Theo dịch lý, tháng 3,6,9,12 thuộc tháng tứ quý, thìn tuất sửu mùi thuộc hành thổ, nguyệt kiến tứ quý thì thổ vượng.

Tứ trụ bát tự vẫn lấy nguyên lý này, tuy nhiên vấn đề này vẫn đang tranh cãi.

Tháng sinh là một đơn vị rất đặc biệt trong 8 chữ của tứ trụ. Sinh vượng, tử tuyệt, nóng lạnh ẩm thấp đều xem từ tháng sinh mà ra.

Thiển ý không nên câu chấp vì tháng sinh bản khí là hành thổ, mà lấy thổ vượng được, tứ trụ xét mùa sinh là yếu tố hàng đầu.

Tháng thìn, xuân thổ tử
Tháng mùi, hạ thổ tướng
Tháng tuất, thu thổ hưu
Tháng sửu, đông thổ tù

Thổ không có vị trí vượng nhất, vì ngay cả lâm quan, đế vượng cũng “gửi” ở Tị, Ngọ, thì không thể tự lập được.

Minh chứng cho điều này, có bát tự của ông tưởng giới thạch (đã được xác quyết qua nhiều sách mệnh lý, và cả ngài Vi Thiên Lý- đã từng trực tiếp xem cho TGT)
Càn tạo:
Đinh Hợi- Canh Tuất- kỷ tị- canh ngọ
Nếu lấy tháng tuất thổ vượng, thì hiển nhiên kỷ thổ đắc lệnh, đắc sinh, đắc địa, kim gặp hoả trọng căn chế không thể tiết thổ. Hẳn lấy thuỷ khắc hoả cứu kim là dụng thần. Tuy nhiên TGT thành công ở vận hoả. Vấn đề này ngay cả ông Đoàn Kiến Nghiệp cũng không biết làm sao, đành gọt theo “Quan Lộc Cách”, rồi về sau này theo manh phái cũng luận mệnh này rắc rối khó hiểu.

Nhưng nếu xem trọng mùa sinh, thì mệnh này rất dễ xem.
Tháng tuất thuộc mùa thu, ở mùa này Kim là vượng nhất, canh kim thấu 2 đầu cực kỳ vượng nắm lệnh tiết thổ, kỷ thổ nhật chủ hưu tù tại tháng sinh, lại gặp cường kim tiết, dụng thần ở hoả khắc kim cứu nhật chủ, kị hợi thuỷ khắc đinh hoả.
Năm tháng có hoả khắc kim, đi hoả vận, thương quan gặp ấn quý bất khả ngôn mới tốt như vậy.
Giờ gặp hoả, cho nên con cháu cũng tài giỏi không kém ông ấy.

Trừ xét lệnh mùa ra, thì tháng sinh vẫn nguyên bản là một chữ trong 8 chữ, vẫn đầy đủ chức năng hợp xung hình hại.

Khôn tạo:
Mậu ngọ- ất sửu- mậu tuất- bính thìn
8 chữ thì đến 7 chữ là hoả thổ, nhưng mậu thổ này không tòng cường, nguyên do chỉ có một, đó là tháng sửu thổ mùa đông hưu tù, thuỷ là vượng nhất mặc dù không thấu, nhưng đó đủ để làm hoả thổ không thể đạt trạng thái cực vượng, là loại mệnh thiên khô.
Bát tự này là Thổ thái quá, lấy ất mộc trừ đi cái dư thừa, tiếc là căn mộc gặp xung khắc, lại đi phương tây kim địa, cho nên cuộc đời nghèo khổ bất kham, lưu lạc chốn phong trần làm kỹ nữ.

Khôn tạo:
Mậu tuất- ất sửu- bính thìn - kỷ sửu
Tương tự mệnh trên, 8 chữ thì đến 6 chữ là thổ, nhưng bính hoả không thể tòng nhi, cũng chỉ vì tháng sửu thổ không đủ vượng để ức chế nó, lấy ất mộc làm dụng thần khắc thổ dư thừa, hiềm ất mộc căn khí gặp xung, tinh khí cằn cỗi. Vận nhâm tuất thiên khắc địa xung nhật trụ bính thìn, năm tân mùi, tân kim sinh nhâm khắc bính, mùi tăng khí thế thổ, sinh mệnh gặp nguy hiểm.

Càn tạo:
Mậu thân- kỷ mùi- bính tuất- kỷ sửu
Bính hoả sinh tháng mùi thuộc thổ mùa hè, mặc dù thổ nhiều thổ vượng, tuy nhiên mùa hè khí hoả là vượng nhất, cho nên nhật chủ không thể tòng nhi, lấy mộc hoả là dụng thần trợ nhật chủ.
Tiếc là hành vận kim thuỷ, không lợi dụng thần cho nên cuộc đời cô khổ, vận quý hợi xuống tóc đi tu.

Càn tạo:
Bính tý- ất mùi- bính thìn- ất mùi
Bính hoả sinh tháng mùi, mùa hè hoả vượng, lại gặp ất mộc có căn sinh, tỷ kiếp trợ. Vượng khí quy thân, lấy thổ tiết khí làm dụng. Không thích ất mộc có căn thấu xuất trực khắc thổ, cho nên thi hương không thành. Lấy ất mộc là bệnh thần, bính thân, đinh dậu, mậu tuất đại vận xung hoá bệnh thần, trợ dụng thần phát tài kể ra cả trăm vạn, sang kỷ hợi vận, thổ vô căn, mộc đắc sinh, hình tang hao tán, vào hợi vận gặp bệnh mà chết.
Nếu cứ chấp nhất lấy bản khí chi tháng là vượng nhất, thì mệnh trên ắt là dụng mộc khắc thổ sinh hoả, vận trình đã khác vậy.

Càn tạo:
Mậu ngọ- bính thìn- mậu thìn- tân dậu
Có đến 6 chữ hoả thổ, mà tháng thìn, nếu lấy thổ nắm lệnh, ắt mệnh này thiên khô. Nhưng thực tế tháng thìn thuộc mùa xuân, thổ hư thoát, cho nên nhiều thổ cũng chỉ làm mậu thổ đạt trạng thái thiên vượng là cát, dụng thần lấy tân dậu hành kim trụ giờ tiết kỳ tinh anh.
hành vận đầu đời hoả vận, lận đận quá nhiều, đến kim vận 30 năm làm quan thuận toại, về già thuỷ vận không gặp sóng gió.

Càn tạo:
Quý hợi- kỷ mùi- bính ngọ- kỷ sửu
Bính hoả sinh tháng mùi, hoả nắm lệnh, ngọ mùi nam phương hoả vượng, bính hoả rất sợ quá vượng, lấy quý thuỷ làm dụng thần, quý thuỷ gặp kỷ thổ tướng địa trực khắc, cho nên hành vận ất mão, giáp dần khắc khử bệnh thần được tiền của sung túc, sự nghiệp thành đạt.
Tứ trụ này không phải thổ nhiều tiết hoả là bệnh, mà thổ nhiều khắc thuỷ là bệnh, dụng thần ở quý thuỷ vậy.

Càn tạo:
Đinh mão- đinh mùi- canh ngọ- kỷ mão
Canh kim sinh tháng mùi, hoả khí vượng nhất, đinh hoả song thấu gặp mão mộc nguyên thần. Trực khắc canh kim, ắt lấy kỷ thổ tiết hoả sinh kim là dụng thần, tiếc là mão mộc tiệt cước, kỷ thổ có ý giúp nhưng lực không đủ, nguyên cục không được một chữ nào, lại hành vận đông phương trợ mộc, cả đời không đạt ý nguyện. Số này hành kim vận khắc mộc bệnh thần thì cũng được một thời thoả chí bình sinh.

Càn tạo:
Tân mão- mậu tuất- bính thìn- nhâm thìn
Tháng tuất kim vượng, bính hoả hưu tù dụng thần ắt ở mão mộc gặp tân kim vượng cái đầu. Tân kim có nguyên thần mậu, có chút cứu ứng ở nhâm thuỷ nhưng lực không đủ, cho nên rất khó hành vận tốt. Hoả can khắc kim có thổ tiết, thuỷ địa sinh mộc có tuất khắc, cho nên mặc dù trung vận nam phương mà không phú không quý, chỉ là người nhân nghĩa đức độ, không gặp tai hoạ mà thôi.

...
Nhìn chung, tứ trụ không phải là dịch lý, có những cải tiến và lý luận riêng, không phải cái gì cũng bê nguyên cả một hệ thống dịch lý to lớn vào tứ trụ và coi nó là đúng được.

Thứ hai, tứ trụ xem được vị trí, xa gần, ẩn hiện là xem được thứ tầng, và theo bệnh dược pháp mà nói, thì kị thần, bệnh thần nên đắc vượng, dụng thần, dược thần nên gặp ở đại vận thì đại cát, trái lại là kém. Đó là nguyên lý chung, “bình cũ rượu mới” của phép bộ thần, tặc thần- đoàn kiến nghiệp.