật nào tối trọng, đo lường tương lai tốt xấu. Lại xem thần nào hao tán, thần nào có thể sinh phù, thần nào có thể xung hợp, thần nào có thể biến hóa. Sau đó lại xem nhật can thuộc ngũ khí nào, cùng khí nào cai quản tối trọng nhất. Liền nắm các vật Tài Quan, khí dụng thần, cùng ngũ khí trước dẫn về tọa ở giờ, vật xem thêm tính toán. Thần nào khinh, thần nào trọng, nghĩa lý điều thuận là nói cát, trái lại là xấu vậy. Như chỗ này đã lập định, sau đó xem khí địa chi. Đều có đầu mối chỗ hỉ chỗ kỵ, không thể không xem xét. Ngũ khí là nói 5 khí mộc hỏa thổ kim thủy, từng cái cần phải nhớ kĩ đề mục. Nếu trong ngũ khí, đảng nào nhiều thì là trọng. Như can chi trong ngoài, Minh Ám có nhiều mộc, thì khí mộc đảng thịnh vậy. Hỉ kỵ đã luận ở trước trong ngũ hành. )

Chuyên chấp dụng thần, thiết tường hỉ kỵ.
(Chuyên nhất một vị dụng thần gọi là Tôn trưởng, là quyền thần, là mệnh lệnh, là bản lĩnh, là chỗ dựa. Chỗ này không phải tầm thường, nắm mà suy, không dám cẩu thả tuỳ ý cầu. Thủ ngoài dụng thần, các loại then chốt như Tài hoặc Quan, hoặc Nhận hoặc Sát, hoặc Thực hoặc Quý, hoặc Ấn hoặc Lộc Mã. Lấy các loại ví dụ. vốn không có phép định. Dụng thần tối kỵ tổn phạm, kiêm sợ chia cướp, không nên thái quá hay bất cập. Như vật thái quá, vốn là không tốt. Hoặc tuế vận lại đến sinh phù, tức là phá hư lật đổ. Như mộc bị gãy, thủy bị khô, thổ bị sụp, hỏa cùng phát mà tắt, kim thì hao tổn. Như vật bất cập, vốn không tốt. Hoặc có tuế vận lại đến cướp khắc, phá hư hết vật, sao không có họa. Dụng thần hỉ kỵ, rất mới rất hay, sẽ nói phần khác, vật phải được trung hòa là quý. )

Khí khí thiết cùng kỳ lý, vật vật chí cực chuyển quan.
(Ngũ khí kim mộc thủy hỏa thổ, nhất âm nhất dương, cộng có 10 loại tin tức. Nghiên cứu lý lẽ cho tận nơi từng cái phải xem suy vượng, khinh trọng, sáng tối, rộng hẹp, cùng tắc. Thần nào sinh, thần nào khắc, thần nào hình, thần nào hợp. Vật bị phá, vật được sinh, thuộc chủ việc gì. Đem từng vật đi suy, cần phải có căn cứ chỗ dựa tung tích. Đến chỗ không thể tránh được, đó là Chuyển quan. Nhập điều cách nào, xứ cực vừa chuyển, tức là kiến công, viên hoạt thông suốt. Nhưng phải kiến định tung tích, đoán thế nào là thành khí hay không thành khí. )

Hữu khí là cấp, Hữu tình là thiết.
(Hữu khí, là đương thời (nắm thời tiết) vậy, xem trong ngoài bát tự can chi minh ám. Như trung khí tháng 6, tiết Đại Thử, thổ kim vượng tướng, là loại hữu khí. Chỗ này là rất cấp, còn lại thì không. Hữu tình, là hợp khí vậy, như loại Giáp thấy Kỷ, Bính thấy Tân, Đinh thấy Nhâm. Giữa can chi minh ám, có hợp đều lấy, chỗ này là tối thiết vậy. Vừa nói chẳng những Hợp khí Hữu tình, cát thần sinh ta khắc ta, cũng là hữu tình. Hư Củng quý khí, sinh ta, khắc ta, hình ta, hợp ta. Cũng không có khác vậy. )

Can năm quản lý, thứ xem tháng giờ, như lúc quyền hành, gia giảm một ít.
(Xem chỗ can năm ngồi trên chi nào, cùng ta hút nhau như thế nào là thiết. Cũng cần dẫn ở quý địa hữu khí, phương thể cục lớn. Lại xem dụng thần, lại gắn với Tuế quân, là cát hung thần sát nào. Nếu thêm dụng thần cùng Tuế quân hòa, thì hoàn toàn quý là không sai. Thứ xem quan hệ giữa hai thiên can tháng giờ, cuối cùng không thể lấy sai biệt, lại không có bó buộc. Trong trụ tượng số biến hóa, ngũ khí chân giả, cát hung thần sát, đều nên dẫn quy về tọa ở giờ. Phân kĩ khinh trọng, một chút cũng phải so sánh. Lại nói: Thái tuế là lĩnh tụ một năm, là chủ tể của chư thần, rất có chỗ dùng. Chỉ vì Từ Tử Bình lấy ngày làm chủ, chuyên thủ Tài Quan. Ít nhiều kẻ hậu nhân hiểu nghĩa sai lầm.
Cho nên viết: Năm nói giống như cái đầu móc cân, dùng để buộc vật. Tháng nói ví như cái móc treo vật, để nâng vật lên. Ngày giống như thân đòn cân, phân chia không sai một ly. Giờ ví như quả cân, dùng gia giảm nặng nhẹ. Ví dụ hầu như là phù hợp vậy. )

Tùy hợp vẫn khẩn, diêu hợp bất nhàn.
(Tùy hợp: Như Bính Ngọ khí tráng, liền biết có hai chữ Tân Mùi. Như ảnh theo hình, cũng xem Tân Mùi, vẫn là ân nhân của nhà ta, nhưng là cừu nhân. Diêu hợp: Tức là chỗ thần tàng ở trong chi, cùng nó hợp khí chỗ ẩn tàng vậy. Như các loại Thân Mão, Tý Tị, Hợi Ngọ. Che cái có khí, loại việc hợp xa, tự ý không để nhàn hạ vậy. )
Thể chế phải rộng lớn.
(Phàm bát tự phải xem quy mô khí tượng: Thế thể rộng rãi, trời đất đâu vào đấy, hùng tráng kiện thực. Ngũ khí thuận khắc mà có lực, đảo sinh nghịch hóa mà có công. Quý khí qua lại không hỗn tạp, tất không phải loại cách tầm thường. Lại xem bát tự đại ý thể đoạn: Quá thanh, thì hoặc là hàn hoặc là bạc. Quá dầy, thì hoặc là trọc hoặc là trì trệ. Quá hoa lệ, thì hoặc là khinh hoặc là phù. Quá tuỳ tiện, thì hoặc là lưu hoặc là đãng. Quá hữu tình, thì hoặc là lạm hoặc là dâm. Quá cô giới, thì độc lập không thể dung vật. Quá cương dũng, thì hoặc là bạo hoặc là táo mà không có hàm dưỡng. Quá nhu nhược, thì hoặc là ngu hoặc là độn mà không có hành động. Quá chân thực chấp nê, thì tự trói buộc chỉ có biết mình. Quá mở rộng, thì mưu đồ nhiều mà hoa nở không có quả. )

Mặt chữ phân trước sau.
(Trói dụng nét chữ, xa mà ở sau, hoặc bị mặt chữ nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không thương phạm, cần có tuế vận sinh phù, mới là toàn mỹ. Trói dụng nét chữ, tuy gần mà ở trước, nhưng có nét chữ nhàn thần, chỗ xa ở sau. Động xa mà gần, nét chữ dụng thần mới ngại. Lại xem trong trụ, vật nào có thể tiêu trừ đi được. )

Thiên can chuyên luận sinh khắc chế hóa.
(Sinh là tương sinh, lý là có sinh hay không muốn sinh. Khắc là tương khắc, tình có khắc hay không muốn khắc. Chế như là thủy khắc hỏa, mà có thổ chế sát, hỏa có tình phục sinh. Hóa là bản thủy khắc hỏa, thấy mộc có thể cướp khí, lý là hỏa chuyển được sinh. Còn lại loại suy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Địa chi chuyên thủ hình xung phá hại.
(Hình: Như loại ngày Sửu giờ Tuất, là Hình xuất. Như loại ngày Tị giờ Dần, là Hình quy. Vật xấu cần hình khử, vật tốt hỉ hình quy. Xung: Cát tượng cần xung hung tượng, quý khí cần xung nhà của ta. Phá: Đại khái là vật bị phá hư, giữa có cát có hung. Như Mão phá Ngọ, chính là Ất khắc nhà Ngọ Kỷ thổ bị phá. Nếu Kỷ thổ là Sát, khu vực có lực, tuế vận một khi lộ ra, hại là không nghi ngờ. Nếu như không lộ, thì cũng giống như ôm hổ mà ngũ. Lại xem chữ Dậu có khí hay không có khí, có thể khống chế hay không. Lại như Kỷ là quý khí, lộ mà có lực có thế, thì cũng vì phá mà mang đến phúc. Hại: Xứ Lục Hại, nếu mang kỵ thần hung sát, đến khắc đến cướp, đúng là cừu hại. )

Tượng thành một nhà. Bất chấp quý khí.
(Trong bát tự con người, hoàn toàn không có các loại Tài Quan quý khí, có an nhiên phấn phát phú quý sao? Bởi vì lấy khí tương sinh, tự lập thành tượng vậy. Sinh ý cuồn cuộn, có tình không hết, cao xa vững bền như vậy. Bản tượng phối bản, như loại Giáp Ất Bính Đinh. Hóa tượng phối hóa, như loại Mậu Quý Đinh Nhâm. Mộc hỏa thành tượng, thổ kim thành tượng, kim thủy thành tượng, thủy mộc thành tượng. Cùng có ba tượng thuận theo thứ tự, cùng giống như phép này. Như loại tượng hỏa thổ kim. Lại có tứ tượng hòa hợp sinh sản, cũng như vậy. Như loại thủy mộc hỏa thổ. )

Căn nguyên nhất khí. Sinh vật đầy đủ.
(Như thứ tự khí kim lâm đúng thiên thời kiến vượng, lại không có cướp khắc. Nhất khí đến chỗ sinh, là thủy thần vậy. Thủy thần đã hiển lộ ở thiên can, hoặc phiếm lạm ở địa chi, vật thịnh không cát. Vẫn còn bao nhiêu hỏa thổ, có thể dựa vào làm đê phòng chăng? Còn lại cứ loại suy. Thì đạo tạo hóa tròn hay khuyết, sáng tỏ như có bằng chứng, vạn không mất một vậy. )

Mấu chốt Bát pháp. Khởi đầu ngũ khí.
(Bát pháp đã luận ở trước, ngũ khí gồm có: Tụ tán, tròn khuyết, thực hư, thâm thiển, địch giao, rộng hẹp, nặng nhẹ, dày mỏng, hàn hòa khác nhau. Can chi đều có lực, khắc vật quy tổ.
Tinh thần cường kiện là Tụ, hỉ cát thần, kỵ hung sát. Cũng cần phụ tá cát thần, xung là vô nghĩa.
Hình mà không quy là Tán, hợp với hung sát, kỵ cát thần.
Kim mộc thủy hỏa thổ đều đủ, thuận theo thứ tự là khí Đủ.
Ngũ hành khuyết một, đợi đến tuế vận bổ túc là khí Khuyết.
Thực, như là Giáp Tuất kiến loại Bính Dần, có hợp có sinh, cục hướng về một tượng, giữ lại ở một phương. Trong trụ nếu không có loại kích dương ngang tàng, như vậy thì bất quá chỉ là một phú ông mà thôi. Tức là có thể mà vô dụng, dẫu có quý cũng là ngồi không ăn bám. Như trong trụ có khí thổ thái trọng, lược kiến Quan đến là quý.
Hư, như là thổ nhập Dậu Dần, mộc lâm Ất Tị, kim đến Thìn Hợi, thủy hướng Mão Tuất, hỏa cư Sửu Thân.
Khí hư mà không thể kiên cố. Còn lại loại suy.
Khí thâm, ví dụ như bản tượng mộc hóa tượng gần tiết Thanh Minh.
Khí thiển, như bản tượng mộc hóa tượng phương được tiết Vũ Thủy.
Khí địch, như Tân Dậu kiến Ất Mão, đại khái rất hung. Nếu thấy Kỷ Mùi Kỷ Sửu, có chuyển dựa vào gốc, lại cát. Như không có chỗ dựa, thì xem Khách Chủ cường nhược, Chủ nhược thì thành Quỷ tượng, Khách nhược thì thành Tài tượng.
Khí giao, ví dụ như Đinh Tị kiến Tân Hợi, Bính Tuất kiến Kỷ Sửu, Canh Thìn kiến Quý Mùi. Nhưng vẫn phân chia khí nào vượng mà nói.
Khí hợp, như dụng thần, có tình với một hai thần ở trong cục. Hợp cũng có sinh vượng, chỗ dụng dẫn khí nhưng khí đến không được.
Khí rộng, là chỗ dụng dẫn khí đến được, chỗ xứ sinh vẫn có đủ tinh thần. Thông khí tam hợp, hoặc thông khí lục hợp.
Khí khinh, như loại bản tượng mộc hóa tượng, lại nhập vào đất kim, lại không phải đúng mùa.
Khí trọng, như tượng mộc phùng Dần Mão, là loại địa chi bản tượng.
Khí mỏng, như tượng mộc tự mình gặp đất tử tuyệt, vẫn không đúng tiết mùa.
Khí dày, như tượng mộc phùng đất khố mộ trường sinh, hoặc đúng tiết mùa, hoặc có can khác đến trợ giúp.
Khí hàn, như mộc khô hỏa tán, kim hàn thủy lạnh thổ đóng băng. Thiên can hưu tù, địa chi tử tuyệt.
Khí hòa, là có hợp có sinh, có tình có trợ, có lâm quan đế vượng, không có hưu phế tử tuyệt. Hoặc có thần vượng tướng đến phù trợ, hoặc nắm mùa trước sau.
Có đầy khí mà thịnh, là vật không có chỗ nương tựa mà làm đê phòng, không lâu sẽ sụp.
Có khí kém mà suy, là căn rễ không thực.
Vẫn không được thời, khí cũng không đủ.
Lại không có sinh phù, loại này là bỏ đi, làm sao nói thắng?
Có khí suy mà lâu dài không được thiên thời, lại lâm tử bại. Nhưng có ám can tương sinh, dẫn quy về đất sinh vượng.
Có khí vượng không bền, lúc đầu thì dáng vẻ phấn phát, từ từ suy nhược. Cuối cùng thì thu liễm quy tàng, xứ đi lại không có chỗ dựa, dễ dàng phân tán, thịnh tình không có ngọn nguồn.
Đặc biệt thiếu khuyết chuyển sinh, thế nhận không liên tục. Có khí non yếu dễ tiến hành, phương khí đến, người đều cho rằng là tượng vượng tướng. Nếu gặp trung gian, khí ngu dầy cướp khắc, hung không thể nói. Có khí nén chịu quá xa, khí hậu đã qua đều viết hưu phế, lại nói thành công là thoái. Không biết dư khí, bỗng được xứ vượng đến giúp, xâu động sức sống. Khí trở về xứ đầy, khỏi chịu tuế hàn. Dư khí tức là khí bị hưu phế, cho nên nó xoay hóa tượng vậy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Tạo vật cần nguyên bản thể.
(Phương Đông dương tán tiết lấy mà sinh phong, phong sinh mộc. Phương Tây âm dừng lại để thu vào mà sinh táo, táo sinh kim. Phương Nam dương cực mà sinh nhiệt, nhiệt sinh hỏa. Phương Bắc âm cực mà sinh hàn, hàn sinh thủy. Trung ương âm dương giao nhau mà sinh thấp, thấp sinh thổ. Thể tượng nguồn cội Ngũ hành, đã nói ở trước. )

Khí Hoàn xuất từ căn cơ.
(Phàm chỗ thành tượng gọi là Khí Hoàn. Phàm quý khí quy nhất, cũng là Khí Hoàn. Phàm lục thân dồn nhất, ta sinh là con, như loại Bính Tân kiến mộc vậy. Một khi nói vợ sinh là con, thủ hai nghĩa mà dùng phải hoạt pháp, đều có lý thú. Sinh ta là mẹ, hợp ta là vợ, tượng có nhau đầy đủ thì thành vật. Diệc là ở chỗ sinh lục thân, dồn một mà thành vậy. Như trong vận thành tượng, ích lợi là do căn cơ, vốn có ý đến là thành vậy. Nói mộc hỏa tất không có ngang nhau, đều có khinh trọng, là mộc trọng hỏa khinh. Vận đến gặp can hỏa chi hỏa, hợp thành chân tượng. Nếu ở trong tứ trụ: Hoả vốn mang các chữ lâm quan, đế vượng, trường sinh, khố mộ, mới gọi là Khí Hoàn. Nếu không thì không chân không thực, không đủ không chính, chỉ tốt bề ngoài mà thôi. Còn lại cứ loại suy theo chỗ này.)

Pháp như kiểm soát. Đều bẩm cát hung.
(Giờ cùng tháng ngày cùng năm, can chi bát tự. Phải kết hợp ngang dọc qua lại, thủ dụng lẫn nhau, không thể có một chỗ nào mà không chiếu cố đến. Như 4 can cưỡi 4 chi, từng chỗ đều chiếm quý chiếm sát, hoặc can năm cưỡi chi tháng chi giờ thủ quý. Hoặc can năm thủ chi ngày, can ngày thủ chi tháng, can tháng thủ chi năm, đều có quý có sát. Hoặc hai chi năm tháng, hai chi ngày giờ, tự thủ can thần quý khí. Như kiểm soát chỗ này tỉ mĩ thì sẽ không sai lầm. )

Vật cần lấy bỏ. Mới rõ khinh trọng.
(Chỗ đoạn này nói trước tiên cần phải xem 4 chi, đem từng cái chỗ tàng can khí, hiện ra lấy hoặc bỏ. Suy tính kỹ đảng nào nhiều, lực nào ít, vật nào vượng vật nào nhược, vật nào khinh vật nào trọng. Mới rõ được đạo lý dụng thần cát hung. Không đi lấy bỏ từng cái, đại cương che giấu, khó mà suy xét lấy hay bỏ. )

Vinh mà dễ khô, thân phát không lâu. Hiển mà không lộ, vật thành tuế hàn.
(Khí giòn hư phù non yếu, đất hưu phế bại tuyệt, được can chi giáp phù, tạm hợp mà phát ở một thời. Nếu gặp tuế vận lấy thần tán trợ phá thương, hoặc ức dương vô khí, thì dễ bại mà không lâu dài. Như vật không hiển lộ dụng thần hữu khí, hợp thần cưỡi nhau thành tượng, một đường trong vận không có bị phá thì lâu bền. Buông thả Tuế quân hàng năm pha tạp, chính là Phù vân tế nhật (mây che mặt trời), hoặc là ví như mặt trăng đi qua bóng cây mà thôi. Cho nên can không hiển lộ, ẩn tàng trong chi có khí được sinh. Lại là cao xa vậy. )

Đoạt thai hoán cốt. Ý xuất tự nhiên. Bỏ gốc lấy ngọn. Gốc không đúng nghĩa.
(Bản tượng như có Tài Quan quý thần, vị trí khác lại có thông khí. Có hóa có tượng có loại. Dẫn dụng lại thanh. Nên lợi dụng phúc địa, không miễn cường mà hành khí, giống như có cảm tình tất có chỗ đến vậy. Muốn hóa chân tượng, như loại Đinh Nhâm hóa mộc. Vạn nhất không nên đố hợp tranh chiến, chợt đến trong vận lại trợ giúp bản tượng rõ ràng. Lợi dụng bản tượng các loại Tài Quan quý nhân, thì đúng khí bản tượng, từng kỳ không bị tiết khí. )

Đại khí từ gốc, tự nhiên chế xấu mà hành thiện.
(Thể cục nếu lớn, bản nguyên nếu trọng, dụng thần nếu chuyên, kiêm mang Đức tú quý nhân. Tuy có Đại hao, Nguyên thần, Nhận Sát các loại ác sát, lại có thể trợ uy. Thì chỗ gọi là lấn ác mà lấy thiện vậy. )

Thể cục suy bạc, mới biết hại vật lại còn hại người.
(Tuế cùng Nhật thần lực hư bạc không chuyên, bị cát hung thần sát điều khiển, theo khí rung chuyển. Tinh thần bị chỗ sai khiến, tự mình chủ trương vô định. Đa số là bên trong tượng hung sát, các loại Nhận Sát Vong Kiếp Kim Nhận Bạch Hổ gây nên, cho nên không thể so với khí đức tú thuần hậu vậy. Kiến nghiệp lập sự, tuy có ngẫu nhiên thành, sao không hại vật tổn người chứ. )

Quý nhân Lộc Mã giao soa, Câu Giảo Nguyên Vong đa đoan.
(Quý khí không nên phiền tạp, dụng Tài chỉ dụng Tài, dụng Quan chỉ dụng Quan. Như dụng các loại Lộc Mã Quý nhân Thực thần Ấn thụ, chỉ cần một vị hai vị, quý khí phụ tá tiện lợi. Như loại dụng Tài lấy Quan phụ trợ, Quan Ấn giúp nhau, Lộc Mã kiêm hành. 3 vị 4 vị, phiếm lạm liền không quy nhất. Lại nói: Một loại quý khí, cần phải có Quý nhân Đức thần tương trợ, mới có thể đại hiển. Các loại Câu Giảo Kiếp Sát Nguyên thần Vong thần, nếu quý khí trọng, thì trợ thân hành uy. Ác Sát trọng, thì hình hại đến nhanh, vừa nói các loại sát đủ kiểu, chỉ cần thông tin. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Cát thần tham thiên nguyệt phù trì, Hung sát bát Không Vong bình phẩm.
(Quý thần Lộc Mã, đều là cát thần vậy, lại thêm gặp Thiên Nguyệt nhị Đức càng cát. Câu Giảo Nguyên Vong, đều là hung sát vậy. Nếu nhập Không Vong giảm nửa. Cát thần cũng sợ Không Vong, hung sát cũng cần Nhị Đức. Chú xưa nói cát thần quý khí, tuy thanh quy nhất, lại không thấp trọc, hoặc nhập cách khác, dựa theo suy diệu kỳ. Nếu không có Thiên Nguyệt nhị Đức, Thiên Nguyệt nhị Hợp, Nguyệt không Thiên Xá trợ giúp, cũng giảm nửa phần, không đủ phúc lực. Không Vong lấy ngày sinh chỗ thuộc tuần nào, như tuần Giáp Tý, thì 2 vị Tuất Hợi là đúng vậy. Không Vong có 3 thần, ở sau trong một tuần chỗ tàng kiền thần, như tuần Giáp Thìn, là 2 can Giáp Ất vậy. Sau một tuần chỗ độn đến can thần, như tuần Giáp Thìn, Bính Ngọ tức là Canh Tân vậy. Một Tiệt lộ Không Vong, đến thêm càng khẩn, như loại ngày Giáp Kỷ giờ Thân Dậu. Hung thần cần tọa Không, Cát thần sợ tọa Không. Còn nói: Kim Hỏa cần Không, Mộc Thổ Thủy kỵ Không. Lại nói: Thủy cũng hỉ Không. Lại nói: Trong trụ hung sát cùng giao, có Đức thần, gặp nguy hiểm thì tự tán, chết không đến nổi mất mạng, ngày giờ mang càng khẩn. )

Thập toàn quý khí, vẫn xem ỷ phục Họa tinh, nhất cục hung thần, phải biết ẩn tàng phúc khí.

(Quý khí thập phần đầy đủ, thủy chung không phá, trung gian an ninh không có một họa thần ẩn tàng. Thần hung sát, qua lại phồn tạp, trong đó lại có một chỗ phúc thần, ẩn ẩn thâm áo. Hoặc Hư Giáp Diêu Hợp hoặc hình xuất xung quy, cũng gắn bó có chỗ hữu ý, không thể lấy toàn bàn hung sát mà xem. Chỉ đợi vận nào, phù khởi phúc khí trong cục thì cát. Phù khởi họa tinh, phá quý phá dụng thì hung.)

Điều cao cách cô, thế cùng lực tận, nghĩa lý chính dục biến thông.
(Nghiên cứu dụng thần nhật can, kiểm tra minh ám, tạo hóa cát hung, chỗ thần sát ẩn hiện. Thể cô cao, khí cũng không là cùng tuyệt, khó mà thủ dụng. Chí cực như vậy sẽ chuyển xứ đóng, lý tự có cùng thì biến, biến thì thông, vận nghênh đón khí nào. Một đường xoay chuyển, là sức sống nào, khởi tình phát nguyên, nghĩa cũng có vô hạn. )

Khí đầy vật thịnh, vận cùng tuế xung, thân chủ làm sao mà yên tĩnh.

(Nghĩa muốn xem đại khái, khí tượng hoặc đầy hoặc lưu, khảo sát lý thể vật, thì thịnh mà cực, thì điềm báo không bền. Huống chi gặp tuế vận ức thì suy phúc, dương thì trôi nổi bồng bềnh không có, lại nếu xung cùng hình, thân chủ này, chỉ có thể an nhiên điềm tĩnh không quấy nhiễu, là không có lý này vậy. )

Năm tháng ngày giờ, can chi có thứ tự, nếu thần Chủ Khách, thể cách hướng theo thứ tự.
(Tháng nên ở sau can năm, giờ nên ở sau can ngày, nếu lại có tuần hoàn theo lần lượt. Như Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, là kỳ cách vậy. Năm là vua, nhày là chủ, tháng giờ giống như khách như thần, phụ tá quý khí, kiêm thứ tự lần lượt giống như phép trước, hướng về cương thường, phụ trợ tuần tự theo thứ tự, là đúng tôn nghiêm. Lại nói: Dương chỉ muốn cẩn thận, âm muốn theo bầy, chỗ gia tăng nhiều sát quý sát. )

Nhật chủ tối hỉ can trước, nhật chủ ứng sợ thứ vị.
(Can trước nhật chủ, như ngày Giáp thấy chữ Quý, loại này có 3 lợi ích: Một là có thể hợp Mậu Tài giúp ta. Hai là, có thể thiện về trường phát ta. Ba là, có thể hóa tượng sinh ta. Nhưng khí trước đây hơi chậm. Sau nhật chủ, như Giáp thấy Ất, loại này có 4 loại tổn hai: Một là, có thể cướp thê tài không cua ta. Hai là, có thể hợp sát tổn hại ta. Ba là, có thể hóa tượng để tiết khí ta. Bốn là, có thể ngăn cản tiền lộ, làm Nhận hại ta vậy.)

Chi thần tiền khí, chi thần hậu cung.
(Địa chi nghênh đón khí phía trước nhiều, là người cả đời có tinh thần lỗi lạc. Như năm Giáp Tý, hoặc ngày Tý thấy Sửu Dần Mão Thìn Tị vậy. Địa chi hậu cung, chủ làm việc tích trữ hối hận, hoặc gãy ngã, tiến thoái đa đoan. Như năm Giáp Tý, hoặc ngày Tý, thấy Hợi Tuất Thân Mùi vậy, còn lại cứ loại suy. )

Độc điệu Tuế quân, cô hư nhật chủ.
(Can chi tháng ngày giờ, nối liên thành đảng, tác vượng tác hợp, hoặc thành một tượng, hoặc hóa nhất khí. Chỉ có Thái Tuế cô hành khác một vị, quá xa quá phân tán, tất nhiên ly tổ biệt tông mà tự lập, hoặc làm con nuôi, nghèo cùng cô độc. Giống ở trên năm tháng giờ, mà nhật chủ độc cư cô quả, vẫn tự mình vô hợp vô sinh, lại lập ở nơi khuyết hãm, không phải cùng sống chỗ khác, thì sống nhờ người nuôi, ở rễ bên ngoài.)

Đảng hợp song tranh, thê tài lưỡng nghĩa.
(Trong trụ nếu như đảng thổ đã nhiều, thiên thời (mùa sinh) lại thuộc mộc vượng, đạo ức dương, dụng như thế nào, không thể liền lấy hai kẻ thù cạnh tranh nhau. Nếu thổ không hư mà tăng dầy, mộc có khí mà lộ, chi âm kiêm không hình hại xung khắc, lại có thể bồi dưỡng mộc tú thành rừng, là dụng lại thanh kỳ. Ta hợp là vợ, ta khắc là Tài, thế nhân chỉ biết ta khắc, nói chung là thê tài, là sai lầm không đúng, lại còn xem hóa tượng như thế nào. )

Dụng thần một chữ, quý khí đến trọng, tượng muốn tinh minh, khí tổn phân tán.
(Trong trụ có cả đời chỉ sử dụng một chữ, nói không bằng ô mặt chữ, đủ hợp đủ tán, từng chữ lại đi thành bầy đảng. Nhật can xứ khác cũng treo một chữ, không có chỗ nương tựa, cho nên dụng chữ này, hoặc dụng hai chữ. Một vị Dụng thần, tinh thần nghiêm thiết tối diệu, như dụng Quan tinh, lại thấy Quan tinh đến tiếp, phục kiến lộc. Hoặc dụng Tài, lại thấy Thực thần quý nhân, đều là quý khí trùng điệp, là giống không có hoa, hoa không có quả. Dụng thần tráng kiện thành tượng, ý chuyên lực lộ không hư, ngày đêm không nghịch. Như thổ mộc thủy sinh ban ngày, kim hỏa sinh ban đêm, trong trụ như vậy, sao không là người danh lợi đặc đạt? Nếu thiên can địa chi, cùng ta không chiếu cố nhau, dụng thần không hợp, tinh chủ xứ cô, xung hình khắc hại, nghịch nhau cướp khí lại nhiều, tượng không cứu trợ, trùng điệp thấy hưu phế, không lập không thành, là đạo bất túc vậy. )

Ta sinh ta khắc tình có thoái, nó khắc nó sinh khí tự quy về.
(Phàm ta sinh ta khắc, nghĩa tất nhiên thoái tán. Nó đến sinh ta khắc ta, cả hai đều là khí nhập. Là sinh, là khắc nhập cát thần, như vậy là đệ nhất diệu kỳ. )

Sinh khắc qua lại, hợp chủ phù trì.
(Trong trụ hợp không, hoặc có thần cứu trợ. Hợp thực, hoặc có thần phá hư. Sinh có chế, khắc có phù trì, tiến thoái qua lại không đều nhau. Ngộ nhỡ thất thủ, một chút ở trong đó, liền kém xa nghìn dặm. Nhưng hội ở hợp chủ phù tá, thần nào là chí thiết, là cấp bách vậy. )

Thiện Ác phức tạp khó khăn, thời phân nhiều ít.
(Hai vị Thiện Ác đều nhiều, hoặc đan xen hoặc phức tạp, nhưng xem giờ tọa tụ nhiều hưu vượng, tụ ít hưu vượng. Ác nhiều thì là toàn hung tụ sát, Thiện nhiều thì là cát tụ phúc tập, thiện ít lực không đủ, ác ít mấy thứ. Vừa nói năm tháng giờ cùng tồn tại quý nhân sinh vượng, cùng ngày hài hòa, là đệ nhất kỳ diệu. )

Sinh mà phục sinh, đều dựa vào thành công ở đâu.
(Như người Bính Tân thấy vận Mậu Thân, lại thấy năm Canh Thân, có ý chuyển dựa vào phục sinh. Có Nhâm thủy tự đến tinh thần, huống chi Bính Tân hóa thủy cho nên được sinh, chỗ này là dựa vào thành công ở đâu vậy. )

Hóa mà lại hóa, lại mờ mịt sa vào xứ nào.
(Như Đinh Nhâm hóa mộc, huống chi có trên đất Dần Mão Hợi Mùi, lại có dư thần, thủy mộc cứu trợ. Mộc bừng bừng nuôi ngu, yên ổn lại có dụng thủy đến trợ giúp, khí mờ mịt không có nơi nương tựa. Lại xem vận dẫn, hoặc có đường đê phòng chế ngự, mới có thể thành phúc. Nếu gặp xứ chuyển sinh, một hướng mênh mông, lại không thành lập vậy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Ngũ tượng cưỡi nhau: Có Tường thụy, có Quai kiển. Ngũ khí giao chiến hoặc là thương tàn, hoặc là phấn phát.
(Tường thụy, như thành tượng mộc hỏa, hỏa thổ, thổ kim, kim thủy, thủy mộc. Đắc thời, gọi là được thiên thời. Đắc vị, gọi là các khí được vị trí sinh vượng, hoặc nhận kiến lộc. Đắc quyền, gọi là nhận được Tài Quan quý nhân, như có quyền có thế có chấp sự. Quai kiển, trái ngược với 3 điều trên, nếu tọa dưới quý khí, dẫu có nhận đất quý, địa chi lại bị hình xung khắc hại vậy. Giao chiến, là nói thể lực ngang nhau, như một vật là thiên thời, nhất vật thị kỳ đảng chúng. Hoặc nhất vật đắc địa, hoặc có một vật được quyền, như loại thủy hỏa, thổ thủy giao chiến. Thương tàn, gọi là dụng thần bị khắc, can chủ bị hại, hoặc Tài cũng bị thương, Quan cũng bị khắc. Hoặc một vật có đảng thành hóa, lại thấy khắc thần đến phá. Như loại Bính Tân hóa thủy, bỗng nhiên thấy thổ đến khắc. Phấn phát, vật và ta cùng an nhiên, Khách Chủ cùng hòa hợp. Ta cưỡi khí vượng mà bị xâm phạm, nó đắc địa mà còn được đón nhận, thế ta cường mà địch không còn, nó có khí mà lại hướng đến. )

Tài Quan muốn chân, chỗ diệu này cần lý hóa khí.
(Như Bính Tân thấy Mậu Quý là Tài, Giáp Kỷ là Quan, đây là chân tạo hóa, tú khí không thể nói. Còn lại loại suy từ chỗ này. )

Tài Quan có tượng, chỗ tinh hoa này phải dựa vào Cục thần.
(Như Bính Tân thấy Mậu Quý là Tài, được hỏa cục, Giáp Kỷ là Quan, được thổ cục. Thì phương là Khí hoàn (đủ khí), mà còn thanh thuần không gì sáng bằng vậy. Còn lại theo ví dụ này mà suy. )

Tạp khí Tài Quan, Cát gọi là Khố, Hung gọi là Mộ.

(Khí Tài Quan, quân bình có Củng, lại thêm quý khí ở trên, là cát Khố. Tạp khí ở trong khố có 3 mấu chốt, nếu nắm vượng tướng là quý, ích lợi cho ta là tốt. Nếu Quan hóa Quỷ nhập mộ, Tài thần hưu tù nhập mộ là hung, thì không phải là Khố. Nếu cát thần nhập khố, vẫn mang hưu phế đến hình, mà còn khắc ta thì cũng không phải là Khố. )

Thiện Ác xung thần, khắc thì nhập, sinh thì thông.
(Địa chi đến xung quý khí, không thể liền nói cát, Ác thần không thể liền nói hung. Phải là can chi cùng khắc, mới là khắc nhập cát hung. Hoặc là cả đời có một sinh một khắc, một hòa một chế, chỗ này có biến hóa thông đạt ở trong đó vậy. )

Trên sinh dưới, thành thoát khí, có thể lo Tử vượng Mẫu suy. Ba cướp một, sinh dụng thần, lật lại hỉ Tử suy Mẫu vượng.
(Trên sinh dưới, như can sinh chi, chi sinh âm, là một vậy. Năm sinh tháng, tháng sinh ngày, ngày sinh giờ, là hai vậy. Được sinh đã là Tử, nếu thuộc Nhàn thần, là ba vậy. Như mộc sinh hỏa, ở dưới chính là Tử vượng Mẫu suy, còn lại theo chỗ này mà suy. Ba cướp một, như kim sinh 3 thủy 4 thủy, là Mẫu sinh Tử nhiều, Mẫu đã chịu hư. Tức là hỉ Tử suy mà Mẫu ở đất vượng là cát. Như mộc sinh hỏa ở Hợi, chính là Tử suy Mẫu vượng. Còn lại loại suy như vậy. )

Tiền hô hậu ứng, sinh thì kế tục, khắc thì trì trệ.
(Phàm cách cục một can một thần, có Thể Dụng, có đầu đuôi, có phối hợp ăn ý, nan hĩ. Sinh thì kế tục mà không tuyệt, khéo léo có tình. Nếu khắc thì đẽo gọt nung luyện, ký tế đê phòng, khai thông sắp đặt tạo vật vậy. Như là cục diện, đều ở sinh khắc nhỏ nhặt, do đó không thể nghiên cứu thấu triệt nguyên cơ vậy. )

Tả bao Hữu thừa, thu thì quy, tán thì hư.
(Phàm một can một chi, dựng đứng ở trong trụ, có dấu hiệu tả hữu nối nhau. Có bao la, có quy hướng, có tản mạn, có thoái thoát, tính toán khinh trọng, gia giảm được mất. Nghĩa chỗ này là đương nhiên, không thể theo nhỏ bỏ lớn, bỏ gốc lấy ngọn. )

Cục thần không thủ, Nhàn đến nhất phái thanh lạnh.
(Trong trụ nhật chủ thủ các loại Tài Quan Dụng thần, hoặc tạp hoặc trọc, hoặc phồn hoặc hỗn. Hoặc khiếm thắng phụ, hoặc khiếm chế hàng, không phân tốt xấu. Chợt một can nhàn, không chủ không dụng, nhưng lại hai bên gặp gốc, có thể nhận một quý khí. Nhưng thủ can, thuộc thần nhật chủ, chờ độn thần nào, chớ lấy dụng chỗ hư tạo tượng. Hoặc các loại hợp Quan hợp Tài, thủ thành cục có thiết dụng, tuy mới nhàn mà vô dụng. Mà đã đến thời Nhàn thần, Nhàn được thành khí, gặp lúc hữu dụng, thì nói vật bỏ không có thiên hạ. Huống hồ tạo hóa. )

Quan khí hỗn cầu, diệu ở từng chi phối hợp.
(Đã trọng phạm cách thành một thể vậy. Nói như Quan Sát hỗn tạp, vừa có chỗ phối hợp, vừa có không đón chỗ quay về, phải được tuế vận, lại phối ngẫu không quay về là cát. Hoặc Quan Sát trong trụ, đều tìm chỗ hợp chỗ chế, thì đều phát sinh bất cập. Lại có tin tức cực kỳ thiết sự, lại có 2 Quan 1 Sát, 2 Sát 1 Quan, đều là loại này vậy. Như dụng thổ là nhật chủ, lộ Giáp Ất là Quan Sát, trong chi có chữ Thân Dậu, hoặc chữ Thìn Tị, đây chính là chỗ hợp chỗ chế vậy. )

Có tình ý với nhau, phải xét ai Phù, Củng Kẹp tuy chân, cần phòng tổn lộ.
(Có tình ý với nhau, như Bính Ngọ thấy Nhâm Tý, đều có chỗ dựa nhau, Bính dụng Quý Quan, Nhâm dụng Đinh Tài Kỷ Quan, xem dư thần nào phù là cấp, thần nào không cấp. Củng Kẹp tuy chân, như người Ất gặp hai vị Quý Mùi Ất Dậu, minh kiến Củng Kẹp Giáp Thân là chân Quan, quý khí là không nghi ngờ. Hoặc dư thần mai tàng hỏa thần, nếu gặp tuế vận kiến hỏa kiến canh, hoặc kiến vị trí điền thực, phát họa khả thắng ngôn tai. )

Hợp khởi lực lộ, chớ lấy loại Nhàn, thoát phế tinh anh, gia chuyển thời dụng.
(Thiên can tương hợp, xem chi thần cát hung là khẩn yếu, chi thần có lực, thì tự nhiên phi thường. Cùng địa chi tương hợp, xem chỗ lực can cưỡi chi, lực trọng tốt hơn tinh thần vậy. Có nói: Trên dười đều hợp, có chân hợp sát, như loại Kỷ Hợi kiến Giáp Dần, lại có loại Hợp Sát như Giáp Tý thấy Kỷ Sửu. Có nói: Sát thần kỵ hợp, hỉ hình xung phá hại, can thần chi thần có một nhàn mạn, tuế vận hợp, là hết sức tinh thần. Có nói: Lộc Mã cần lục hợp, kỵ hình phá, huống chi trong trụ thấy hợp, lực lộ, không phải là nhàn vậy. Thoát phế tinh thần, như tinh khí ta sinh ta khắc, vốn tán khí ta, nếu thêm thời thượng dụng thần, thì hung chế ngự, nếu chuyển sinh trợ chủ bản, thì đúng là xoay chuyển sức sống vậy. )

Quần phân có nhật chủ chuyên hành, nhật thần ắt ở vị trí cát hung.
(Cát thần: Tài nguyên, Quan quý, Ấn thụ, Thực thần, Nhật Đức, Nguyệt Đức, Nhật Lộc, Quý nhân, Đức thần, Thiên Nguyệt Đức hợp, Thiên Xá, Nguyệt Không, Thời lộc, Thời tượng, Kỳ bảo Học Đường. Hung thần: Kim thần, Dương Nhận, Thất Sát, Không Vong, Lục Hại, Cô Quả, Cách Giác, Tam Hình, Xung thần, Tử thần, Tử Tuyệt, Câu Giảo, một thuyết ở năm, Vong Thần giống thuyết ở trên, Nguyên Thần cũng vậy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Loại tụ có niên thần lĩnh dụng, Thái tuế xem Cung trạch cát hung.
(Cát thần: Kiến Lộc, Dịch Mã, Trạch thần, Thiên Y, Phúc Đức, Khuyết Môn, Tiến thần, vị trí Sinh Vượng, Hoa Cái, Tam Kỳ. Hung Sát: Toái Sát, Đích Sát, Hàm Trì, Mộc dục, Vong Kiếp, Bạch Hổ, Dương Nhận, Phi Nhận, Phá Trạch, Đại Hao, Câu Giảo, Tang Điếu, Quan Phù, Bệnh Phù, Tử Tuyệt. )

Thời tọa tiêu tường, đương nhiên có ngũ lý.
(Một là, nói Thời thượng (trụ giờ) có các loại Vong Kiếp, Nhận Sát, Không Vong, Nguyên Thần, Cô Quả, Tử Bại, Kim Thần, Bạch Hổ. Ác khí quán tụ, đảo quy ở ngày, có chỗ hình xung khắc phạm là không cát. Nếu quý khí tụ chỗ này, thì là Tường thụy ( nghĩa đã nói ở trên) vậy. Một là, nói năm tháng ngày ba hạng quý khí, tam nguyên phúc lộc thần dẫn nhập, ở đâu trọng, ở đâu khinh, phân rõ chính xác. Ở đâu đến được an ổn, ở đâu không được dừng lại, lại thêm nhà mình còn tiếp được khởi không, hoặc như xe thuyền, lại thêm phòng ốc nhà ở. Lại nói giờ có nơi ở, lại ở trên chỗ năm tháng ngày, lại xem có nương tựa nhau ăn khớp hay không. Lại nói giờ tọa một vị, ắt là đầu mối làm Chủ Thể. Tôi thấy không có dũng cảm như vậy, cũng phải biện rõ cát hung, cùng là diệu lý, thể được tạo hóa tinh thiết vậy. Bên trong năm tháng ngày, có một vị cùng giờ hòa bình. Hai vị cùng giờ hòa, hưởng ít phú quý. Ba vị cộng cùng giờ hòa, đại phát kiến thành phú quý, nhưng ngày thì khẩn năm thì ít tháng thì chậm hơn. Một là, nói giờ có khắc phá xung hại, cùng trợ đều dẫn các loại Không vong Tử Bại, sự thể là tóm lược nhất. Như giờ Canh Dần thủ Ất Hợi là dụng, là vượng tướng sinh phù, đắc khí đắc địa. Có mượn nhờ hay không, tham khảo tuế vận, tính toán tùy theo cát hung phát phế. Một là, nói giờ muốn vượng tướng có khí, vật khiến hưu tù vô tình. Lại nói có ba loại tình nghĩa đầu giữa và cuối, như đầu giờ Dần thuộc thổ, giữa giờ thuộc hỏa, cuối giờ thuộc mộc. Một là, nói giờ tương xung hình, là việc thiết khẩn vậy, tải vật không tổn sức, giờ tọa thứ tự ngũ khẩn, là đạo chí thiết chí yếu. Bởi vì ngày sinh này, thiên hạ phổ biến, chỗ mọi người cùng chung đại cương tạo hóa vậy. Duy chỉ có thời khắc, một chút cũng không thể có sai trái, cho nên là tiêu chuẩn làm bằng chứng, huống chi giữa lúc trao đổi, là quỹ đạo thời khắc của ngày kế tiếp. Rất là quan trọng, cần phải nắm rõ vậy.)

Hư thần độn pháp, hữu tam thuật chi diệu thú.
(Các loại cát thần như Lộc Mã Quý nhân, các loại hung như Nhận Sát Tử Bại, từng việc đều có định vị. Chính là nguyên ở can chi sử dụng Ngũ Hổ Độn, có thể nắm chuyện quan, cực kỳ ứng nghiệm. Lại nói: Thái tuế chỗ lâm thập nhị cửa quan thiện ác, độn cụng chỉ độn can Tuế thần, xứ cát lấy phúc, nguyên nhân chỗ hưng họa. Nếu thủ dụng các loại Tài Quan nhật chủ, chỉ cần xem hai vị thiên can năm và ngày, thuộc chỗ độn lúc sinh, loại thần sát cát hung ở đâu, chỗ cũng phân chia khinh trọng, như chỗ xuất thân con người, tư cách nguồn cội là thuộc phái nào, ở đâu? )

Phương dụng thần sinh giờ vượng, nên đề phòng khắc chế.
(Dụng thủy là Quan, kỵ thổ đến các nơi Thân Tý Thìn. Dụng mộc là Quan, kỵ kim đến các nơi Hợi Mão Mùi. Chỗ Lý Hư Trung gọi là Thương phá gia trạch dụng thần, tôi chỉ có lấy xứ khởi phát dụng thần, trước tiên là bị thương phá, tức là chỗ dụng thần không có nơi trở về vậy. )

Kỵ thần tọa chỗ lệnh vượng, lại hỉ hình thương.
(Kỵ thần, như dụng kim là Tài, hỏa tức là kỵ, duy chỉ có hỉ thần khắc chế, thổ chiếm là vi diệu. Lại cần thủy đến các nơi Dần Ngọ Tuất Tị, để giảm chỗ cơ trạch kỵ thần phát vượng vậy. )

Dụng thần Quỷ mộ, gặp là tai ương. Dụng thần là quý, tình giúp đỡ vút cao.
(Dụng thần tự có Quỷ mộ, cát thì gọi là Quan khố. Như mang hung sát đến hình xung khắc cướp, dụng thần tự kỵ, nhật chủ càng kỵ. Dụng thần tự có Tài Quan quý khí, không phải là Tài Quan của người trong dòng họ vậy. Múc đích đến thuận sinh phù hợp, tinh thần gấp trăm lần, dụng thần tự hỉ, nhật chủ càng cần nên thấy vậy. )

Mộ tuyệt cùng Sát Nhận đến hình, họa hình ác hội. Không miễn nhận Tài Quan là thể, tụ lộc càng thêm phúc.
(Mộ Tuyệt Tử Bại, đạo rất là bất túc, nếu có mang theo các loại ác sát Nhận Sát Vong Kiếp, Câu Nguyên, đến xung hình khắc, cướp khắc nhật chủ cùng dụng thần, họa hoạn lập tức đến vậy. Hai thần Nguyệt Không Thiên Xá, rất cát thiện, Thiên Nguyệt Đức, Thiên Nguyệt Hợp, 4 thần cùng đoán, đều nắm chức chủ sự, nếu lại thuộc loại Tài Quan quý khí chủ lĩnh thì càng tốt, phúc khí càng vinh diệu, cùng song song tập hợp càng tốt vậy. )

Có loại Thương quan mộ thần, trong trụ càng xấu. Có ám Kiếp tài Khố Quỷ, chia mệnh là rất hung.
(Thương quan tự có Mộ Khố, như người thấy Kỷ là Thương quan, gặp Thìn là Mộ thần của nhà mình. Nếu mang hung sát, cướp khắc hình xung nhật chủ cùng dụng thần, ác khí rất là khẩn thiết, là gốc khố Kiếp tài vậy. Như người Bính ở vị trí Tuất Kiêm ở trên có Đinh vượng, đến mà hung sát ở trước, cướp khắc hình xung dụng thần nhật chủ là rất hung. )

Đất Ấn thụ sinh, thích hợp ở nhuận trạch. Ác thần tử địa, sợ lấy hình thương.
(Ấn thụ vốn là thần sinh ta, nếu gặp chỗ Ấn thụ nhà mình sinh vượng, lại thấy thần sinh hợp, chuyển thành phúc, nhà mình đại nghĩa, liên miên bất tuyệt là được. Hoặc đầy hoặc tràn, hỏa xuất đốt mộc, mộc phù thủy phiếm, thổ trọng kim mai, hỏa trọng thổ hư, thủy lưu kim trầm. Trái lại thì có họa quá đầy sẽ sụp, quá thịnh thì gãy vậy. Thần hung ác, nhà mình đã ở xứ tử tuyệt, ở trên lại cưỡi ác khí, cướp khắc hình xung dụng thần nhật chủ thì thảm hại, nếu tử tuyệt mộ bại ở trên cung chủ, là ác đế phá hư, thì rất hung. )

Dụng thần xứ ác không có, địa chi khởi dục toàn chương. Phương nạp âm sinh vượng, dụng thần thản nhiên vô kỵ.
(Phàm dụng thần hãm ở vị trí bại tuyệt ác hãm, trong trụ lộ kỵ, đa số là hạ cách ti tiện. Lại mang thêm thần hung sát, được ư? Nếu thấy 1, 2 vị thì được, nếu tuế vận đến phù khởi khí ác hãm, kiêm hội Sát cục; tức là luận chìm tang bại, loại khí hối lận phá mất vậy. Thậm chí thân chết không có đất an táng, cần phải đoán Không vong cùng phương Sát. Phàm mệnh nạp âm, luôn sinh luôn vượng, đất tứ quý, đến sinh dụng thần. Tự nhiên hỉ duyệt, đều không sợ sệt, điềm nhiên tự an. )

Hỏa thổ trong nguồn mất, dễ hóa tượng bụi mờ.
(Nếu khí hỏa thổ không được tạo hóa trung hòa, hoặc táo hoặc hàn, hoặc thiên hoặc khô, khí vật dễ bị mờ mịt, là tượng mờ mịt mơ hồ, không thể tả sáng, gặ là không thành vậy. )

Tượng tử bại có đảng, chớ hại thần sinh vượng.
(Như tượng tử bại có bè đảng, lại đến hình xung cướp phạm thần sinh vượng, dấu hiệu lớn là không hanh thông. Như người thủy thấy các loại thần nhà Mão mộc, Dậu kim, Thìn thổ, Tị hỏa, lại đem cung chủ nhật chủ sinh vượng, cung chủ dụng thần sinh vượng, phạm tương khắc nhau, là điềm bất hạnh không nhỏ, cần xem cho tỉ mĩ. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Ngũ khí bố định đông tây, địa lý có bồi có kiệt.
(Hợi Tý thủy, Dần Mão mộc, Tị Ngọ hỏa, Thân Dậu kim, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ. Như kim đến Hợi Tý, thì khí tiết mà kiệt. Mộc đến Hợi Tý, thì nhận nuôi dưỡng được bồi. Còn lại theo đó mà suy, cực kỳ thiết yếu. )

Một thần tụ tàng quý sát, nạp âm tự vượng tự sinh.
(Như một thần tụ quý, trường sinh mang Sát, ở ngày giờ là cùng đường sinh Sát. Vừa nói Sát mang quý, tự trường sinh, là hữu dụng, chỗ này là tự sinh mang quý, còn gọi là trong Sát tàng quý. Vừa nói trong năm can âm theo sinh trưởng, cùng thần sát ở ngày giờ, là chân trường sinh. Là khí tụ năm tháng ngày giờ, lại là một cường bốn nhược. Còn nói: Tứ trụ chỉ cần một vị trường sinh, chuyên kỳ vượng khí, là Tụ liễm tinh thần. )

Không Vong đứng đầu số Tiêu Tức, há chỉ có chỗ khuyết thập can.
(Sát này rất là yếu khẩn, ở giữa khinh trọng chân giả, nên khảo sát cho tỉ mĩ. Một tuần Không Vong, 10 ngày chỗ phân trên dưới mà quản lý, như trong tuần Giáp Tý, Mậu Thìn đến Quý Dậu dụng Tuất Không là cấp thiết, Kỷ Tị đến Quý Dậu dụng Hợi Không là cấp thiết. Một khí phân khinh trọng, Giáp Tý thấy Nhâm Tuất là Chân Không, thấy Mậu Tuất là nhẹ. Một là nói: Ở trên vai một vị thái trọng, ví dụ như người Giáp thấy Quý, người Ất thấy Giáp. Tức là trong một tuần, sau Lộc gặp Không Vong. Như ví dụ tuần Giáp Tý là Nhâm Thân, tuần Giáp Tuất là Canh Thìn. Một là nói Ngũ khí lạc Không, như tuần Giáp Tý là thủy thổ, tuần Giáp Tuất là kim, tuần Giáp Thân là hỏa thổ. )

Quan quý ức phù lưỡng lập, xưng đình nhất lộ từ cơ.
(Quan tinh là phúc nguyên quý khí một thân, đệ nhất thiết sự, Tài thần là thứ. Nếu có một phù một ức, nghĩa là lưỡng lập, bất phân thắng bại, như âm dương khí không thăng giáng. Trong một đường vận, nói dừng phối tình thuộc cường nhược, lấy được Sát hưng hay phế vậy. )

Sát lộ Quan ẩn lấy nhờ tình, Quan hiển Sát tàng mà lập nghĩa.
(Sát lộ, có thần hiển lộ chế hợp cùng phối, Quan ẩn không có Ấn thì càng ẩn, chủ bên ngoài có quyền mưu thao lược, bên trong mưu kế tính toán xấu xa, nếu Sát trọng mà không có khống chế, trái lại là Quan thần vô tình. Quan hiển Sát tàng, bên trong thì tính ác vô tình, bên ngoài thì nghĩa hòa cẩn tiết, đại nghĩa như vậy, lại đem truy nguyên để lấy thông tin. )

Kỵ Sát khí chuyên, dụng thần có tình. Dụng thần lực thiết, kỵ Sát ngoại trì.
(Kỵ Sát có sinh có phù, hoặc tọa đất sinh vượng, cùng có thần hợp trợ, ý là khí chuyên, không thể được vậy. Trong trụ là thấy dụng hư thần đến sinh hợp, tình lộ hình có khí, hoặc lạc thiên trung, tuy vượng cũng không có đất, tình lực tán, cho nên tự không bằng khí chuyên. Nếu dụng thần hợp trợ, có phù có sinh, hoặc lực chuyên vị sinh vượng, mới có thần sinh trợ, có tình có lực, rõ ràng là thiết yếu. Cả hai Kỵ thần Sát thần, tuy ở trong trụ làm khó dễ, lực khiếp tự thiên lệch, tuế vận kiêm có cướp khắc, trong trụ tự nhiên dừng lại, không phải khí rơi mà chạy bên ngoài vậy. )

Khuyết dụng nạp âm, hoàn toàn vì bổ khí.
(Đại Nạo tạo ra phép nạp âm, vốn có 8 cách hữu dụng, rốt cuộc làm sao mà bỏ vật, chỗ khuyết khí vẫn phải nạp âm bổ túc, như khuyết thổ nạp âm có thổ, thì bổ túc cái không đủ, một ít hưu tù. )

Vật đều diệu ý, thân không thể đảm nhận.
(Quý khí hoặc nhiều hoặc trọng, tự thân vô khí sao có thể đảm nhận. Như tùy theo loại, liền hóa, hoặc tòng tượng, ứng khí, không luận ở đây. Một khi nói thân không thể đảm nhận, giống như bệnh thì không thể ăn, hoa không kết quả. )

Thế tình sung duyệt, phát vượng theo thời. Tượng ý không hàn, giam cầm qua ngày.
(Bát tự khí hậu so sánh tình thế, tình tư thể đoạn, như người khí tráng khí đầy, tự ấm áp thích thú, thiếu đạt năng lực thì cứu thông, lợi vật phát nhận, hoặc tuế vận phù trì, lại nói gì chăng. Nếu bát tự thể chế cô hư, khí tượng lãnh lạc, kiêm mang Không vong Hưu Tù, mặc dù có trí thuật tài dũng, không có chỗ thi triển, năm tháng không nhàn mà thôi.)

Khí thành công, biến hóa quy tôn. Thần qua lại, lui tới đều quý.
(Biến hóa thành công, như Nhâm thủy ở tháng 12, bản khí tàn phế. Có can chi tượng mộc dẫn hóa, là đệ nhất diệu sự, qua lại đều quý. Như loại Đinh Tị kiến Tân Hợi, hoặc Canh Dần Kỷ Mão. Địa chi tuy xung, xứ bất hòa, hai chi lẫn nhau đều có Nhàn thần Quý khí qua lại, còn lại theo ví dụ này mà suy. )

Hưu tù lại nhập Không Vong, trái thời việc thoái. Vượng tướng nếu kiêm sinh hợp, phúc thấu quyền hành.
(Phàm vật hưu tù, vốn là không tốt, lại nhập Không Vong, há chỉ sinh không gặp thời. Dẫu cho có thời, việc cũng thoái tán không cứu. Nếu ngũ tượng vượng tướng, đến Không cũng được, kim hỏa vượng nhập Không lại tốt. Nói đến thần vượng tướng, vốn tự đương thời, nếu sinh nếu hợp, càng thấy tinh thần quyền biến. Phúc có tập hợp, có được ý chí, được đảm nhiệm đều không đánh mất. )

Khí đã qua là muốn thoái tàng, trở mình nên ở đất mộ tuyệt. Phương vật đến cần nên tiến thủ, vốn hỉ cung sinh vượng.
(Như tháng 3 đã qua khí Giáp mộc, hợp lý thoái tàng, duy chỉ nên ở đất mộ tuyệt, là hợp đạo tự nhiên vậy. Nếu lâm đất sinh vượng, lại thành bất thường. Phương đến sinh vượng, như tháng 12 Giáp mộc tiến khí, tháng giêng Ất mộc tiến khí, đem đến phương tiến. Nên lập đất sinh vượng, là họa là phúc càng gần. )

Hưu Tù hữu dụng, càng phát vẫn chậm, vượng tướng vô tình, xấu thì rất nhanh.
(Dụng thần tuy quý hữu dụng, sinh ta trợ ta, lại lâm loại Thiên Nguyệt nhị Đức, Thiên Ất. Nếu không lâm mùa vượng tướng, dẫu là hữu dụng, càng phát càng chậm. Trong trụ tuy mang thần vượng tướng, cùng ta vô ý, giống như nửa cát nửa hung. Một khi đến tuế vận, chỉ phù hung sát, họa rất là nhanh. )

Tiến thần chấp quyền, rất tinh rất xứng, nạp âm lại quý, nên khắc nên sinh.
(Tiến thần mang quý khí, là hay đệ nhất ở trong trụ. Dẫn Sát nhập nội, là hung bậc nhất. Quý khí trong trụ tuy cát, tình nếu không gần. Nạp âm nến đến khắc ta sinh ta, thì mới là hữu ý, là lấy quý toàn mỹ. Nếu nạp âm không sinh khắc, không phụ trợ quý, cùng ta là không có chung vậy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Xung khí Vượng thần, thấu dụng điêu khô, ác sát nắm quyền, bản tuần cấp thiết.
(Như Đinh Mùi hoặc sinh mùa hạ lúc đắc thời, hình xuất Tân Quý ở trong Sửu, thấu ở trong trụ là dụng. Phúc khí mỏng, là họa cũng nhẹ. Ác Sát vượng tướng vốn là hung, nếu cùng nhật thần trong một tuần, họa nhanh rất nặng vậy. Vốn trong tuần Quý thần, rất cát rất khẩn. )

Kim thần đắc thế rất hung, Không Vong gặp xung tất phát.
(Kim thần vốn là hung, nếu không có đất hỏa chế, lại được xứ khác phù khởi, hoặc vượng tướng, đều là đắc thế. Rất hung bạo rất cương, là hung rất nặng, hãm Không Vong không bằng không có dụng, chính là vật bỏ đi vậy. Gặp xung thần tất nhiên khởi phát, tức là hữu dụng vậy, ví dụ như Dần Không thấy Thân vậy.)

Nhận cùng Nguyên Vong Kim đầy cục, hoàn toàn dựa vào hỏa thần. Vượng tướng hung sát hỏa đốt không, cần dựa vào tượng thủy.
(Kim chính là tượng sát hại vật mệnh, cục đầy khí kim, kiêm mang các thần hung sát hình khắc, ta không sát hại người khác, tất bị chỗ người hại, không có hỏa chế tất nghiệm. Nếu tượng hỏa đốt nóng hưng thịnh, loại này phần lớn là gặp hỏa tai, huống chi tuế vận phù hợp khí, phải nhờ tượng thủy ký tế. )

Cầm khí mộc thổ, để đợi phát minh, lực khắc xung bằng, không phân thắng bại.
(Mộc không có thổ thì không thể bồi dưỡng, thổ không có mộc thì không thể khai thông, đợi đến tuế vận, phù cái không đủ, hoán khí mà phát, tự nhiên có ích kiên cố. Về phần nhuận trạch xung khắc, có thắng có bại, lực bằng nhau thì thắng bại không phân, phải xem khí mà thôg tin, mới có thể đoán vậy. )

Phù trì sinh trợ, Sát thần chuyển dưỡng, chiến đấu xung tranh, xem khí phá tận.
(Sinh trợ không ngừng, xem thần chuyển dưỡng, chỗ nào là cơ thể dụng, là dấu hệu cát hung mà quyết định. Chiến đấu xung tranh, xem khí phá tận, tức chỗ này là người thoái nhàn vô dụng vậy. )

Can âm thủ Nhận muốn phân minh, chi lực đương quyền phòng ám phạm.
(Chi lực là nói quý lực. Can âm thủ Nhận, ví dụ như Đinh Kỷ thấy Mùi, Tân thấy Tuất, là loại Nhận. Chi lực đương quyền, như Mùi thuộc quý thần, hoặc là lực trọng, thì hợp Ngọ, Ngọ xung Tý, là phạm đến Mùi. Lại như Mùi có lực trọng, có thể xung khởi chữ Sửu trong có vật Quý Kỷ xuất ra. )

Vượng thần dựng đứng, vật chớ trước mặt, tràn đầy ác sát, can không xứ dừng.
(Như vị trí một can, có khí thiên thời rất vượng, trong trụ nổi bậc thiên quyền, còn lại không có liên quan bó buộc. Thần bị khắc, sao dám hiện lộ, dẫu cho tàng phục, cũng chớ dám chấp sự vậy. Can năm can ngày, gặp các ác thần Sát Nhận đầy trong cục, can chủ là mình, lại không có chỗ ở, quyết chủ không cát, là bần yểu ác tử. )

Trong Quỷ phùng Quỷ không có khử tựu, xung mà gặp xung thiếu khuyết chỗ dựa.
(Khắc hại ta gọi là Quỷ, nếu Quỷ cũng gặp Quỷ đến tương hại, xoay chuyển thương khắc, khí cực áp bức ta. Nếu càng không có chuyển chế, là dấu hiệu kề chết. Chi thần bị xung, can thần quý khí liền không an ổn, xung thần lại gặp xung kích thì không biết làm sao. Nền tàng nhà ta lại không có chỗ nương tựa, tượng không thành lập, vật cũng không thành, không họa thì yểu. )

Cùng khắc Trọng thôn đều thành họa, nhị kích song xung tổng bất tường.
(Như Giáp thấy 2 Nhâm là Trọng thôn, thấy 2 Canh là Song khắc. Trong trụ trùng điệp thấy xung thần, hoặc xứ hợp có hình có hại, có khắc có phá, đều là dấu hiệu không cát tường vậy. )

Ngũ hành cần phải quân bình, thiên lệch khó mà cứu vật. Tứ trụ hoàn toàn nên phối hợp, hưng suy e rằng không thành công.
(Nói quân bình, có 5 loại: Một, là dụng thần nhật chủ, xung hòa cứu nhau, so với chỗ này đều có chỗ dựa không đến nỗi thiên khô. Hai là, tổn khí dụng thần, có vật để chế, không đến nỗi tác quái. Ba là, can chi trên dưới giống nhau, được chỗ đón nhau, không quá bất cập. Bốn là, Tử khí hoặc đối địch vật bé, đảng ít không thể thắng đảng nhiều. Năm là, muốn biến muốn hóa, có đố có phá, muốn an muốn tĩnh, có phạm có kích. Phối hợp, có 6 loại: Một là, suy thần hữu dụng, cần có vận phù suy mới được. Hai là, thiện ác rời nhau có thể cùng phối, xem vận nào phù, để phân biệt cát hung. Ba là, tuy có dụng thần, một hưng một suy, thiên khô không cứu. Bốn là, chỗ an chỗ cứu, chỗ ứng chỗ cầu, đều có chỗ dựa. Năm là, vượng muốn thành vật, một suy không thể hoàn thành. Sáu là, can chi đều có chỗ phối quý khí, hoặc có chỗ bất thường. )

Phúc đức cả đời, không biết vật hóa liên miên. Thứ vị đến thần, phải biết ám thương cản đường.
(Trong chi có loại Kỷ Ất Tân Đinh, đều nói Thất Sát hung ác, không ngờ rằng Kỷ thổ sinh Tân kim, Tân kim sinh Quý thủy, Quý thủy sinh Ất mộc, liên tục không tuyệt, huống hồ lộ rõ, xứ hư củng hoặc có Giáp Bính Nhâm Canh, ám hợp hoàn khí, là quý cách đại phú. Thiên can không đến trước một vị, địa chi không đến trước một vị, đều là hung ác, không thể không biết. Như Ất thấy Bính, hợp Tân ám tổn. Cùng có loại Nhận, Tý thấy Sửu, Sửu thấy Dần, Dần thấy Mão, có Nhận có Sát, Hàm Trì Tỉ kiên, là ác khí đa đoan. )

Thập can chú ý phạm chân khí nhau, Thất Sát phạm khắc thần cực thiết.
(Như Ất Dậu thấy Mậu Tuất, tức thành Đinh hỏa thương Ất kim, lại là mộ hỏa lục hại, phát khí kim vượng. Còn lại loại suy theo chỗ này. Thất Sát phạm khắc, như vốn dụng Ất mộc hành Dậu vận, xung tổn tuế Sửu, Ất Mùi kim cục, vốn phá Ất mộc dụng thần, kiêm xung Sửu hư vị, đem chỗ thần tàng, phá bể hư ngã xuống đất vậy. Đưa ví dụ này suy, cục còn lại xem kĩ. Đoạn này chỉ có thể nói, Thất Sát phùng xung là không cát, không thể luận kim cục phá Ất mộc dụng thần. )

Bát tự mang Sát hình thai, ngoài ý muốn cần biết. Tứ Ấn có liên quan gì cưỡi khí, nói rõ thủ loại.
(Chỗ Thai thần truyền thông tin, đều có khác loại, nhưng người ngày nay ước tổng vị trí 12 tháng, cho nên không có thiển thâm, dẫn đến sai lầm. Một phương pháp có khoảng 12 tháng, đối nhau chỗ ngày sinh là đúng, như ngày Bính Ngọ ở trong tiết tháng nào. Hoặc là tháng 11, hoặc là tháng 9, hiểu thông mà sử dụng. Nếu mang hình, chủ sớm làm trở ngại cha mẹ, không hãm xung hình, tứ sát là tối ác. Tứ Ấn: Cổ ca nói: Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Ấn, được Mậu Kỷ thiên về chủ Tín, nếu gặp Giáp Ất thì thấp hèn mà còn tham lam, có gặp Bính Đinh nhiều là bần bệnh, cách Canh Tân hiệu là Mẫu sinh Nhi, tụ sát cung Sửu thì phần đa là đoản mệnh, Nhâm Quý không nói. )

Ngũ hành phân bố phương ngung, tử thủy sinh kim mà dị dụng.
(Nói hỏa sinh ở Dần bại ở Mão vượng ở Ngọ, Kim sinh ở Tị bại ở Ngọ mộ ở Sửu. Như người Giáp Tý gặp Tị, tức là sinh ở kim khắc Giáp, tuyệt ở thủy sinh Giáp, lâm quan ở hỏa cướp Giáp. Gặp Mão tức là tử ở thủy sinh Giáp, đồng đảng vượng mộc, bại ở hỏa làm hao Giáp. Từng vị đều có chỗ điều khiển, xem cục còn lại, theo sau phù ức mà luận, can còn lại loại suy theo chỗ này. )

Một Nhàn thần dừng ở tả hữu, Thương quan cướp vốn dĩ đợi thời.
(Nhàn thần dừng ở tả hữu, tức là can năm tháng giờ, đa số là không thủ dụng, cho nên một hướng hơi chậm. Mà đến tù dừng trường trí, dưỡng bệnh tang thân, hoặc thuộc thần Thương quan vô khí, không buộc thành việc. Bỗng tuế vận trợ khởi loại thần này, tiết hao khí của ta, tổn thương dụng thần của ta, nửa chân nửa giả. Kỳ thực là nuôi ngựa đắc thế, tiểu nhân phùng ân mà có quyền, chỗ này giữ lấy căn họa, sao lại chợt có vậy chứ? )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Hai bên can thần an ổn, mới là đủ lộc. Địa chi xung kích qua lại, làm sao ngựa không chạy.
(Như người Giáp Lộc ở Dần, kiến Nhâm Dần, thì nhà mình mang Tiệt Lộ Không Vong, là có phúc tăng đạo. Canh Dần là Phá Lộc, là nửa cát nửa hung. Lại như Đinh kiến Mùi là Nhận, khó mà nói lộc là quý. Tân lộc ở Dậu, kiến Quý Dậu là kim mộc phạm nhau, Đinh là Không vong Dậu quý. Đinh thụ khí ở mộc, Tân mộc dục ở thủy, chủ gian dâm. Trên Lộc độn can, gọi là Chân Lộc, rơi vào phương nào là hữu dụng. Can thấy Thiên Ất quý nhân, can lộ trên quý, phục tọa quý lộc. Như người Đinh lộc ở Ngọ, độn đến năm, được chữ Bính. Bính quý ở Dậu Hợi, mà phùng Tân Dậu, Tân Hợi. Thì Tân quý phục kiến ở Ngọ, là nhập cách cực phẩm, chỗ này Lý Hư Trung gọi là Thiên Lộc hỗ Quý. Nhất Mã không hỉ xung, xung thì động, can thần ở trên Mã cưỡi quý là cát, trên Mã độn can có tình là cát. Như người Đinh Sửu gặp Tân Hợi, là muốn xứ quý hữu dụng. Can thần trên Mã, tự mang ác thần hung sát Không vong, lại khắc chủ thể cùng dụng thần là hung. Hoặc chi thần chăm chú kích hình xung mãnh liệt, sao Mã yên ổn mà dừng chứ. )

Thương tận Quan tinh, mới biết dụng lộc. Xung phá lộc vị, mới được dụng Quan.
(Trong trụ có thần Thương quan, Quan tinh lộ bị khắc hại, lại có Nhật Lộc, dụng lộc lại thỏa đáng, không dụng cả hai, là không quy nhất vậy. Lộc vị như bị phá hư, lại chỉ dụng Quan tinh làm định thể, bởi quý dụng một đầu mối là hay nhất, nhiều thì tán liễu tinh thần. )

Lộc vị tuy minh, hóa khí e là kỵ, đã thấy Dịch Mã, lại trọng Nhật thần.
(Các loại Quan tinh Kiến Lộc, đã rõ không có phá, tất là cát là phúc vậy. Nếu thể dụng thành hóa, lại ở vị trí có đố có đoạt, hóa lại không được, là vật không thành. Thì cũng như mầm giống mà không tú, không quý không quan, hoặc có phúc, mà không có tích tài phúc hậu. Dịch Mã vốn chôn ở cung Thái tuế, muốn đến cưỡi dụng. Nếu cung ngày lại có Mã xuất ra trùng điệp, lại thành cục tiện. Một thuyết, Nhật thần Mã cùng Tuế Mã tuy trọng, Mã nếu hữu dụng, quý khí an nhiên càng tốt. Lại thấy tiếp thì bất trung vậy. )

Đã thủ Lộc tân là dụng, tế Quan Mã tướng vi nguyên.
(Độn Lộc trên can, danh là Lộc Tân (Tân nghĩa là Khách), như không có Tuế Lộc, phải cần xem độn đến lộc quan. Can thần là dụng, là lộc tối thiết, lại xem Nhật thần, dụng là thần nào vậy. Mã tướng cũng giống như Lộc pháp, thí dụ như năm Đinh Tị ngày Bính, Mã ở Hợi. Độn thấy Tân, là vợ của ngày Bính, chủ con đường chỗ cưới ở phương ngoài. Lại chia Quý Lộc Tài Quan, sát hung sát nói khinh trọng. )

Dụng tượng phù hợp, cần đề phòng đố tranh, quý khí giao thông, thiết xem phân đoạt.
(Dụng thần vốn cùng nhật can tác hợp, có tình có khí là được bằng hữu. Hoặc trong kỳ minh ám có Tỉ kiên, một tranh một đố, gặp mà không gặp. Dụng thần nhà mình có thần tranh đố, tất cả phép đoán, kể cả năm. Phàm quý khí chuyên dụng thì được, hai xứ ba xứ chia ra sử dụng, chính là vật của mọi người. Cả đời không chỉ khởi nhiều kiện tụng phân tranh tài sản gia đình mình, cũng là chỗ Tỉ kiên phân chia. Tỉ trọng Ta khinh thì càng năng. )

Tài Quan chỉ dựa vào Nhật thần, Vong Kiếp cần tham khảo Thái tuế.
(Nhật thần chỉ thủ Tài Quan làm dụng, rất là thân thiết, hưng suy vượng tuyệt, tương sinh tương khắc. Lại cùng Tuế gia cai quản như thế nào, hành tàng họa phúc cực nghiệm. Hai thần Vong Kiếp, là một năm ác sát rất nặng vậy. Cần phải tham khảo đúng Tuế quân, đều có tiến thoái. 16 loại cát hung, chỗ dẫn đạo hành tàng bỏ hay lấy, đã thuật ở trên. )

Quý có loại giáng minh năng nhẹ, Phú có phân cao thấp dày mỏng.
(Một, xét thể chế cách cục, như thế ý mãnh liệt chủ bản hùng kiện, quý khí trao đổi qua lại. Hung sát được chỗ phụ tá, không đến mức khí đầy không có rời bỏ. Là nghĩa thứ nhất vậy. Hai, Dụng thần chí thiết chí tình, không phá không hư, phân lượng cách cục, bằng nhau mà thuận. Ba, Phúc thần có tình, hóa tượng được thể. Bốn, bản loại Tài Quan hữu dụng, vận gặp phù trì không tuyệt. Năm, chỗ vật hỉ, thời thượng cùng vận được phù trì. Chỗ vật ác, thời thượng cùng vận được chế ngự. )

Xứ hung kiêm có Đức thần, xứ cát đều có phấn phát.
(Một, Đại phú không ở Tài thần khinh hay trọng, đại khái cũng đầy đủ có quý khí. Chẳng qua xem khí dày khí mạnh, nhưng trung gian khuyết tượng thanh thuần. Hai, Tinh thần có trợ giúp, Nhàn thần rất nhiều, nhật chủ có chỗ dựa, Ấn Thực Tài thần cả ba đều rất gần. Ba, Lộc Mã phù thân, Nhật chủ thụ khí Tuyệt Thai Tuyệt xứ, Tài Quan hữu dụng. Hoặc gặp sinh khí, nhưng khí chảy xa tụ tượng không rộng. Bốn, Khố Tài có củng, hoặc lộ thì khí phải dày, được xung được hình. Tài Ấn Thực thần, ba vị có một vị hữu dụng. Nhật thần nếu trói buộc tự chuyên, quý khí tản mạn, xét kĩ, đều có trên dưới rõ ràng vậy. Năm, mang hình khắc hoặc vật khắc ta thuộc khí Tài tinh sinh vượng, hoặc khí Tài thần Lộc Mã Quý nhân. )

Bần tiện mà thọ dài, phú quý mà yểu tử.
(Một, Ứng dụng thần khắc chiến không có chỗ dựa, lại kiêm hưu tù vô dụng, hoặc lâm tử tuyệt hỗn tạp. Độc thân được khí trung hòa, vận dẫn mà không thiên lệch. Hai, Thân lâm Bào Thai thụ khí phương tử tuyệt, không mang Phúc thần, vận thông thì không thể hại. Hoặc Không Vong Phá Toái, Nguyên thần Đại Hao, Lục hại Quỷ mộ, Kim thần Bạch Hổ, Tử khí Nhận Sát. Đan xen quy cục, chỉ có một Ấn thụ, hoặc một Thực thần có lực, từng vận dẫn mà xứ hỗn tạp không tuyệt, đoạn văn trên là chuẩn. Ba, Phúc qua lại được thế, tự thân vượng tướng, tuế vận hiển dương. Quá đầy thì dụng sụp, hoặc khiếm khuyết thần chuyển sinh, hoặc xứ khắc ta lại không rời bỏ. Hoặc một vật hãm Không, hình xung chỗ tụ khí của ta. Bốn, Bản tượng cùng hóa tượng, đều được dụng thần là phúc, tả hữu phùng nguyên. Bản thân lại hóa mà không hóa, căn cơ không ổn. Năm, cục đầy quý khí, thân nhược không thể đảm nhận tuế vận khắc chiến nhật chủ, đoạn văn trên là chuẩn. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Đầy bế tắc cũng từ ở hỏa thổ.
(Hỏa sinh thổ, ý là rất tốt rất thực, khí tượng tự nhiên tụ kiên cố, tất ắt là vốn trung hậu. Lợi danh an hưởng, xử thế ưu du, lại không phải không điều khiển kiến công lập nghiệp. )

Lưu hành đều dựa vào ở căn nguyên.
(Đại phàm lưu niên vận hạn ung dung, không trải qua phong ba thành bại. Bởi do căn cơ nguyên có quý khí đắc lực, dẫn hành tuế vận, trợ giúp không phá hư, là có chỗ nương tựa vậy. )

Thông minh không ngoài Đức tú, mệt mỏi chẳng qua do hưu tù.
(Đức tú, như tháng Thân Tý Thìn, Nhâm Quý là Đức, Bính Tân là Tú. Mang chỗ này đa số là văn nghiệp thông đạt, người thông minh hiểu chuyện, cục còn lại dựa theo ví dụ này. Hưu Tù Phế Tử, là thiên thời (tiết mùa) vậy. Tử Bại Mộ Tuyệt, là ngũ hành vậy. Như đầy cục đều mang chỗ các loại khí số này, cả đời sẽ mưu vọng không thành. Thoái hối tàng vụng, nếu kiêm cô khí, xuất tục làm người ở ẩn vậy. )

Khí thiên lệch đều cường mà thô tục, bản nguyên mất ký thác thì phiêu lưu.
(Như bát tự thuần âm hoặc thuần dương, trong trụ vì khiếm khuyết hợp các loại quý thần Tài Quan, dụng thần vừa thiên vừa cường. Lại có vật hình xuất xung bay đến, đều là chỗ dẫn đến khí thiên lệch, tuy tài mà thô tục, không phải thanh tú đẹp đẽ. Nhật chủ, tượng thì coi như không có bè đảng, khí thì không có nhận quý. Trong trụ có nhiều Nhàn thần ngạo mạn sát phạt, kiêm có khí hình khắc xung cướp tản mạn, rượt đuổi mệt mỏi như vậy, phần đa là mưu sự không thành. )

Khí như mãnh liệt, hại vật hại người, nếu tượng thuần hòa, không có thao túng.
(Thế khí nắm thiên thời, dũng mãnh cương cường. Nếu lại mang Kim thần Bạch Hổ, thần Nhận Sát hình hại. Bởi vì do cường đạo cướp bóc, thiện thì tàn sát công việc, cuối cùng cũng sát nhân hại vật. Cũng sợ bị người giết hại vậy. Lâm việc sẻ mất, tuỳ cơ ứng thông lợi, đều do thần hung sát, không bế không tắc, phụ tá dụng thần, như vậy có dùng để sai khiến vậy. Nếu trong trụ tượng số thuần hòa, khí thực nhu hoà, thì không có thể giữ đạo lý luân thường. Tuy có dụng thần, cũng khó khăn mà thôi. )

Hiên ngang hô ứng, vốn là dựa uy Nhận Sát. Tài phong xấu ác, hết tận mang khí khố mộ.
(Có quý khí, không có Nhận Sát phụ tá, không chỉ lâm sự không có uy dũng, hành vi hợp với khiếm khuyết vậy. Có chỗ này Nhận Sát phù quý, tất có thể làm việc lập nghiệp, có quả quyết việc làm. Có người danh mục thấp kém, lại phát tài lộc, chính là do Tạp khí Tài Quan, Ấn thụ thân dày trong khố mộ. Có ích cho nhật chủ, huống chi tuế vận lại phù hợp nhau vậy. )

Thân cường lộ Nhận, trở mình nên tụ liễm dư đầy. Can hợp thiên lệch nhiều, đảo loạn tinh thần mờ mịt.
(Thân cường lực kiện, ý là trong trụ có ám Tài nguyên. Nếu thấy Nhận lộ, vốn là Kiếp tài, nếu lực của ta đã chuyên, Tài thần có tình, trái lại cần lộ Nhận. Bởi do ta có thể nắm vật quy về vậy. Loại điều cách này, can là khiếm khuyết, giỏi thì có thể tụ tài. Nếu trong trụ tuế vận, có đất Nhận vượng, không dám luận đoán như vậy, cần phân biệt kỹ càng. Can hợp thiên lệch nhiều, như Ất thấy 3 Canh 2 Canh hợp, sao khí chỉ không được trung hoà, cũng tự thiên khô đảo loạn, dẫu có hóa được thành tượng, cũng không thành toàn đẹp đẽ. Chẳng qua là ba họ cùng sống, hai họ hợp lại mà sinh sống, là người lấy cây Lý đổi thành cây Đào vậy. )

Độc Sát là phân bố chúng thần, phô trương thanh thế. Một loại quý từ ba chỗ, phân tán anh linh.
(Sát vốn không tụ, nếu chỉ có một Sát, phân bố nhiều chỗ, lực tự khinh tán. Không đến nỗi mưu nhiều thành ít, có miệng không có tâm, quá sức tiết tháo, lực nhỏ mà nhận nhiều. Một vị quý khí, tinh chuyên là diệu, nếu 2,3 chỗ đều có, giống như mây dầy mà không mưa. Tú mà không thực, hoặc không quý không quan, học nhiều mà ít thành. )

Bình Đầu lại mang Châm Nhận, sao không thương tàn? Câu Giảo cùng đến Vong Kiếp, thà rằng chỉ xảo quyệt.
(Bình Đầu, chính là các chữ Giáp Bính Đinh, dẫn Huyền Châm Dương Nhận, hình hại nhật thần. Một nói: Trong ngày mang Sát mang Hoa Cái, chủ lấy người vợ trước, hoặc tàn tật, hoặc ngu độn. Một nói: Tỷ suất vì chuyện mà kết hôn, hoặc có diện mạo tất dâm, như người Kỷ ngày Mùi hoặc Kỷ Hợi Kỷ Mão. Một nói: Ngày giờ Tân Nhận, là kề thân Nhận, vợ có sinh ly tử biệt. Một nói: Hỗ hoán Huyền Châm, chủ mang tật, cùng quan hình, hợp Ác sát, lập tức thấy tự hình, nữ nhân cũng vậy. Hai thần Câu Giảo, chủ giảo hoạt phá bại, cát thì lập uy. Nếu lâm Vong Kiếp tất hung, huống chi bất hòa với nhật chủ. )

Tài cư khố địa, thân nhập đất suy, tính năng bỉ lận, khí cũng hèn nhác.
(Tài thần gặp khố bế tàng, đã thiếu khuyết hình xung khai kích, huống chi là thân nhược. Loại người này, rất ít khoan dung, phong độ ít rộng lượng vậy. )

Mộc gặp Học Đường, hỏa lâm sinh địa, văn vừa tinh hoa, chí càng kiêu ngạo.

(Mộc Hỏa, tượng văn minh. Cư vị trí sinh vượng, chủ văn học khai thông, tài năng hùng kiện. Nếu khí mộc hỏa viêm thượng, là người không quan tâm chi tiết, không thể chịu khuất phục, cao ngạo kiêu căng. )

Bá Đức chí vọng thanh danh, mẫn trí mưu mô tài lược.
(Quý khí có trợ, can có lực, Thiên Nguyệt Đức thần, cùng Thiên Ất, hỗ hoán qua lại. Chủ thông minh nho nhã, kiêm nhờ Không vong Hình xung đắc dụng. Sát Nhận phù Quý tượng, có chế phục, đắc trung, nhật can có thể ngự phục, duy chỉ có câu trên. Lại nói: Thủy mang quý khí có phù trợ có đê phòng, không chỉ có tài thao lược quyền biến, mà mưu trí cũng hơn người. )

Tài nguyên trói cục, kinh doanh cửa hàng trên phố. Cướp khí không có chỗ dựa, ra ngoài bôn tẩu giang hồ.

(Cách cục không rộng, thì không đủ phong độ, nếu có Tài nguyên trợ thân, một hai lanh lợi sinh phù. Mà khí cục ở thuần túy, kiêm khố thần đắc dụng, trạch thần có tình, đoạn văn trên là chuẩn. Lại nói: Thực thần hoặc Ấn, đoạn ví dụ này giống vậy, phàm thần tiết khí, thế khí cuồn cuộn mênh mông. Xa mà có lực, tụ mà không có chỗ dựa, đoạn văn trên là chuẩn. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Giang hồ phù phiếm, phong xan vũ túc. La Võng mưa phùn, lợi tỏa danh cương.
(Hợi Tý là Giang hồ, nếu buộc Tài Quan Lộc Mã dụng thần, khí đầy trôi nổi. Đa số dẫn đến con đường sinh kế, một nắng hai sương, thế thủy phù phiếm, kỳ mã hình xung, phương là đoạn tuyệt. Thìn Tị là Địa Võng, Tuất Hợi là Thiên La. Toàn là đất dụng thần đến thất địa, ngũ khí không thể thành tượng, thì lợi danh lục đục không thành. Như bụi bặm che đầy, đều là chỗ mê muội, tuế vận cùng đến, vẫn cùng khắc hại nhật can, là yểu vong. )

Thủy hỏa động diêu, thị phi lâm lý lập thân. Mộc kim hòa hợo, nghĩa lễ môn đình phát tài.
(Thủy Hỏa, là vật động nhân gian, phạm cách này, đa số là miệng lưỡi gây nên chuyện thị phi. Phàm lập thân lâm sự, đoản ở xuất đầu gây chuyện, có đầu không đuôi. Nếu cát thì có cơ quyết sách, hung thì có chuyện bất nhã. Kim mộc không có thiên lệch, khí được trung hoà, âm dương phối nhau cứu nhau, tất việc đầy đủ. Ta nếu khắc còn nó chuyên, lúc đạo nghĩa nhận tài. Nếu giao thác vô tình, Chủ bị Khách lăng nhục; chủ người bất nghĩa, tổn Tài của ta vô tình, hoặc gặp chuyện bất nghĩa, chịu oan làm nhục.)

Dịch Mã được ta khắc nó sinh, lộc phát tận bên ngoài. Không Vong hữu vật minh khí kiến, thường ưng ý vô danh.
(Can gặp trên Mã có thể khắc nhật chủ, hoặc vị trí Mã có vật sinh ta, đa số là phát tài bên ngoài phương xa, hoặc xuất ngoại ở vùng biên giới được tài lộc. Không Vong là chỗ hung bại, nếu có hỉ tượng đến tụ tập. Như kim hỏa hỉ Không thừa vượng, là loại thần quan quý có tình, hợp cách cục này. )

Thân tuy thực lộc, gia kế bần hàn. Khố có dư tài, danh mục ti tiện.

(Bát tự thể đoạn khinh thanh, quan thần thừa quý, địa chi hoặc có phá tượng, Tài tinh hưu phế. Lại nhập các nơi tử tuyệt, không mang quý thần trạch thần mộ khố, trạch thần vẫn bị xung phá, đoạn văn trên nói chuẩn. Quý khí lạc Không Vong, dụng thần nhập xứ tử bại, là không có sức sống. Có Hàm trì, Mộc dục, Bạch Hổ, Không Vong, lại có củng hộ. Trong trụ chỉ có Tài khố, hoặc Tài thần chuyên vượng, phụ trợ nhật chủ có tình khắc trợ, đoạn văn trên là chuẩn. )

Tuế vọng khuyết môn, cận lúc chức vụ triều đường. Khí xung đệ trạch, khó có cơ dựa vào tổ nghiệp.
(Đối diện Thái tuế là Khuyết môn, có củng nhập cách quyết chủ Thực lộc, phải lộ xứ nhậm chức đều gần với triều đường. Vị trí thứ 5 trước Tuế, nếu là bị xung, lại cùng nhật chủ không phải quản lý sinh phù quý khí, quyết chủ phá vỡ cơ nghiệp tổ thượng, không thể ở lại sống. Nếu cưỡi Quan phù, cùng Vong thần, chủ làm quan bị cắt không có phong tước, phạm Phá Toái Kiếp Nhận, tất hủy hoại vậy.)

Không hợp hai vị Vong Kiếp, bỏ nhà bán ruộng. Nếu phạm Tứ trọng Hàm Trì, tham tài mỹ mạo.
(Trước Tuế 5 vị gọi là Mệnh Trạch, sau Tuế 5 vị gọi là Lộc Trạch. Mệnh Trạch là nhà cửa chỗ ở, Lộc Trạch là đất đai mộ phần. Nếu mang Vong Kiếp, chủ cả đời tổn phí nhiều tài, tạo nhà lập điền lại chủ phá hư, huống chi cùng nhật gia hình xung hại kiếp phá khắc. Đủ Tý Ngọ Mão Dậu, xưa gọi là Biến dã Đào Hoa, lại còn có tên gọi là Liêm Trinh Mộc dục, lại là Bạo bại Đào Hoa. Chủ thích phong lưu nghệ thuật, tính xảo tình cấp, lập thân gặp thị phi, cùng ngày hình xung cướp khắc, mới chuẩn. Kỵ thủy, chủ dâm, kiêm nói quý sát khinh trọng, Hàm Trì là khẩn, Mộc dục thì chậm. )

Mã thượng Không Vong, thường gặp tài bạch dị lộ. Thiên trung Lộc vị, thường gây thanh danh căm ghét.
( Mã thượng, độn can đắc dụng, gặp trên Mã can lộ trợ ta, hoặc lấy tài nguyên hoặc Mã tọa Tài đất sinh vượng. Lại có ý tọa Không Vong, đa số lấy được tài lộc từ bên ngoài, hoặc thường gây ra cửa khác không có quan tâm lợi lộc. Dị lộ, là nói không phải loại gốc Tài vậy. Thiên Trung, tức là Không Vong, mang Lộc, nếu suy bại, thì đoạn văn trên là chuẩn. Thêm Bạch Hổ ở ngày lại càng khẩn thiết, hoặc nhận người truyền tiếng xấu, huống chi tượng thủy hỏa, có cùng Hàm Trì Đào Hoa. )

Mão Dậu được thiên di môn hộ, Tị Ngọ lúc cảm mộng sinh thai.
(Phạm chữ Mão Dậu, ở ngày giờ, hay trang sức nhà cửa, sửa chữa di dời nhà cửa, mang Mã thì thường ngừng di dời chỗ ở. Thai lúc lâm thêm Tị Ngọ, năm mang Lộc hài hòa cùng Nhật chủ, chủ ứng cha mẹ được nằm mộng sinh sản. )

Vượng Nhận không kiêm dư Sát, thiên hảo dị đoan. Vong Kiếp lại dẫn thần khác, là chủi bức tranh ăn uống hả hê.
(Vượng khí Dương Nhận, là không còn dư Sát, vũ dũng cương liêm chính trực. Chịu đánh bắt nuôi trong lồng, loại đóng vai làm trò chơi dân gian, mang Học Đường Quan quý chớ nói. Tụ nhiều Vong Thần Kiếp Sát Dương Nhận, lại cùng với ngày không hòa hợp, là loài lang sói ăn uống cá voi, no say hàng ngày. Mặc cho phong ba, nghèo túng không thành vậy. )

Đào Hoa trâm chủ tứ phong tình, Phá Toái triều nguyên nên lạc phách.
(Như người Mão thấy loại Dần Ngọ Tuất, người Dậu thấy Thân Tý Thìn, còn gọi là Đảo Sáp Đào Hoa. Là người hào phóng phong lưu, lại có hiền mà có không hiền vậy, cùng ngày khắc cướp mới chuẩn. Như người Dậu thấy loại Dần Thân Tị Hợi, người Sửu thấy Thìn Tuất Sửu Mùi, cũng gọi là Hồi đầu Phá Toái. Khắc cướp hình hại Nhật thần, chủ giảo hoạt yểu mệnh, nhẹ thì không thể khởi phát mà bần. )

Quan Phù lạc ở Thiên Trung, lời nói nhiều hoang đường. Không Vong lại lâm Thiên Ất, tính thích hát ca.
(Quan Phù, tức là Vong Thần vậy. Ở trong Không Vong, cùng ngày cướp khắc. Thiên Ất Quý nhân ở trong Không Vong, cùng ngày cướp khắc, câu nói trên đều chuẩn. )

Tài Thương dụng khí, oán hận thở than. Trọng giá thân cường, làm bậy oan uổng.
(Dụng thần khi sinh, dẫu không có thương động, nhưng nếu tuế vận đến khắc, tất phải trung ý, lại thành thất ý, cho nên than thở oán hận vậy. Phàm người thân vượng, giống như say mê uống rượu, muốn không điên cuồng, cũng không thể được vậy. Hoặc lại gặp tuế vận kéo nặng khí cường, tự nhiên là chỗ dâm đãng cuồng vọng, kiêm phá tài sản gia nghiệp. Làm sao mà thành, trụ có chế ngự, có chỗ dựa, thì không nói. )

Bạch Hổ kiêm Nhận, mạ sát người đương thời. Hoa Cái tự mộ, hưởng ở thanh phúc.
(Bạch Hổ cùng Nhận, chính là Bạch Hổ cùng Phi Nhận Dương Nhận đồng cung, cùng ngày hình xung cướp khắc, như vậy. Một là nói: Nếu ở trên ngày giờ khắc năm, đột nhiên cưới vợ chim khách, nếu không vợ có chứng khác thường. Vì phục vụ kiện tụng bức xúc kết thân thì được, vợ cũng được chửi người vậy. Hoa Cái tự mộ, nếu tự sinh vượng, lại gặp tuế vận cùng ngày hòa hợp thành cục, phúc cực kỳ thanh cao. Nếu không sẽ làm cửu lưu tăng đạo, như Canh Thìn không thể tự mộ chỉ là thầy mo thô tục, hoặc là làm người thô lỗ. Một là nói: Hoa Cái mang mộ có khí, chủ phúc thọ. Nhưng không tới phong tước quan quý, hoặc là người làm tăng đạo danh vọng. Nếu mang quỷ Hàm Trì, không là nghệ nhân cũng là người thô tục vậy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Hai thần Lộc Mệnh tương kích, cổ vũ hành vi. Quý Sát 4 vị cưỡi nhau, tụ quy thủ dụng.
(Phép trước hai trạch Lộc Mệnh, nếu phạm lấy kích hình xung khắc hại, ý là xem cát hung như thế nào, cùng ngày bất hòa như vậy là ứng nghiệm. Bởi vì hai thần Lộc Mệnh, buộc đầy xung lệnh, khiến cho khí tả cổ hữu vũ vậy. Hoặc Quý hoặc Sát, có 2 đến 3 vị, kiêm cùng trên một thần. Huống chi trong trụ có 4 vị, đều có cát hung thần, phải phân tụ ở vị trí nào nhiều nhất, để tính toán dài ngắn. Dần Thân Tị Hợi không có trường sinh, thì hung. )

Tượng thủy hỏa, nhẹ thanh thì văn chương dị thuật. Hình xung thì đạo đức thiện môn.
(Thủy Hỏa chính là thần Khảm Ly, tạo hóa có ký tế, trong đó khí thanh, thì văn chương xuất chúng. Nhẹ thì thuật nghiệp dị thường, Không thì tiên phong dị chất, Hình thì đạo pháp quỷ phù, Khắc thì thiền tông không tịch, cũng nạp đủ duyên, giác ngộ nghiên cứu. Chuyên luận cách tượng nhật thần, mà nói khinh trọng. )

Nguồn gốc kim thổ, khí lão thì lâu đài tài khố, non cạn thì thủ nghệ kinh thương.
(Nghĩa kim thổ, có công lấy tiện sinh quý, khí lão thì vật thành tựu. Bởi vì cần ở phú tàng, tường thành lâu đài nguy nga đẹp đẽ, vì thế mà đạt được vậy. Hoặc khí suy tàn tuyệt, hoặc mới đầu khí non mềm, nếu không kinh thương mua bán, thì là người thủ công việc kỹ nghệ. )

Hoa Cái mộ thần, Thiên Nguyệt Đức hợp, tuyền thạch gia phong. Nhật Đức hưu tù, tử tuyệt bại sinh, trần ai thứ sĩ.
(Hoa Cái mộ thần, Thiên nguyệt Đức hợp, ba vị này ở trong trụ tuần hoàn, tất có duyên ở bên bờ đá suối, ý là phóng đạo cầu tiên. Nhật Đức nếu hưu phế, có hư đức danh vậy. Can âm lại có vị trí tử bại, ác khí Không Vong đến sinh trợ, chẳng qua chỉ là một kẻ hàn sĩ mà thôi. )

Thập Ác Đại Bại nếu chân, quý là tướng, tiện là thảo khấu. Tù tử Không vong nếu tụ, sinh là đạo, suy là tăng.
(Thập Ác, lấy chỗ đạo tàng kinh ghi lại làm chuẩn, quý khí tương phù, nhập cách thanh dầy, tất nắm binh quyền. Nếu hung sát thấu tập, cùng giao trong trụ, chiến hại dụng thần, thì thân chủ hung. Dụng thần nhật chủ, lúc nắm hưu phế, lạc Không Vong kiêm là Cô Quả Lục Hại. Nếu lâm trường sinh, lâm quan, vượng địa, thì là đạo sĩ. Nếu xứ phương bại tuyệt mộ tử, là đi tu. )

Khôi Cương quyền trọng, lại hại lục thân. Kiếp Quả tuy Cô, hỉ toàn tam quý.
(Thìn là Thiên Cương, Tuất là Thiên Khôi, là lực lượng rất có quyền uy. Nếu khí cô khắc quá nặng, khó tránh làm hại lục thân. Kiếp Sát Quả Tú, nếu mang trường sinh quý nhân có lộc, là ba mấu chốt phúc khí vậy. Cùng với ngày hòa hợp, tất chủ phú quý, không có ba quan kiện này, dẫu có phát không lâu cũng bần. )

Thôn Đạm thế nhiều, không làm vợ lẽ cũng định thiếu sữa bú. Cô Quả cùng đến, do giả khác họ mà cùng sống chung.
(Thôn Đạm, chính là thần Đảo Thực, nếu như nhiều có lực có thế có quyền, hoặc lâm đất sinh vượng rất phù hợp. Cô Quả cùng đồng Lục Hại, lại có Ấn thụ Thực thần hữu dụng một lúc, vẫn thấy Trạch thần xung phá. Đoạn văn trên chuẩn.)

Trọng bái song sinh, Tị Hợi mang can chi đồng loại. Thầy mo y dược tửu sắc, Vong Kiếp phạm Hàm Trì Quý nhân.
(Mệnh mang hai vị Tị Hợi, lại có chi khác can khác đồng một loại, có 2, 3 vị. Như Giáp kiến Giáp, Tý kiến Tý, tất là song sinh, hoặc sùng bái cha mẹ. Can chi cần phải đều có lực tương đồng, lại thêm Kiếp Cô cũng thế. Các thế hệ thầy mo y dược bà mối, vẫn phân ra nặng nhẹ cao thấp, đều do hai vị Vong Thần Hàm Trì chủ lĩnh. Kiêm loại Dương Nhận Phá Toái, Mộ quỷ Bạch Hổ, là người quỷ trá cuồng vọng, mê hoa luyến tửu, kẻ cửu lưu bất tài. Nếu gặp Quý nhân Đức thần Tài Quan sinh vượng là thứ yếu. )

Khảm Ly giao hội, lão túy Tần lâu. Tượng loại thanh u, trẻ đăng phủ thần tiên.
(Trên Tý Ngọ có can thần câu hợp, như Nhâm Ngọ Mậu Tý, Mậu hợp Tý Quý, Nhâm hợp Ngọ Đinh, hoặc Đinh hợp Nhâm, Quý hợp Mậu, thủy hỏa có tình, đến già vẫn mê hoa luyến tửu. Thanh thì phong lưu, trọc thì ti tiện. Ngũ hành hợp thành tượng rất thanh, huống chi dẫn tới đất âm u thanh khiết. Quý thần quy về một mà ở xa không có tạp khí thuần thanh, không còn tương phạm các vật ác thần tử tuyệt. Đoạn văn trên là chuẩn.)

Luận văn học nghiệp đặc tinh anh, trường sinh Đức Tú. Tham tửu tích hoa thiên lạc phách, thân vượng Hàm Trì.
(Các xứ trường sinh đế vượng tứ quý, hai thần Đức Tú. Văn học tài năng nghệ thuật, đặc đạt tinh chuyên, là người nỗi tiếng hơn người vậy. Tham tửu tích hoa, nhật can vượng ở trên Hàm Trì, là một vậy. Bản thân tự vượng, thụ thần Mộc dục khắc, là hai vậy. Bản thân thái vượng, mộc dục lại nhiều, phúc khí tán mạn không tụ, là ba vậy. )

Thê (Vợ) gặp Tỉ kiên vượng đoạt, không phải là người tốt. Tài vì Mộc dục cường tranh, khó chối dâm trọc.
(Can Tài hoặc ẩn hoặc lộ, mà khẩn thiết gặp Tỉ kiên, gần nhau thân nhau, gọi là bị chiếm đoạt. Hoặc Tỉ kiên thừa vượng, thê tất cùng người ngoài tư thông, không bằng, kết hôn cưới tỳ thiếp xinh đẹp. Phương miễn chỗ này xấu xí. Ngũ hành ở xứ bại gọi là Mộc dục, còn có danh là Đào Hoa Hàm trì Sát, cùng một ví dụ mà đoán. Nếu thần đến thừa thế tranh Tài, hoặc Tài lập ở trên, bị chỗ thần khác cướp chiến. Thân ta cùng kiêm khí dụng thần, không tụ không liễm, tinh thần tán mạn, đoạn văn trên là chuẩn. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Cưới vợ lại vì phục kiện tụng, loại minh lục can. Sinh con muốn chuyển hiền ngu, thể ché có ngũ pháp.
(Nhật thần: Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Phạm các ngày này, đa số là vì hai chuyện hiếu phục và quan tụng, lâm áp bức kết hôn, hoặc trong 100 ngày thành thân, quyết chủ hai nơi thông gia, chợt gây ra tranh cải kiện tụng. Hoặc chủ lực nhà bên ngoại, cậu là không có hài hoà, hoặc không có nhà họ ngoại. Hoặc có hai cha mẹ, hoặc không có thê tài. Hoặc nữ mệnh có hai bố mẹ chồng, nửa thật nửa giả. Mang hợp thần Đào Hoa, hoa chúc không rõ, hoặc không có phụ nữ tốt, hoặc vào nhà không có phòng. Chỗ này trong trụ lục can nhiều, càng gần càng tràn, tức là ngày Âm thác Dương sai vậy. Mang Đào Hoa ở đế vượng, đa số gây ra phụ nữ kiện tụng, hoặc là nhà giàu có có nhiều vợ tỳ thiếp dẫn đến tranh giành. Nếu không thì vì con gái mà kiện tụng vậy.

Ngũ pháp phân biệt hiền ngu:

+ Một, là lấy vợ sinh mà khắc ta làm con, nam lấy Thiên Quan làm con trai, nữ lấy Chính Quan làm con trai.
+ Hai, là nữ lấy ta sinh làm con, dẫn đến thời thượng, phùng sinh vượng thì tốt. Vẫn lấy dư thần hội hợp có tình mới quý.
+ Ba, là nói Ta cùng vợ cùng hóa, như người Giáp lấy Kỷ thổ làm con, dẫn đến thời thượng ( trụ giờ) mà khảo cứu.
+ Bốn, là nói chỗ hóa khí sinh ra làm con, như người Giáp lấy kim làm con, dẫn đến thời thượng thủ dụng.
+ Năm, là nói chỗ bản khí của ta sinh làm con, như người Giáp lấy hỏa là con, dẫn đến thời thượng nghiên cứu.
Trong trường hợp có một Thiên Quan Chính Quan có tình, dẫn đến thời thượng hóa được thành tượng, tức là con tốt. Khí nạp âm trường sinh, trợ giúp là rất tốt. Một là nói: Như lấy ta sinh là con. Lấy loại Thủy 1, Hỏa 2, Mộc 3, Kim 4, Thổ 5. )

Ác tụ ở ngày giờ, nhẹ thì con bướng vợ ngu, nặng thì không phòng cô quạnh.
(Vong Kiếp Cô Quả tam hình, nếu cùng tam sát mà có cứu, ở thời thượng thì con phần đa là bất hiếu. Ở trên ngày thì vợ ngu muội hoặc là bất hòa, phạm nặng lực mạnh không có cứu, thì cô độc bần hàn, cả đời tự thủ không phòng. )

Nhận mang mộ hình, cát thì thọ di phúc hậu, hung thì phá mạo đơn y.
(Dương Nhận Phi Nhận, phạm hai vị trí mộ hình, phải có Hoa Cái mới cát. Cùng Sửu Mùi can đầu có Quý, là không có không hưởng phúc vậy, cùng ngày nên hòa. Nếu không có Hoa Cái, mang Không Vong Tử Tuyệt, là người cô hàn phá bại vậy, cùng ngày bất hòa cũng như vậy. )

Ngày phạm ác thần có trợ, tái hôn nữ thê. Thời lâm hung sát theo Không, phải gọi nghĩa tử.
(Ngày phạm Niên gia, Vong Kiếp, Đại Bại Phá Toái, lâm quan đế vượng là khắc thê. Lại có can âm sinh trợ nhật chủ, tất là thiếu niên tái thú gái chưa chồng, hoặc tuổi trẻ cưới thiếp làm vợ. Nếu mang Lộc Quý củng trợ, mỹ mạo hiền năng. Một là nói: Nếu năm có Lộc Mã Quý Thực, lục hợp ở ngày, không chỉ có vợ đẹp, lại chủ được vợ tài năng. Thời thượng mang hung sát, lạc Không Vong, tất chủ không có con. Nếu sinh trợ Thực thần, hoặc ngày đi xung khắc, tất là làm con nuôi.)

Ngày giờ mang Hàm Trì Sát, phụ mệnh ác vong. Hưu tù Đại Bại lâm Không, nhà vợ không có chỗ ở.
(Hàm Trì ở ngày giờ gọi là Tuế Sát, chủ cha ác tử, lại thêm ác sát là không nghi ngờ. Như kim chủ đao binh, hỏa chủ hỏa ách, thủy chủ thủy ách, thổ chủ ôn dịch, mộc chủ gậy bổng, lấy ngũ tượng mà suy. Một là nói: Hàm Trì nếu vượng, phạm Hoa Cái Phá Toái, Âm thác Dương sai, vì vợ xấu mà nhục, hoặc là ly dị.
Nếu nhà giàu có, vợ cùng cha mẹ anh em trong nhà nội loạn. Một là nói: Hàm Trì Dương Nhận, là đa toán đa năng, cũng có đủ tật. Hỗ hoán ở ngày giờ thì rất khẩn thiết, thần nhật trạch, khí hãm vợ, kiêm ngày Thập ác Đại Bại, hưu phế lại lạc Không Vong, như tuần Giáp Dần quý lộc cư ở Tý là Không thần, chủ nhà vợ không có nền mống mái ngói.)

Thai thần khắc cướp hoành vong, kỵ chữ xung trong cục. Phá Toái Không Cô là ly tổ, vì phạm thần Lộc hậu.
(Thai thần, là Bạch Hổ sát vậy. Như thủy Ngọ kim Mão. Chữ xung trong cục, như Thân Tý Thìn, chi thuộc mệnh thủy. Sợ chữ Ngọ là Thai thần, Bạch Hổ đến cướp khắc nhật chủ cùng dụng thần, chủ chết thảm máu đổ. Lấy ngũ tượng mà suy. Sau Lộc một thần, nếu thuộc các sát Không Vong Cô Quả Phá Toái, định chủ xuất tổ mà biệt lập. )

Chi ngăn cách hai phương xung hợp, cách này phần đa ứng thắt cổ tự vận. Hợp kiêm hai vị sông giếng, phạm đều bị chết chìm.

(Tự Ải sát, ví dụ như người Tuất thấy Tị, người Tị thấy Tuất. Nếu mang Kim thần Bạch Hổ Vong Kiếp Quỷ mộ Không Vong, Quan Phù Đại Hao Nhận Sát. Lĩnh đất tử tuyệt, lến khắc thân phế dụng thần, phạm kỳ thái tuế, hình kỳ đại vận, thì đoạn văn trên là chuẩn. Bính Tý vượng thủy, Quý Mùi đông tỉnh, Quý Sửu tam hà. Mang Hàm Trì Kim thần Tân Nhận Vong Thần, đa số là chết chìm trong nước. Một là nói, khởi đầu mang Vong Thần, vì tửu sắc mà gây chuyện. )

Tai điếc mắt mù, cướp hãm dụng thần, mà tử bại khắc thân. Chân thọt lưng gù, phúc khí suy đồi, mà Nhận Sát hình chủ.
(Dụng thần bị loại vật tử bại cướp khắc, lại lâm hưu phế, thời lệnh lại bị ác thần khắc cướp thân. Đoạn văn trên là chuẩn. Quý khí hưu tù, lại bị ác thần khắc chế bản thể, lại kiêm dựa cầm tử tuyệt. Ác khí xuất hiện, dụng thần cát trầm luân, Nhận Sát theo hình nhật chủ của ta, đoạn văn trên là chuẩn. )

Quỷ gọi ứng biết ác yểu, bản suy không chỉ bần hàn.
(Quỷ gọi, như người Giáp gặp Canh, Canh gặp Bính, loại xoay chuyển tương khắc. Có Tân hợp Bính, mới có thể Tham hợp vong Khắc. Một là nói: Trước hỏi ngày, sau hỏi năm, cách này là tối khẩn. Bản suy, là hung thần làm bè đảng.
Khí khắc nhật gia, hại can năm, cho nên khó tránh bần khó thiểu vong. )

Thiên địa bao tàng đủ đức, âm thanh phong lôi vang dội ở xa.

(Hai chữ Thân Hợi, minh có lực lượng, Dậu Tuất được chỗ dụng thần, chính là hợp cách này. Một là nói: Thần Thân Hợi không lộ, hai vị Hư Giáp, có quý khí, thể cục bất phàm. Hai vị Mão Tị, bên trong có quý khí. Trong trụ có Hư Củng, tuế vận đối xung, xứ Không tất có thể biến hóa phát việt. Một là nói: Xứ ẩn Củng Giáp, lại sợ hình xung quá nhanh, tẩu mất quý khí. )

Củng tướng Củng tọa cùng Củng Ấn, tất là quý nhân. Nhìn Tử nhìn Mẫu nhất là nhìn Thân, tự không phải là tục khách.
(Củng tướng, là nói bản Chi tam hợp, như người Tý thấy Thân Thìn. Củng tọa, là nói Đối cung, như ví dụ người Tý là cung Ngọ. Củng Ấn, là nói Ấn thụ chính vị, như ví dụ người Giáp thấy Tý Sửu. Một là nói: Ấn chính là Khố vậy. Lại nói: Ấn tức là can Khố, kiêm nếu có Tài Quan Quý khí hữu dụng, hoặc đất Tài Quan sinh vượng, đều là tạo hóa phú quý. Sinh ta là Mẫu, Ta sinh là Tử, kiêm bản thân là 3 vị, đều không có phá tổn, qua lại cho nên nói là có phúc ích, là người có phúc vậy. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Ba vị kỳ bảo dụng Quan thần, lưu phương anh liệt. Bốn can Thiên Ất lâm Hoa Cái, khoáng thế thanh cao.
(Giờ tọa tam hợp, gọi là Kỳ Bảo. Nếu Quan tinh cư ở trên, không phá không kỵ, thế đại bất tuyệt, là người có tiếng thơm trong sự nghiệp vậy. Cổ pháp nói không chỉ luận can năm và ngày, cưỡi Thiên Ất quý là cát, can tháng giờ có cưỡi Quý nhân, càng tốt. Huống chi bản mệnh lâm Hoa Cái, cả đời không chỉ không có hung, cũng là quý nhân thanh cao vậy. )

Bốn mắt tuyên minh vượng tướng, nội đình thực lộc. Nhị Sát nếu lâm Giáp Củng, sa thì dương uy.
(Thanh Long, Nguyên vũ; Chu Tước, Câu Trần gọi là bốn mặt, can lộc quy nguyên, đều có chiếm từng phương vị, vượng tướng. Như Giáp Ất lâm Dần Mão là Thanh Long, Bính Đinh lâm Tị Ngọ là Chu Tước, đoạn văn trên là chuẩn. Vong Thần Kiếp Sát, hai vị đều Không Nhàn, mà lại đều có Củng Giáp. Thì đoạn văn trên là chuẩn. )

Kim thủy văn hoa mà xuất chúng, thổ kim giàu có lấy thành cao.
(Hai tượng kim thủy, nếu khí thanh mà không có dư khí, gốc không hỗn trọc, văn chương anh hoa xuất chúng. Kim thổ tương sinh, nếu không có thiên lệch, khí được trung hòa, tự vật dần dần sinh trưởng, sức sống ích cao. Tượng như vậy, lấy cách làm phú quý, hoặc quý khí hòa hợp, cũng chủ công danh thực lộc. )

Vinh diệu là mộc hỏa có phát nguyên, thanh quý là thủy mộc nhiều thuận theo thứ tự.
(Mộc hỏa dễ dàng toả sáng, xứ dẫn đến có căn nguyên, trong trụ có sức sống, hoặc dẫn tới tuế vận. Cho nên có thể dẫn phù mà vinh diệu, cho nên người vốn không có biết căn khí, chỉ biết trên vận mộc hỏa thấu phát mà thôi. Thủy mộc thanh kỳ, nếu khí không thiên lệch, thuận phù sinh vượng mang quý, tất là xoay vườn Thanh uyển, hoặc là Đài các. )

Đăng kim bước ngọc, Quý nhân trên đầu mang Quan tinh. Dựa sách đội nón, Học Đường Quán trung phùng Dịch Mã.
(Thiên Ất trên đầu có Quan tinh hiển lộ, gọi là Quan tinh tọa quý, chủ quý. Học Đường chính là vị trí nhật chủ toạ vượng, là phương Quan tinh sinh vượng, vị trí lâm quan cũng đồng thủ dụng. Ở trong gặp Dịch Mã, quý khí không quá mức, có Không tài học không thành. Tức nhập đường làm quan, cũng nhiều bôn tẩu trên đường, lạc Không Vong càng nặng. )

Ghi danh Hàn Uyển, định bẩm Càn Khôn thuận lợi, là tượng cầm quyền, ứng củng Tý Ngọ Đoan Môn.
(Hai vị trí Dần Tị có lực, có thể hợp Hợi Thân Càn Khôn, lại có củng tam hợp, Tý Thìn có thể củng Thân, Mão Mùi có thể củng Hợi, nếu không có hỗn tạp, Thân Hợi cưỡi trên quý khí, tất là tạo xuất quan vậy. Hai vị trí Tý Ngọ hoặc có chính củng, hoặc ngoài có củng tam hợp. Như có quý khí tụ tập ở trên, sự nghiệp danh gia. Sửu Hợi củng Tý, Mùi Tị củng Ngọ, là chân chính. Thân Thìn củng Tý, Dần Tuất củng Ngọ là bên ngoài. )

Khôi Cương Tài phùng Giáp Quý, phong hiến đề hình. Long Hổ đắc dĩ chuyên chức, bái tướng Ngọc Đường.
(Hai vị Thìn Tuất, phùng Giáp Quý gọi là Phong hiến đề hình, là nói có uy quyền chấn động vậy. Như Nhâm Quý phùng Tị Mão củng Thìn, Bính Đinh phùng Dậu Hợi củng Tuất vậy. Lại thấy rõ Khôi cương, tụ tập nhiều quý khí, đoán giống như trước. Hai vị Thìn Dần, nếu gặp đúng củng ngoại củng, có quý khí cát thần tụ ở trên càng tốt. Hợp với cách này. Hoặc thấy Dần Thìn đắc khí tụ tập quý, vượng tướng phù trì, không có hình xung khắc hại, vẫn được ở Mão cũng cát. Đoán giống như trước. )

Âm Dương thiên dụng, quý tôn sùng hàng cực phẩm. Mão Dậu chính môn, quyền phụ lĩnh ngoại biên cương.
(Thiên Âm thiên Dương, khí nhiều là phấn phát, gió bay sấm giật. Quý khí nếu chuyên, lực lượng vượng tướng phần đa tiến hàng cực phẩm. Bởi vì thiên khí háo tranh, rất là bất khuất, lực lớn hào hùng. Thiên Quan dễ dàng khởi phát, nhưng thoái cũng rất nhanh, hoặc là mệnh chết bất đắc kỳ tử mà thôi. Nếu Chính Quan thì ổn, thuận chia chuyển dời, không có quyền sinh sát. Mão Dậu chính là nơi cánh cửa Nhật Nguyệt xuất nhập, có Quý khí Củng Giáp đắc dụng, là hợp cách này. Hoặc thấy rõ hai vị trí này, dụng thần có lực tụ phúc, không có phá, đoạn văn trên là chuẩn. )

Tuế giá Lộc Mã mang Tài Quan, anh hùng siêu việt. Quý cục ngày giờ cưỡi Đức Tú, tài nghiệp tranh vanh.

(Phàm hai vị Thái tuế Lộc Mã, nên gắn bó với nhật chủ ở trên Tài Quan, hẳn là anh hùng siêu việt. Phàm cục quý nhân, ở ngày giờ thấy hai khí Đức Tú, hợp thì tài hoa văn chương, là người có tài anh kiệt xuất sắc. )

Dụng kém mà vận phù, khô miêu tế thủy. Dụng cường mà vận kém, đi thuyền qua khúc cong.
(Dụng thần lực kém, hoặc có khí mà bị khắc cướp, hoặc ẩn tàng mà không có xung hợp, thuần mà bất lợi. Kết nối với vận lại được dẫn khí sinh phù, u du thông suốt vậy. Dụng thần hoặc có lực, hoặc đắc thời, hoặc hợp tình, nếu gặp vận cản trở phá hư khí. Thì đông vướng tây cản, không thể thuận, dẫu có nhất thời thuận gió, cũng không ra gì vậy. )

Vận lấy Chi làm cơ trọng, Tuế lấy can trọng nhận khí.
(Thần chi vận, vật thái quá, thì nên ức, vật bất cập, thì nên phù. Cần phải đem lấy thần sinh chi nối liền, xem kỳ bản vị trái thuận như thế nào. Nếu chỉ hiểu dụng thần khinh trọng phù ức, cũng không giỏi. Lại luận sinh khí khắc khí, rất trọng chi nối liền, thứ xem can vận hài hoà chiến đấu ở đâu. Tổng hợp vật trong trụ có tình mà nói mới cát. Can thần lưu niên cùng Thái tuế, quan hệ rất là khẩn thiết, chủ một năm vạn thần cát hung. Nhật khắc Tuế thì tai, hợp thì mờ. Nếu có hóa có tình, thì có việc tốt, là chỗ ứng nghiệm hoạ phúc nhanh chậm, vẫn khảo sát ở trong vận hút nhau như thế nào. Phải kiêm dụng chi Tuế hình xung phá hại mà nói, không có thiên lệch là được. )

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
Vận trì hành sắc, dụng phân chỗ nào nhược cùng chỗ nào cường. Tuế nhiếp binh quyền, thế trì tình cấp mà tình trọng.
(Ngày là bản thân Quý là dụng, cả hai khó mà thiên phát. Nhật chủ là Thể Quý khí là Dụng, đều phải trung hòa. Vừa nói Dụng thần quý khí, giống như hành lý lên đường chuyên chở các vật dụng cụ lương thảo, Vận tức là chỗ dừng chân cập bến chỗ nhà khách công đường. Ngũ khí Quý sát, chỗ nào nơi chốn thích hợp cần đến đó, hoặc thuận theo tham khảo tin tức cát hung. Hai tượng cát hung, vận nguyên chưa nảy sinh, không phải Tuế thì không thể kích dương. Duy chỉ có Tuế Quân là nghiêm ngặt nhất tối thiết nhất, rất uy rất trọng, cầm giữ đặc cấp, thế đến thì giống như chiến trận đấu địch, nhanh chóng hiểm nguy nhiều. Khó mà vội vàng cứu ứng đúng thiết quan kim tỏa, sao có thể sai khiến chăng. Cũng có quý khí là hung, ức ác dương thiện, thừa cơ tiếp tế khó lường. )

Lộc quý vận muốn hiển dương, trai tráng nên kiêm vượng địa, hung sát phải theo chìm mê, người già lại hỉ đất suy.
(Bào Thai đất Dưỡng Mộc Trường sinh Quan đái, 20 tuổi cần được. Vận lâm quan Đế vượng, dương khí cường thịnh, 30-40 tuổi nên đi. Vận suy bệnh mộ tuyệt, thời tiết khô kiệt, 50-60 tuổi nên hành. Trong đó có hợp nghĩa, thì đạo tạo hóa lấy hay bỏ, thông biến mà nói vậy. Trong vận trai tráng hợp thể, cùng nên phất lên quý lộc. Vận hung thần muốn chìm ngập, về già nên hành vận tử tuyệt. Vẫn không cần cùng dụng thần nhật chủ, sức sống trong ngoài, trở thành phúc vận. )

Vận khí phát nguyên lực ổn, mới dễ thành công. Can giờ hóa tượng cầu tình, phân vai dẫn dụng.
(Khảo cứu hành vận, yêu cầu tra xét phúc họa, cũng là chuyện dễ. Lúc tin tức từng cung, xét lúc nào tới. Như khởi nguyên vận, ở trên năm tháng ngày giờ, đất Không xung tử bại, dù có phát cũng không lâu. Phát nguyên ở chỗ ổn định, có chịu hoạn nạn, có hưởng phú quý, ân phúc lâu đời vậy. Phép hành vận, thủ can giờ hóa tượng, có 2 ý Thể tượng và Hóa tượng. Một là được bằng hữu, có tình có loại, là tượng thành dụng. Hoặc hành đến vận được phù trì, hoặc hoàn toàn tạo thành khí, là việc kỳ diệu bậc nhất. Chính là bí mật Lý Hư Trung gia truyền, có đỉnh luận chỗ này, dẫn dụng khí dư thần là tối thiết, cần thủ dụng sinh khắc cường nhược. )

Phi hoàng đằng đạt, liền mở nhất lộ Quan tinh. Báo biến hưng long, năm quản tài khí cả đời.
(Trong trụ mang Quan tinh, không bằng từng vận cai quản, Quan thần đắc ý, từng bước vinh diệu. Trong bát tự có Tài không vượng, tuy thấy vô tình, hành vận tuy đến xứ sinh vượng, vẫn không phấn phát. Bởi vì khí hoặc là tử tuyệt, hoặc là bế tắc. Tuế là vua tôn nghiêm, là chủ thần sát cát hung. Lưu niên hoặc nhận Tài nguyên, hoặc sinh phù Tài tượng. Hoặc kích khai Tài khố, hoặc diêu hợp xung phi chỗ sinh vượng. Hoặc Củng Giáp ám bao cung Tài thần Lộc Mã Quý nhân, Tài vượng. Do vậy, hệ thống Tuế quân biến đổi, đột nhiên hưng phát vậy. )

Vận xâm thân nhược, mà thích hợp phù dụng thần. Vận biến thân cường, mà ức kỳ phúc khí.
(Lúc sinh thân vượng hoặc Tỉ kiên quá nhiều, dụng thần khiếp nhược, nên phạm khí xâm thân. Thích hợp phù dụng thần của ta, trái lại thì không cát tường vậy. Lúc sinh bản thể khí nhược, dụng thần thái quá, thân không nhậm thắng, lại thành thác loạn không thể quy về một chỗ. Chỗ hỉ như vậy, trái lại là nghịch. Bởi vì từ lúc sinh đến cuối, thể dụng tương xứng, vận phù thân thái quá, hoặc vây khốn dụng thần, cũng không trung hoà vậy. )

Tuế hoặc vận phù cát tránh hung, tuế hoặc vận che thiện thả ác.
(Hoặc lúc sinh hung sát lực trọng, cát thần lực khinh, tình thế Tài Quan tán mạn, tuế vận phù hợp phúc thần mà có ức chế hung khí. Lúc sinh cát thần lực trọng, hung sát cho dù là sứ giả nhưng khí mỏng. Tuế vận mất đạo kỷ cương chế ngự, hoặc rất dung túng ác sát, là có chìm mịt loại thiện. )

Thơ viết:
Tham ngộ qua lại bài Ngọc Tỉnh,
Nhân gian lại là đất hành Tiên;
Trọng khai ngũ khí phân điều xứ,
Phẩu phá lá chắn chớ có thiên.

(Ngọc Tỉnh áo quyết, chính là chỗ An Đông Đỗ Khiêm sáng tác, trong đó thú vị là Diệu Tượng, số thấy mà dụng tàng, khí loại tòng không mà lập có, Đảo phi Ám hợp, được một chia ba, thoát thai hoán cốt, nhập thánh siêu phàm, thật không phải dễ. Muốn cùng Tuyệt xứ phùng sinh, nên biết vượng mà thoái tàng, khí đầy tất sụp, vật quá thì tổn, đảng thịnh thì theo loại, khí suy thì nâng tình, dụng hay không dụng, chân giả nên biện, biến hay bất biến, tượng loại chia trước, cho nên bẩm khí có dày mỏng chỗ này, có thanh trọc chỗ này, có cao thấp chỗ này, có mờ có sáng chỗn này, vạn chữ vạn điều, thiên biến vạn hóa, khí có sinh khắc, cuối cùng lý hết thuộc ngoài lý, vật có tạo hóa, ngay từ đầu phải biết hoạt pháp, tôi học được thành một phái của chính truyền Lý Hư Trung vậy, phần đa thế gian không hiểu được sách này vậy, tôi cố gắng biểu thị ra đây vậy. )

【 Dục Ngô 】 Cẩn ký

(Hết quyển 10)

1.5.2016

descriptionQuyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết EmptyRe: Quyển 10 - Ngọc Tỉnh Áo Quyết

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết