KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Luận THỔ

descriptionLuận THỔ EmptyLuận THỔ

more_horiz
Luận thổ

Thổ thuộc ngũ hành phân tán ở bốn phuơng, vì vậy kim mộc thủy hỏa đều dựa vào thổ mà thành tượng, trong bốn mùa thổ vừa hữu dụng vừa thành kị vậy.

Mộc Hỏa Kim Thủy, bốn hành tương ứng với bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, Thổ tồn tại giữa ranh giới giao thoa bốn mùa. Mùa xuân khi mộc khí sắp tận, hỏa khí tiến tới. Mùa hạ khi hỏa khí sắp tận, khí kim tiến tới. Mùa thu lúc khí kim sắp tận, thủy khí tiến tới. Mùa đông lúc thủy khí sắp tận, mộc khí tiến tới. Khí lúc hỗn tạp (giao mùa) gọi là thổ; Tứ duy (bốn góc) như cung Cấn Sửu Dần, cung Tốn Thìn Tị, cung Khôn Mùi Thân, cung Càn Tuất Hợi, thổ lấy Thìn Tuất Sửu Mùi thành đất chủ vượng. Sinh gửi tại Dần Thân, vượng gửi nơi Tị Hợi, bởi thế mới nói "tán tại tứ duy". Nói chung thổ là khởi nguồn của vạn vật, kim mộc thủy hỏa cùng dựa vào để thành tượng, cho nên tính chất của thổ tùy theo khí hậu Xuân Hạ Thu Đông mà nghi kị khác nhau vậy.

Hỏa tử ở Dậu, thủy vượng tại Tý, bởi thế thổ nhờ vào hỏa vận, hỏa tử thì thổ tù (1). Thổ hỷ thủy Tài, thủy vượng thì thổ hư (hư nhược), thổ đắc kim hỏa, mới thành đại khí, thổ nhiều thì không quý, thành tro bụi chẳng ích gì, thổ tụ thì trì trệ, thổ tán thì khinh (nhẹ).

Tiếp theo trình bày cách dụng thổ khi gặp kim thủy mộc hỏa; thổ dựa theo hỏa sinh ở Dần thì tử ở Dậu; dựa theo thủy sinh ở Thân thì vượng ở Tý; Nhưng tính chất của thổ được hỏa mới quý, gọi là nhờ hỏa để vận động vậy. Hỏa tử ở Dậu, thổ đến Dậu cũng hưu tù mà vô khí, hỏa vượng thổ cũng vượng, hỏa nhược thổ cũng nhược, tên gọi như vậy rất thực tế. Đắc thủy thì nhuận (thấm), gọi là hỷ thủy làm Tài vậy. Thủy vượng ở Tý, thổ đến Tý như bùn nhão đóng băng vĩnh cửu, tán vỡ thành phiến mỏng tựa mái chèo. Tuy nói thổ dựa vào thủy sinh ở Thân, lộc tại Hợi nhưng chỉ là hữu danh vô thực. Thổ đắc kim hỏa, mới thành đại khí, ví như thổ sinh ở mùa thu, kim đương vượng tiết khí thổ, mà được hỏa nguyên thần (2) bổ sung cho thổ, người như thế tất vang danh thiên hạ, giống như mệnh Ủy viên trưởng họ Tưởng: Đinh Hợi/Canh Tuất/Kỷ Tị/Tân Mùi.

Nếu thổ sinh mùa hạ, cách Giá sắc (3). Có hỏa vượng đến sinh, gặp thêm kim kết cục tiết tú thổ. Người như thế chắc chắn ngũ phúc toàn vẹn (xem thổ tại tháng tứ quý ở dưới), quý là ở Quan Sát, vì thổ dày mà cứng rắn, cần phải được Giáp mộc khơi thông, loại trừ bớt, ví như ruộng đất cần được cày xới, để khai hoang vậy. Sinh ở các tháng tứ quý, là lúc thổ vượng, cho dù trong không có Mậu Kỷ nhưng xuất hiện Ngọ, thì Thổ cũng ám vượng nhưng không chết, bụi mờ che lấp bầu trời nếu không có mộc khí (Giáp mộc) chế. Tất có nạn hối hỏa ngăn trở Nhâm (làm tối hỏa, bế tắc Nhâm thủy không thông). Nếu tứ trụ thổ nhiều, quá ư dày trọng, không được Giáp mộc khơi thông thì thổ bất linh; Tứ trụ thổ ít, mà thấy Giáp mộc vượng khắc chế, tất gây tán loạn, thành tro thành bụi. Cho nên Mậu thổ trong Dần Trường sinh, không xuất can thì không thể làm dụng, bởi vì Giáp mộc Lâm quan tại cung Dần, mộc vượng thổ hư vậy (xem thổ tại tháng mùa Xuân ở dưới).

Thìn Tuất Sửu Mùi cơ bản đều là thổ vậy, nhưng phân chia âm dương mỗi loại không giống nhau. Thìn có thủy ẩn giấu, Mùi thì tàng mộc, sinh dưỡng vạn vật, công lao của Xuân Hạ. Tuất có tàng hỏa, Sửu chẳng giấu kim, Thu hỏa Đông kim, vạn vật xơ xác tiêu điều. Thổ tụ Thìn Mùi thì quý, tụ Sửu Tuất thì bất quý, vốn là thổ thích Thìn Mùi, mà không thích Sửu Tuất cũng rõ cả thôi. Nếu thêm ngũ hành có khí, nhân mệnh gặp được, điền sản nhiều vô kể, lúc về già phú quý ung dung. Nếu thổ quá dày mà vô thủy, khô táo (thiếu nước) thì không thuận, không có mộc thì chẳng khơi thông, thổ gặp hỏa thì cháy khét, nữ mệnh đa (hỏa) không thể sinh con đẻ cái được. Thổ vượng ở cuối mùa, duy chỉ Tuất thổ là khốn đốn suy nhược, Tuất nhiều là người rất keo kiệt, hay ngủ gà gật. Thìn nhiều là người vụn vặt, tham ăn. Nhiều Sửu là người thanh tịnh, cần kiệm. Sửu là Cấn thổ, có Quý thủy thì nhuận ẩm mà màu mỡ, nhân mệnh gặp cách này thì ngay thẳng.

Thìn Tuất Sửu Mùi là chính vị của thổ, thổ ở bốn mùa đều có nghi kị, khác biệt lớn của chúng là bởi âm dương. Thìn Tuất là dương thổ, Sửu Mùi là âm thổ. Nếu tỉ mỉ phân biệt thì trong Thìn có mộc dư khí, mộ khố của thủy; Mùi có hỏa dư khí, là mộ khố của mộc; Tuất có kim dư khí, là mộ khố của hỏa; Sửu có thủy dư khí, là mộ khố của kim. Thìn Mùi là thổ của Xuân Hạ. Tuất Sửu là thổ của Thu Đông. Xuân Hạ dương hòa khí trong trẻo, cho nên Thìn Mùi thổ có năng lực sinh sôi vạn vật. Thu Đông hàn khí làm xơ xác điêu tàn, cho nên Sửu Tuất thổ thâu tàng (cất giữ) vạn vật. Bởi thế mới nói, kim thủy mộc hỏa phải dựa vào thổ mà thành tượng vậy. Thổ tụ ở Thìn Mùi, có lực sinh sôi, nếu thêm ngũ hành có khí thì tất nhiên phú quý, tính của thổ vừa dày vừa nặng, lại chủ về tuổi thọ; Thổ tụ Tuất Sửu, cần có thủy để nhuận, có hỏa để ấm áp. Nếu thổ quá quá dày mà không có thủy thì sợ rằng quá hanh khô, khô thì không thuận hòa. Thổ quá dày mà không có mộc thì không tơi xốp, thủy nhiều thì tan rã vô dụng. Không có hỏa thì thổ không đầy, hỏa quá thịnh vượng thì đất hạn hán khô cằn nứt nẻ. Bởi thế mà thổ mùa Thu Đông không có lực để sinh sôi, hoàn toàn dựa vào sự điều hòa vậy. Nữ mệnh nhiều thì không sinh đẻ, chính là ý hỏa đa thổ tiêu đã nói ở trên. Nữ mệnh lấy mộc làm chồng, mộc kiến hỏa đa, mộc không thể khai thông cho thổ mà ngược lại trợ hỏa càng thêm vượng, như Mậu sinh tháng Ngọ, thấy Giáp mộc thành Dương Nhận đảo qua (phản chiến) vậy. Thổ trong bốn mùa, Tuất thổ có sinh cơ kém nhất, tại sao vậy? Thìn thổ lực sinh trưởng mạnh nhất, Mùi thổ thì lực sinh trưởng chưa suy, Sửu thổ thì lực sinh trưởng đang tiến. Sửu là Cấn thổ, khí tiến nhị dương, cung Sửu bản thân có (tàng) Quý thủy thấm nhuận, chỉ cần gặp Bính hỏa chiếu rọi sưởi ấm thì có khả năng làm vạn vật sinh trưởng. Trong khi đó, Tuất thổ ở giữa Thu Đông, là lúc thời tiết túc sát (khắc nghiệt, làm vạn vật héo úa điêu tàn), cung Tuất lại ám tàng hỏa, thổ quá táo thì không thể sinh sôi nẩy nở, cho nên người nhiều Tuất đa số là người bủn xỉn, hồ đồ, thần trí mơ màng, cũng là bởi tính chất không được hòa nhuận, khốn cùng, yếu nhược, nhược mà chẳng ra nhược vậy. Đó chính là tính chất của Tuất thổ, từ ngữ khó miêu tả cho hết, khi gặp cần suy nghĩ thêm.

Thổ sinh tháng mùa Xuân, thế lực của nó hư phù (hư nhược, không ổn định).

Ba tháng mùa Xuân là lúc mộc thần thịnh vượng, mộc vượng thì thổ đương nhiên nhược, tuy dựa theo hỏa sinh tại Dần mà tính chất cường nhược khác nhau (thổ kèm theo hỏa đều trường sinh tại Dần, nhưng sự mạnh yếu của hỏa và thổ không giống nhau), khí thế hư phù, chính là thể tính của thổ mùa xuân vậy.

Hỷ hỏa sinh phù, ghét mộc thái quá, kị thủy tràn lan, hỷ có Tỉ thổ trợ giúp, đắc kim chế mộc thành cát lợi, kim nhiều thì cướp thổ khí.

Chỗ này nói đến cách dụng thổ trong mùa xuân, bởi thể tính hư phù mà hỷ sinh phù, kị khắc tiết, là lẽđương nhiên. Mùa xuân mộc nắm lệnh, đắc hỏa thì hóa khắc thành sinh, trở thành Sát Ấn tương sinh cách; nếu không có hỏa sinh phù, thổ suy mà gặp mộc vượng, nhất định gặp cảnh sụp đổ chôn vùi. Thủy là Tài, thổ hư phù gặp thủy vượng tất tan rã chẳng dụng được, nếu được Tỉ Kiếp trợ giúp thì có thể chế thủy thành công. Thổ vượng thì hỷ kim tiết khí thổ, nhưng thổ mùa xuân hư phù sao có thể tiết khí được, chính là nguyên nhân mộc vượng khắc thổ mà có kim chế mộc cũng là hữu ích, nhưng kim không thể quá nhiều, nhiều thì trộm tiết thổ khí, mà thổ ngầm bị kim gây thương tổn vậy.

Thổ trong tháng mùa Hạ, thế khô mãnh liệt.

Thế lực của thổ cùng hỏa song hành, hỏa vượng thì thổ cũng vượng, ba tháng mùa hạ là lúc hỏa thịnh vượng, cũng là thời điểm thổ vượng khí. Tính chất rất khô hanh là thể tính của thổ trong mùa hè vậy.

Đắc thủy thịnh tưới nhuần thành công, kị hỏa vượng nung luyện thổ cháy khô nứt nẻ, mộc trợ hỏa viêm (càng nóng), chẳng ngại thủy khắc, kim sinh thủy phiếm (tràn trề), thê tài có lợi, thấy Tỉ Kiên thì trục trặc bất thông, nếu thổ thái quá lại cần mộc khắc chế.

Lời trên là cách dụng thổ trong mùa hè. Ba tháng hè hỏa thổ đồng hành, thổ tính rất khô, là lúc thổ bị bốc hơi nước, gặp trận mưa to cỏ cây sẽ tốt tươi, nên mới nói tưới nhuần mà thịnh vượng. Nếu hỏa vượng vô thủy thì giống khi đại hạn, đất đai nứt nẻ, cây cỏ khô héo, hỷ thủy để dụng được thổ, kỵ hỏa để thúc đẩy sức sống của thổ. Mộc có thể sinh hỏa làm hỏa càng thêm cháy, song tứ trụ nếu như có thủy, chưa đủ làm thành mối hại, cho nên thổ được thủy hỏa trợ giúp, thì sức sống của thổ mới dồi dào, mộc sẽ không sinh hỏa mà lại khắc thổ, thổ vượng đổi lại hỷ dụng thủy vậy. Thổ mùa hè không thể sinh kim, không thể lấy kim tiết thổ, đặc biệt thủy ở vào nơi Tuyệt địa, có kim sinh thì cuồn cuộn không dứt, thủy là Tài, nên nói kim có lợi cho vợ. Thổ ở ba tháng mùa Hạ, là lúc thịnh vượng nhất, không phiền Tỉ Kiếp trợ giúp làm thổ càng vượng thêm, lấp đầy khó thông, cần thủy phân tán, Nếu lấy tổn làm ích, chỉ mộc khắc thổ, cần có thủy phối hợp, bằng không mộc không thể khắc thổ được, mà ngược lại thành trợ hỏa cháy, vừa vô ích mà có hại vậy.(4)

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Thổ trong tháng mùa Thu, tử vượng mẫu suy.

Ba tháng mùa thu kim thần nắm lệnh, thổ là mẹ của kim, con vượng thì mẹ đương nhiên suy, nội khí suy yếu, đó là tính chất của thổ tại mùa thu vậy.

Kim nhiều thì trộm tiêu hao khí (thổ); mộc thịnh được chế phục thành người tốt; hỏa phừng phừng vẫn thỏa mãn; thủy dập dềnh tràn lan là không tốt; đắc Tỉ Kiên thì có thể trợ giúp, đến tiết Sương giáng (giữa Hàn lộ và Lập đông) xem như bằng không cả.

Ba tháng mùa Thu là lúc kim thần chủ vượng, lại thấy kim nhiều làm thổ bị trộm khí mà tiêu hao, thổ càng suy yếu; mộc đang lúc hưu tù, gặp khí kim vượng, tự nhiên bị chế, tính chất thuần lương, không có lực khắc thổ, không đủ gây hại vậy. Ba tháng mùa Thu, thổ tính hư hàn (yếu ớt, lạnh lẽo), được hỏa thì đầy đủ, cho nên mùa Thu thổ không thể rời xa hỏa, kim đang vượng được hỏa chế. Mộc suy tuyệt, được hỏa thì hóa, vì thế hỏa tầng tầng mà không ngại. Thổ hư hàn, thấy thủy tràn lan, tất bị tan rã, cho nên gặp thủy thì không tốt. Kẻ yếu mừng được sinh phù là lẽ đương nhiên, mùa thu thổ suy yếu, được Tỉ Kiên thì lực tăng thêm. Chỗ này là nói sau Lập thu trước Sương giáng, nếu sau Sương giáng thổ vượng chủ sự, cung Tuất là mộ khố của hỏa sinh thổ, không cần Tỉ trợ, bản thân tự sinh vượng, thấy Tỉ lại sợ thái quá ấy chứ.

Thổ trong tháng mùa đông, chỉ hỷ hỏa làm ấm

Ba tháng mùa Đông đất lạnh đóng băng, là lúc vạn vật thâu thúc (bị kìm hãm, gò bó) chỉ mừng được hỏa để thổ mạch ấm áp, vạn vật mới có sức sống, gọi là "hàn cốc hồi xuân", đó là tính chất của thổ trong mùa đông vậy.

Thủy vượng tài phong
Kim đa tử tú
Hỏa thịnh hữu vinh
Thủy đa vô cữu
Tái gia bỉ kiên hiệp trợ vi giai
Cánh hỷ thân chủ khang cường túc thọ.


6 câu "Thủy vượng tài phong" này đều được nhờ bởi có hỏa vượng làm ấm ở trên, thổ hàn đóng băng không có hỏa giữ ấm thì sự sống ngừng thở, có thể nói là vô dụng (không có hỏa mọi thứ đều trở thành vô dụng). Khi được hỏa, trở thành đại dụng, thổ thêm ấm áp, gặp thủy vượng thì mới phong phú; thấy kim nhiều là con thanh tú; gặp hỏa mạnh nguồn thổ càng thêm ấm áp, hết sức phồn vinh; thấy nhiều thủy mà có hỏa dẫn hóa cũng không đáng ngại; có Tỉ Kiên trợ giúp lại càng tốt đẹp hơn cho thân chủ tức là nhật nguyên vậy, thổ là nơi vạn vật sinh trưởng, thân chủ khang kiện là bằng chứng của sống thọ vậy. Nếu không có hỏa, thì mạch thổ lạnh lẽo, thủy vượng thì tan vỡ, kim nhiều thì hư, mộc nhiều thì hung, được Tỉ Kiên trợ giúp tức thì thổ bị dồn đống đóng băng, không thể sinh vạn vật, tuy thổ dày mà chẳng ích gì, bởi vậy đông thổ không thể rời xa hỏa.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Phân biệt tính chất của thổ trong tháng tứ quý (4 tháng cuối mùa)

Thìn Tuất Sửu Mùi là bốn thổ thần, duy chỉ có Mùi thổ là cực vượng, vì sao vậy? Thìn thổ kèm theo mộc khí nên bị khắc, Tuất Sửu thổ kèm theo kim khí nên bị tiết, bởi thế 3 thổ này tuy vượng mà không vượng, cho nên thổ tại 3 vị trí đó nếu kim nhiều sẽ trở thành Giá sắc cách, không mất đi sự trung hòa. Nếu ở tháng Mùi thổ, mang theo hỏa khí, chứa hỏa để sinh tồn, vì vậy rất vượng khí. Nếu thổ đến tháng Mùi vượng, gặp tứ trụ thổ trọng, nhiều thì gây ra hỏa viêm thổ táo, không thể lấy Giá sắc cách xem, nhưng thổ lâm tháng này mà thấy kim kết cục, chẳng quý thì phú vậy. Sách viết: Thổ gặp tháng cuối mùa ( tháng tứ quý) mà thấy kim đa, chung quy luận quý, mà tại tháng Mùi thì càng quý thêm.

Bốn tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, đều là đất thổ chuyên vượng, Thìn Tuất là Mậu thổ, Sửu Mùi là Kỷ thổ, ở tại bốn góc, mà tháng Mùi là cực vượng, tại sao vậy? Thể tích của thổ lưu động theo bốn mùa. Thìn thuộc Đông phương là đất mộc khí chủ vượng; Tuất thuộc Tây phương kim khí chủ vượng; Sửu thuộc Bắc phương Thủy khí chủ vượng. Thổ bị mộc khí khắc chế, kim thủy tiết khí, tuy vượng mà không vượng. Mùi ở đất Nam phương hỏa vượng, thổ được hỏa khí sinh cho, vậy mới nói tháng Mùi thổ cực vượng. Can dương có Nhận, can âm không có Nhận, nhưng chỉ có Kỷ thổ sinh tháng Mùi là có Nhận. Chính bởi lẽ đó, 3 vị Thìn Tuất Sửu, Tuất là mộ hỏa, sẽ vượng hơn so với Thìn Sửu. Song khi luận dụng, thổ sinh tứ quý, tháng Thìn thì Tài sinh Sát, tháng Tuất thổ kim thành Thương quan bội Ấn, tháng Mùi là Sát Ấn tương sinh (không thể không có thủy phối hợp), tháng Sửu là Thực Thương sinh Tài (không thể không có hỏa phối hợp), tất cả đều là quý cách. Quy tắc lấy thầnở Nguyệt lệnh, bởi đồng cung tụ quý vậy, Giá sắc cách thấy kim tất đại phú quý, duy chỉ tháng Mùi hỏa vượng thổ táo, nhiều người phán không thể sinh kim mà không để ý, không biết rằng sau tiết Đại thử kim thủy tiến khí, bản tính của Kỷ thổ là ẩm thấp, tuy tại tháng hỏa vượng, nghĩa là vẫn tự sinh kim vậy, phần luận thể dụng biến hóa bên dưới sẽ nói kỹ hơn.

Chú thích:

(1) Hỏa tử thì thổ tù: hỏa chết thì thổ bị tù túng, không có người sinh trợ (ND).

(2) Nguyên thần: một hành sinh ra hành khác, như hỏa sinh thổ, thì hỏa là nguyên thần của thổ (ND).

(3) Giá sắc cách: Nhật chủ Mậu Kỷ, sinh ở các tháng tứ quý, địa chi hoàn toàn là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, hoặc tứ trụ thuần thổ, mà không có Giáp Ất Dần Mão xuất hiện cấu thành Giá sắc cách (theo Thiên Lý Mệnh Cảo).

(4) Dụng ý “lấy tổn làm ích” chỉ cách dụng mộc khắc thổ, tức là dụng Quan Sát, tuy nhiên mộc cần phối hợp với thủy để tiếp tục sinh trưởng (hoạt mộc), nếu không có thủy sẽ thành tử mộc (củi khô) trợ hỏa, làm thổ lại tăng thêm, không có lợi. (ND)

descriptionLuận THỔ EmptyLuận về Mậu Thổ

more_horiz
Luận về Mậu Thổ

Sự giống nhau của Mậu thổ tháng giêng, tháng 2 và tháng 3:

Mậu thổ sinh vào 3 tháng mùa Xuân, không có Bính chiếu sáng sưởi ấm, Mậu thổ không thể sinh trưởng, không có Giáp khai thông, Mậu thổ không linh hoạt, không có Quý tưới nhuần, vận vật không thể phát tiển. Tháng Giêng tháng 2 trước dụng Bính sau dụng Giáp, thứ nũa mới đến Quý. Tháng 3 trước thì dụng Giáp sau dụng Bính, thứ nữa cũng mới đến Quý. Nguyên do là Mậu thổ tư lệnh, cho nên trước dụng Giáp mộc vậy. Phàm trong bát tự Bính Giáp Quý đồng loạt cùng thấu, phú quý cực phẩm. Nhưng sớm muộn cần có vận trình, hoặc hai thấu một tàng, cũng chủ khoa giáp, hai tàng một thấu, hiển đạt theo một con đường khác biệt nào đó, hoăc chỉ đến tú tài mà thôi.

Tổng luận Mậu thổ sinh vào 3 tháng mùa Xuân, Mậu thổ Trường Sinh tại Dần, mà Giáp mộc cung Dần Lâm Quan, mộc vượng thổ sụp đổ, làm cho thế ( thổ) sẽ nghiêng lệch mà sụt lở, có Bính thì thổ chân thực, không có Bính thì thổ hư. Cho nên trước lấy Bính làm dụng, khí thịnh dương hòa, Mậu thổ không thể sinh, sau dùng đến Quý làm bổ trợ, thổ nhiều mà dầy đặc, thì lấy Giáp làm dụng, cũng lấy Quý thủy làm phò tá. Mậu thổ sinh vào 3 tháng mùa Xuân phương pháp thủ dụng ( lấy dụng thần), không ngoài những điều này. Bính Quý sinh vào mùa xuân, trời không nắng không mưa. Cho nên hai can Bính Quý, khi dùng mà không gây cản trở lẫn nhau, mỗi cái có được tác dụng của nó là đẹp. Hoặc Bính Quý đều thấu tức là Quan Ấn đầy đủ, phú quý cực phẩm. Song khi dụng cũng có trước sau, có thể lấy Sát Ấn hoặc chỉ chọn Sát, coi xét sự phối hợp của cách cục mà xác định.

Tháng giêng tháng hai thích hợp với Bính thấu trước, tháng 3 thích hợp với Giáp thấu trước. Do đó tháng giêng tháng 2 tuy có Quý Giáp, không có Bính cũng khó giải khí lạnh, mưa gió nhớp nháp chìm ngập, vận vật sinh ra mà không thể phát triển được. Cho nên không có Bính, thì cả đời thành bại, phú quý gian nan. Hoặc có Bính mà không có Quý Giáp, gọi là mùa Xuân bị khô hạn, như vạn vật sinh ra mà gặp nhiều tai ách, không có Giáp Quý, một đời lao khổ, cực khổ mà chẳng có sự nghiệp gì.

Bây giờ xin được tường thuật về cách lấy dụng thần của Mậu thổ trong tháng giêng tháng 2. Hai cung Dần Mão là đất mộc thần Lâm quan Đế vượng, cho nên dụng thần đầu tiên chọn Bính hỏa, Sát Ấn tương sinh, là thượng cách nhất. Táo thổ mà không thể sinh, do đó lấy Quý thủy nhuận trạch làm phò tá. Nếu như Bính hỏa quá nhiều, chi thành hỏa cục, thì trước tiên lại phải lấy Quý thủy. Tóm lại: Mậu thổ ở tháng giêng tháng 2, không rời Bính Quý, tùy theo đó mà phân ra sử dụng trước sau sao cho phù hợp, nói như vậy chính là sự phối hợp của cách cục vậy. Nếu luận khí hậu mùa ( mùa và thới tiết), đầu Xuân thích hợp với dụng Bính, giữa Xuân dương tráng phù hợp với dụng Quý, đầu Xuân không có Quý, có thể chỉ dụng Bính hỏa, duy chỉ cách cục không được hoàn mĩ mà thôi, giữa Xuân không có Bính, không thể dụng Quý. Bởi vì mùa gặp mộc vượng, Tài tinh đảng Sát, tất nhiên khắc thân. Vậy hai kẻ Bính Quý này sở dĩ có phân ra trước sau khi sử dụng là như vậy.

Hoặc nhất phái Bính hỏa, hai can mà có Giáp thiếu Quý cho nên có phân ra trước sau khi sử dụng vậy. Hoặc nhất phái Bính hỏa, có Giáp thiếu Quý, trước bình an sau xấu hỏng, hoặc chi thành hỏa cục, không thấy Nhâm Quý, tăng đạo cô bần, Quý thấu thì quý, Nhâm thấu thì phú, khi dụng Nhâm cần xem sự nhiều ít của thủy.

Thủy nhuận trạch đều không lấy đó làm nhiều, thủy nhiều lại tránh ẩm ướt nặng, thích hợp với Bính hỏa để sưởi ấm, Tỷ Kiếp theo đó mà phân rõ. Cho nên cần phải trình bầy sự nhiều ít của thủy một cách tỷ mỉ rõ ràng, theo phương pháp luận Tài Ấn ở bên trên.

Hoặc nhất phái Giáp mộc, mà không có Bính, thường nhân, được một Canh thấu, chủ phú quý, hoặc chi thành mộc cục, Giáp lại xuất can, lại có Canh thấu, nhất định chủ khoa Giáp, phú quý phi thường.

Tiếp theo luận đến Quan Sát, Giáp mộc làm Sát, không có Ấn dẫn hóa, tức là phải dụng Thực thần chế, ( dụng Ấn giống với cách dụng Bính Thân ( Giáp) trên ???). Một bầy Giáp mộc. Nói đến tiết tháng giêng, thì chi thành mộc cục. Nói đến tiết tháng 2, đều lấy Mậu thổ lâm ở Thìn Tuất, nhật nguyên hiển nhiên vượng mà làm điều kiện chủ yếu, thân cường Sát vượng có chế, tự nhiên phú quý, sinh vào tháng Giêng, bản thân cung Dần có Bính hỏa, mộc cục lại tàng thủy, phú và quý lưỡng toàn.

Hoặc không có Canh kim, không thấy Tỉ Ấn, không lấy tòng Sát luận, không phải đại xấu thì cũng bị hung, nhất định là phường đạo tặc ( trộm cắp). Nếu như dưới Nhật nguyên tọa Ngọ, không được chết một cách an lành.

Nối tiếp đoạn văn trên. Mậu thổ kí sinh ở Dần, nguyệt lệnh ám tàng Tỉ Ấn, ( trong Dần có Bính, trong Mão có Ất) không thể nói tòng, Sát vượng thân Suy, nhất định chủ gặp hung họa. Nhật nguyên tọa Ngọ Dương nhân, trong cung Dần Ngọ đều tàng Ấn, có tượng chết một cách không được an lành vậy. Cùng Thông Bảo Giám lấy nhật nguyên tọa Giáp, gọi là Mậu Dần vậy, cũng hiểu.

Hoặc nhất phái Ất mộc, danh quyền Quan hội đảng ( hội tụ được cả danh, quyền, chức tước), tức là có Canh tòng, cũng khó chế Kỷ, người này trong thì gian trá ngoài thì chính trực, miệng nói một đằng tâm nghĩ một nẻo, khó giao du với nhau. Thêm một Giáp mà ở trong không có Canh, nhất định lười biếng mà bản thân phải cam chịu, có lòng tham không đáy mà không thỏa mãn, hoặc Bính nhiều Mộc nhiều, thích hợp với Quý Canh cùng tham gia sử dụng.

Trên luận về dụng Sát. Bây giờ luận đến dụng Quan, Ất mộc tháng 2 thừa quyền, quyền Quan hội Đảng tức chi thành mộc cục vậy, Canh kim gặp Ất, rõ ràng để mất sự tương hợp, đi ngược lại ý nghĩa tương khắc vậy, cho nên nói cũng khó chế Ất. Nếu cách vị không hợp, đương nhiên là không có khuyết điểm này, thêm một Giáp ở trong, là Quan Sát hỗn tạp, không được Canh kim trừ bỏ Quan Sát, nhất định là người lộc mỏng, gặp ở dưới tiết Quan Sát hội Đảng, Thất sát vô chế, đó là người nhất định thiếu hụt lý trí, bản thân không thể tự có khí tiết vậy,Bính nhiều mộc nhiều, dương tráng mộc khát, cũng giống tiết một bầy Bính hỏa và tiết một phái Giáp mộc đã nói ở trên, theo cách luận dụng Mậu thổ ở tháng giêng tháng 2 đã nói ở trên.

Tháng 3 Mậu thổ tư lệnh, không thấy Giáp Quý Bính là người bần tiện vô dụng. Quý thấu chủ khoa bảng, Bính thấu chủ phải cam chịu cống nạp quần áo mà đau khổ, Bính thấu Giáp tàng, không có Quý thì phú, có Quý thì hiển đạt theo một con đường đặc biệt nào đó.

Tổng luận Mậu tháng 3, thổ tháng 3 thổ vượng đương quyền, Giáp mộc làm dụng thần đầu tiên, lấy Quý thủy làm phò tá. Lấy Tài sinh Sát làm thượng cách, lấy Ấn hóa Sát làm thứ cách, Quý thấu Giáp xuất can, Quý làm phò tá vậy. Bính thấu Giáp xuất can, Bính làm phò tá vậy. Cho nên Bính thấu Giáp tàng không có Quý, phú mà không quý, có Quý là Tài sinh Sát nhược, trong Phú đạt được quý.

Nếu Bính nhiều vô Quý, ruộng khô há có thể gieo trồng được ư, những loại mệnh tạo này trước thì giầu sau thì nghèo. Hoặc hỏa nhiều có Nhâm thấu thì trước nghèo sau giầu. Quý thấu, trước thì hèn sau thì quý, Nhâm tàng chỉ có y Lộc, song cũng chỉ đủ ăn, Quý tàng chỉ có tài năng, song cũng chỉ là thày giáo giỏi mà thôi, Nhâm Quý đều tàng, cả đời sung túc, chỉ cần vận đẹp. Hoặc chi thành hỏa cục, được Quý thấu thì giành được phú quý nhàn hạ, Nhâm thấu phú quý khó thành, sao vậy? Quý chính là nắng hạn gặp mưa rào, đó là lý do hiển nhiên, Nhâm chính là Sông Hồ gợn sóng, đó là lý do rất miễn cưỡng vậy. Cho nên có sự khác biệt giữa thanh nhàn và vất vả vậy.

Bây giờ luận đến Ấn nhiều dụng Tài phá Ấn, có Bính mà không có Quý, giống như ruộng khô hạn, trước bình an sau bế tắc ( khốn cùng), hơi giống tháng giêng tháng 2, Nhâm Quý đều là tư nhuận mà các dụng không giống, dụng Nhâm thì phú, dụng Quý thì quý, Nhâm Quý tàng chi, cần phải hành vận dẫn xuất, mới có thể phú quý, chỉ cần vận tôt, ý là nói mệnh có khuyết, đợi đến vận tham gia trợ giúp vậy. Sau luận đến dụng Nhâm dụng Quý có sự khác nhau giữa vất vả và nhàn hạ. Quý như mưa móc, đương nhiên nhuận trạch, cho nên giành được phú quý an nhàn. Nhâm như sông hồ, lấy sức người dẫn nước tưới tiêu ruộng đồng, cho nên phú quý khó thành, đây chính là sự khác biệt trong tính chất của Nhâm Quý vậy.

Lại tiếp Bính nhiều mà không có Quý, chỉ có được sự che chở phù hộ mà không có phúc trạch, cho nên chủ trước phú quý sau bần tiện. Hỏa nhiều có Nhâm Quý để cứu, tức Ấn là bệnh thần, Tài là thuốc tốt, lại chủ trước thì bần tiện mà sau thì phú quý, cần dựa vào lý lẽ thích hợp mà không nên cố chấp, cần phải xem xét xác định hỉ dụng ở trụ năm hay trụ giờ. Sớm muộn gì sự tốt xấu của vận mệnh cũng đều có mối quan hệ. Mậu Quý tương hợp, tình ý của Tài hướng về nhật chủ khí của nó chuyên thuộc đương nhiên an nhàn mà phù hợp vậy. Nhâm gặp Mậu thì lại vô tình bởi vì ta mà chế, không phải cái mà ta có thể sở hữu sử dụng, cho nên khó khăn gian khổ vậy. Sách lấy Chính Tài là tiền tài của mình, Thiên tài là tài sản của mọi người, cũng là ý này vậy. Ở trên luận Ấn nhiều dụng Tài. Nếu như Tài nhiều dụng Kiếp Ấn, có thể chiếu theo chỗ này mà suy đoán.

Chi thành mộc cục, lại Giáp Ất xuất can, đây gọi là Quan Sát hội đảng, Quan Sát không có nghĩa khứ lưu, được một Canh thấu, loại bỏ Quan Sát, nhất định phú quý không lớn, không có Canh quả là người lộc ít. Tuy có thể tụ Tài, liên tiếp bị họa mà triệt tiêu, không thể được thừa hưởng, thích hợp với dụng hỏa tiết mộc khí. Có một mệnh tạo: Đinh Mùi, Quý Mão, Mậu Dần, Ất Mão, mệnh này Quan Sát không có ý nghĩa khứ lưu, may có Đinh hỏa xuất can, hơn nữa Mậu Quý hóa hỏa, làm cho Giáp mộc ám thiêu trái lại giữ chức Thám Hoa (1) Võ khoa.

Nói như vậy là dụng Quan Sát, Quan Sát cùng gặp, luận Sát không luận Quan. Cho nên mới nói Quan Sát không có ý nghĩa khứ lưu, Mậu thổ lấy gặp Giáp mộc làm quý, tứ quý đều giống nhau, Ất mộc Quan tinhkhông có lực để khai thông thổ, uổng phí mà làm hỗn tạp mà thôi. Quan Sát khí tạp, tuy có Canh kim, phú quý không lớn, không có Canh không quý, Quan Sát tuy có thể chế Kiếp hộ Tài. Cho nên mới nói Tài tuy tụ mà vẫn dẫn đến tai họa vậy. Quan Sát vượng mà vô chế, tuy lấy Đinh hỏa tiết khí mộc, Quý hợp với Mậu, không thương hại Đinh hỏa, không phải hóa hỏa vậy, hỏa thổ thiên về hanh khô, quý mà vũ dũng ( vận hành kim thủy mà phát, có thể vẫn dùng Quý thủy, chỉ dụng thần bị thương mà thôi).

Hoặc mộc nhiều không có Tỉ Ấn, lấy tòng Sát luận, chủ đại phú quý. Hoặc có Tỉ Ấn lại cần phải vào tháng giờ lấy Quý thủy để thành quý cách. Quý không có hỏa không có kim, lại gọi là Thổ Mộc giao chiến, chủ trong người đau ốm bệnh tật, ưu sầu gian khổ, cuối cùng lại không được trọng dụng.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Tiếp theo đoạn văn trên, tứ trụ không có Tỉ Ấn thì lấy tòng Sát luận. Bởi thế Mộc ở ba tháng mùa Xuân làm chủ, thổ làm khách, ( nương nhờ mà vượng) khách tuy cường, không có lý xua đuổi chủ. Nếu như chi thành phương cục, cũng lấy tòng luận vậy, đặc biệt thổ tháng 3 vượng nắm quyền, tòng Sát rút cuộc không phải rễ ràng, nên cân nhắc khi chọn. Nhật nguyên có Tỉ Ấn tương phù, hỏa thổ viêm táo, chuyên chọn Quý thủy lấy thành quý cách. Gặp ở tiết Bính nhiều không có Quý ở trên, Mậu thổ 3 tháng mùa Xuân mà không có Giáp Quý Bính làm dụng, gọi là thổ mộc tự giao chiến, thân nhược thì tàn tật, thân cường thì là người vô dụng.

Người dụng Giáp, thủy làm thê mộc làm tử, tử suy. người dụng Bính, mộc làm thê hỏa làm tử, thê hiền.

Mậu thổ sinh vào 3 tháng mùa Xuân, không ngoài dụng Bính, Quý làm phụ tá, xem đoạn văn trên sẽ thấy rõ ràng, Mộc có thể khai thông thổ, cho nên tử suy mà thể hiền. khi dụng Quý thủy xem giống tháng tư ở dưới.

Ghi chú:
1/ Thám Hoa: Học vị dưới trạng nguyên và bảng nhãn, thời xưa

Ví dụ về Mậu thổ sinh vào tháng giêng

Bính Dần, Canh Dần, Mậu Thìn, Canh Thân.
Bính Giáp Quý đều đầy đủ, giữ chức tướng quân, kiêm cách chọn Thất sát.
Theo mệnh này thì Thìn hội cục, Mậu thổ không bị khô hanh, chuyên dụng Bính hỏa, Giáp mộc cung Dần sinh Bính, Sát Ấn tương sinh, kiêm cách chọn Thất sát, Canh kim chẻ Giáp, Thực Thần chế Sát vậy.

Tân Tị, Canh Dần, Mậu Dần, Giáp Dần.
Hỏa nhiều không có thủy, bần tiện. Tam Kỳ cách.
Đinh Tị, Nhâm Dần, Mậu Thìn, Bính Thìn.
Quý vận chết yểu.

Mậu Thân, Giáp Dần, Mậu Dần, Đinh Tị.
Được tiến cử Tú tài, Giáp thấu Bính tàng lại thiếu Quý đây chính là nguyên do vậy.

Tân Mão, Canh Dần, Nhâm Ngọ, Giáp Dần.
Sinh giờ Dần ngày 28 tháng giêng năm thứ 11 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Lý Đình Bá: Thân vượng Sát cao chế, vị đến Phương Bá.
(Bá: Tước vị đứng hàng thứ ba trong 5 tước - công, hầu, bá, tử, nam - thời phong kiến).

Bính Tuất, Canh Dần, Mậu Ngọ, Nhâm Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 24 tháng giêng năm 12 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Dương Sâm: Giáp mộc thừa lệnh, Bính hỏa xuất can, Sát Ấn tương sinh, quý nắm binh quyền, Dần Ngọ Tuất hội cục, lại được Nhâm thủy xuất can, cho nên phú.

Canh Dần, Mậu Dần, Mậu Dần, Giáp Dần.
Sinh giờ Dần ngày 8 tháng 2 năm thứ 16 đời vua Quang Tự.
Mệnh Trương Quần: Chuyên dụng Bính hỏa trong Dần, kiêm cách là Thực thần chế Sát vậy. Chức đến chủ tịch tỉnh.

Giáp Ngọ, Bính Dần, Mậu Tý, Nhâm Tuất.
Giờ Tuất ngày 10 tháng giêng năn thứ 20 đời vua Quang Tự.
Tứ trụ của Phu nhân Hoàng Nhiệm Bạch: Giáp Bính Quý đều đầy đủ, phu tinh đương vượng, Tài quy về tọa ở dưới. Mệnh phú quý lưỡng toàn.

Ví dụ về Mậu thổ sinh tháng 2

Bính Thìn, Tân Mão, Mậu Thìn, Canh Thân.
Hóa tan ( bỏ) Bính hỏa, lại vô Giáp mộc, chỉ tồn Quý thủy. Song có thể đạt được tú tài. Lục thân lạnh nhạt hoặc có ít.

Quý Mùi, Ất Mão, Mậu Dần, Bính Thìn.
Quý Bính Giáp đủ cả, được tấn phong làm Quan Lang trung ( Lang trung: Tên chức quan ngày xưa).

Quý Mùi, Ất Mão, Mậu Dần, Nhâm Tý.
Bính Giáp đắc ngôi ( ngôi Dần), Tý Quý xuất can. Nhất bảng.

Đinh Mão, Quý Mão, Mậu Dần, Nhâm Tý.
Nữ mệnh: Bính Giáp Quý đắc ngôi, ( Giáp Bính được ngôi Dần, Quý được ngôi Tý. Cho nên cũng hiểu là Bính Giáp Quý được căn).

Kỷ Hợi, Đinh Mão, Mậu Tý, Đinh Tị.
Giờ Tỵ ngày 22 tháng 2 năm thứ 19 đời vua Đạo Quang.
Mênh Đồ Liên Thăng: Giáp Bính Quý đều tàng, Hợi Mão hội, Ấn vượng dụng Tài, lại hành đất Tài vượng, làm danh tướng dưới trướng của chủ soái Bào Siêu. Khí tạp không thanh, tuy quý mà còn vũ dũng.

Ất Mão, Kỷ Mão, Mậu Tuất, Nhâm Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 5 tháng 2 năm thứ 5 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Niếp Tập Quy: Chuyên dụng Quan tinh. Quan đến Tuần phủ.

Kỷ Mùi, Đinh Mão, Mậu Ngọ, Nhâm Tý.
Sinh giờ Tý ngày 17 tháng 2 năm thứ 9 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Lý Kinh Nghĩa: Mão Mùi hội cục, để sinh Đinh hỏa, Ấn vượng dụng Tài làm chính cách, nguyệt lệnh Quan tinh gặp Dương nhận cung Ngọ, Quan Nhận tương chế, làm phụ cách. Phú nói rằng: Tháng Nhận ngày Nhận và giờ Nhận, gặp Quan Sát thì quang vinh tháo vát, công danh cái thế, vận nhập Tài hương, nắm khuê phòng khai phủ ( ND: Ý nói lấy đươc vợ quý mà còn mở phủ riêng của mình), quý mà kiêm phú.

Nhâm Tuất, Quý Mão, Mậu Thìn, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 15 tháng 2 năm đầu đời vua Đồng Trị.
Mênh Lao Sùng Quang: Bính Quý đều thấu. Xuất thân tiến sĩ, vị đến Tổng đốc.

Tân Mão, Tân Mão, Mậu Tuất, Nhâm Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 4 tháng 2 năm 17 đời vua Quang Tự.
Mệnh Vạn Diệu Hoàng: Trước có nói đến mệnh tạo của Đồ Liên Quy. Hai Đinh cùng thấu, dụng Tài phá Ấn sinh Sát. Tứ trụ này hai Tân xuất can, cũng dụng Tài hóa Thương sinh Sát, khí tạp không thanh. Vị đến sư đoàn trưởng.

Bính Ngọ, Tân Mão, Mậu Dần, Giáp Dần.
Giờ Dần ngày 11 tháng 3 năm thứ 22 đời vua Quang Tự
Mệnh người cháu của Từ Triệu Hòa: Giáp Bính xuất can, Dần Ngọ hội cục, chỉ tiếc không có Nhâm Quý nhuận trạch, Bính Tân hợp nhất làm Bệnh, Tứ trụ khí vượng, tính tình quả cảm có triển vọng. Địa vị trong xã hội không đến múc không tương xứng.

Quý Tị, Ất Mão, Mậu Thân, Mậu Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 24 tháng Giêng năm thứ 19 đời vua Quang Tự.
Mênh Bạch Sùng Hi: Thân Ngọ kẹp Mùi, ám củng Mùi quý, Quý quý tại Tị, Ất quý tại Thân, Thiên can bốn chữ đều lâm Lộc quý. Mậu thổ tháng 2, mừng thủy hỏa sinh phù, Quan tinh Ất Mão đương vượng, lấy Tài sinh Quan làm dụng, lại được sự quý của Tam Thai Mão Tị Ngọ, Ất mộc đương lệnh đắc dụng, đương nhiên là tôn sư đứng đầu, là lãnh tụ của vùng Tây Nam ( Tây Nam: chỉ vùng Tây Nam, Trung Quốc, bao gồm Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Tây Tạng.).

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Ví dụ về Mậu thổ sinh vào tháng 3

Kỷ Mùi, Mậu Thìn, Mậu Dần, Giáp Dần.
Sát Ấn tương sinh. Thám Hoa, ( Thám hoa; học vị dưới trạng nguyên và bảng nhãn, thời xưa).

Giáp Ngọ, Mậu Thìn, Mậu Thân, Bính Thìn.
Mênh tạo này là của Thanh thánh tổ Khang Hi vậy:
Tài sinh Sát nhược lấy làm dụng, có thể nói là giờ Mậu Ngọ, kẹp quý kẹp Lộc, càng thêm hoàn mỹ. Các mệnh tạo trên lấy trong Sách Tạo Hóa Nguyên Thược.

Canh Thân, Canh Thìn, Mậu Thìn, Mậu Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 27 tháng 3 năm thứ 5 đời vua Càn Long.
Mệnh Đổng Văn Cung: Thìn Ngọ kẹp Tị Lộc, chuyên dụng Nhâm thủy cung Thân, được Canh kim tương sinh, bề ngoài giống như Thương quan sinh Tài, thực tế là Ấn vượng dụng Tài vậy.

Kỷ Mùi, Đinh Mão, Mậu Ngọ, Nhâm Tý.
Sinh giờ Tý ngày 17 tháng 2 năm thứ 9 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Lý Kinh Ngĩa: Tài Ấn giao sai dụng Quan, Mậu Ngọ Nhâm Tý qua lại tương hợp, quý khí lui tới, vận hành đất Tài Quan vượng, cưới vợ hiền mà còn lập phủ.

Quý Hợi, Bính Thìn, Mậu Ngọ, Nhâm Tý.
Sinh giờ Tý ngày 12 tháng 3 năm thứ 2 đời vua Đồng Trị.
Mênh Đơn Mậu Khiêm: Bính Quý cùng thấu, xuất thân hàn lâm, được tấn phong chức Quan Đại học sĩ.

Kỷ Tị, Mậu Thìn, Mậu Tý, Quý Hợi.
Sinh giờ Hợi ngày 16 tháng 3 năm thứ 8 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Vương Thiện Thuyên: Quý thủy thấu can, Giáp Bính tàng chi, tháng 3 thổ trọng, không thể không lấy Giáp mộc khai thông thổ. Vận trình dẫn xuất có thể nói ràng vận trình thẳng tiến.

Đinh Sửu, Giáp Thìn, Mậu Dần, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn nhày 22 tháng 3 năm thứ 3 đời vua Quang Tự.
Mệnh Trần Phù: Giáp Bính xuất can, Quý thủy tàng chi, dụng Tài sinh Sát làm dụng. Vị đến Bộ trưởng. ( Bộ trưởng:chức quan cao nhất trong chính phủ quân phiệt Bắc Dương, Trung Quốc). Nguyên đán năm Mão vận Tuất, bị ám sát mất mạng.

Quý Mùi, Bính Thìn, Mậu Thân, Đinh Tị.
Sinh giờ Tỵ ngày 28 tháng 3 năm thứ 9 đời vua Quang Tự.
Mệnh Giang Tinh Vệ: Quy Lộc cách, lại gặp Lộc Mã đồng hương ( cùng một chỗ ). Mậu Lộc tại Tị, năm Mùi Dịch Mã cũng ở Tỵ. Tháng 3 Mậu thổ, gặp Bính Quý cùng thấu. Ban ngày có nắng có mưa tưới nhuần, vạn vật được đua nhau sinh trưởng, cho nên Bính Quý đều dụng, Bính Lộc tại Tị, Thiên Ất của Quý cũng tại Tị, hội tụ đầy đủ mà đẹp đẽ, bản thân thành đại quý. Thìn Tỵ cung Tốn, Mùi Thân cung Khôn, củng kẹp Ly cung Ngọ hỏa, mà Đinh hỏa xuất can, Thần rút cuộc khí tụ. Thời trẻ hành Ất Mão Giáp Dần vận Quan Sát phá cách, năm Tân Hợi vận Dần âm mưu ám sát thay quyền, mấy lần họa bị sát thân, đến vận Tý xung động cung Ngọ, trấn thủ trung khu, vị đến Viện trưởng Viện hành chính, năm Mậu Dần vận Hợi bị ép rời khỏi vị trị, năm Tân Tỵ găp phong ba.

Canh Tuất, Canh Thìn, Mậu Ngọ, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 14 tháng 3 năm 2 đời vua Tuyên Thống.
Mệnh Ngô Triệu Niên: Dụng Canh kim tiết thổ khí, Bính hỏa xuất can, Dụng thần bị thương. Năm Đinh sửu tháng 9 năm thứ 26 đời Dân Quốc, chết bởi phục dịch cho Công ty Tiên Thi do bom nổ, năm 28 tuổi.

Giáp Dần, Mậu Thìn, Mậu Thìn, Giáp Dần.
Sinh giờ Dần ngày 17 tháng giêng năm thứ 3 đời Dân Quốc.
Mệnh Chu Bảo Hà: Dần Thìn kẹp Mão, hai Giáp cùng xuất, Mậu Thìn lại phạm Hồng Diễm Đào Hoa. cho nên là mệnh nữ đào kép nổi tiếng.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Mậu thổ sinh vào tháng 4

Mậu thổ sinh vào tháng 4, dương khí phát tán ra bên ngoài, hàn khí ẩn vào bên trong, ngoài thì đầy đặn trong thì trống rỗng, không sợ hỏa viêm, không có dương khí thúc đẩy lẫn nhau, vạn vật không thể sinh trưởng, cho nên trước là dụng Giáp mộc khai thông cuốc xới, sau nữa mới chọn Bính Quý làm phò tá.

Bính Mậu sinh vào tháng 4 đắc lộc, là mùa của hỏa thổ viêm táo. Thổ dày, cho nên trước là lấy Giáp mộc khai thông cày xới, đương dịp Bính hỏa thừa vượng, đề phòng nó thiêu cháy mộc, cho nên dụng Giáp, cần lấy Quý thủy làm trợ giúp. Như Tứ trụ thủy nhiều, ẩm ướt thái quá, lại hợp với Bính hỏa hóa Sát làm dụng. Thổ dày mà trọng nặng, cần Giáp khai thông cày xới, cần trợ giúp thì chọn Quý thủy, hoặc lấy Bính hỏa cần phải xem xét sự táo thấp của thổ mà định đoạt. Tuy Tài Quan Ấn đầy đủ, khi dụng cần phải chú trọng là vậy. Bính thấu Giáp xuất ra, là nhân tài của triều đình, Bính Quý đều thấu, trí thức khoa bảng. Mặc dù thấu một vị,tàng chi mà sở dụng được, cuối cùng không phải thường dân. Mậu thổ sinh vào tháng 4, lấy Giáp Bính Quý cùng nhau làm quý, mà dụng thì đều có điểm trọng yếu, Bính thấu Giáp xuất mà Quý tàng chi, lấy Ấn hóa Sát, Bính là thần đương vượng, chân thần đắc thời đắc dụng, đương nhiên là nhân tài của triều đình. Bính Quý đều thấu, hỏa vượng lấy Quý thủy để cứu vậy. Quý thủy làm dụng. Cho nên là trí thức khoa bảng. Cho dù chỉ thấu một vị, còn lại tàng chi mà sở dụng được. Tứ trụ có Tài, Quan Ấn làm phối hợp, cuối cùng không phải thường dân vậy.

Nếu nhất phái Bính hỏa, là hỏa viêm thổ táo, tăng đạo cô bần, được một Quý thấu mà Nhâm tàng, nhất định phú quý, hoặc chi tàng một Quý chế Bính, y thực sung túc, cốt nhục vô hình.

Một bè Bính Đinh không có Nhâm Quý, là hỏa viêm thổ táo, không được Nhâm Quý giúp đỡ cứu trợ, là mệnh tăng đạo cô bần. Bởi thế Mậu thổ tháng 4, tuy Giáp Bính Quý đồng thời sử dụng, không thể không có thủy cùng phối hợp vậy. Quý thấu mà thông căn Thân Hợi nhất định quý, có một Quý tàng chi, tuy lực lượng không đủ, cũng có thể tránh được hình khắc, y thực dồi dào đầy đủ. Tài làm Thê Thiếp, hỏa thổ khô cháy, thủy không thể tồn tại, là người tu hành nghèo khổ cô đơn, cốt nhục phần đa bị hình khắc vậy. Hóa hợp thành cục mà không bị phá, phú quý không phải nhẹ. Tiếp nối đoạn văn trên. Được một Quý thấu, chi bất thông căn, hóa hợp gặp thời, cách cục không phá, phú quý không nhẹ, hóa hợp cách lấy Ấn làm dụng, mệnh hóa hỏa cần lấy Giáp mộc làm dụng. Như một tạo sau: Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị. Hóa hỏa đắc thời, là cách đại quý. Hoặc chi thành kim cục, can xuất Quý thủy, đây là kỳ cách, đúng là thổ nhuận kim sinh, không những chủ đại phú quý, mà còn kinh luân (1) trí dũng đều đầy đủ. Canh kim cung Tỵ trường sinh, ví lý do hỏa thổ viêm táo, kim khí cực suy, không thể làm dụng, gặp Sửu hội Tỵ thành cục, thấp thổ sinh kim, Canh kim liền có thể dụng, hơn nữa được Quý thủy xuất can, gọi là thổ nhuận kim sinh, thổ kim Thương quan, thể dụng đồng cung, được Quý thủy nhuận thổ, có tác dụng trở thành phản sinh, có sự kì diệu của xoay chuyển tạo hóa, khổng phải chỉ cá nhân phú quý mà thôi đâu.

Người dụng thủy, kim là thê thủy làm tử, con noi gương cha, vợ hiền mà có tài năng.

Mậu thổ tháng 4, không rời Giáp Bính Quý làm dụng, người dụng Giáp Bính thì giống tháng 3 ở trên. Hỏa thổ viêm táo, thì thủy là vật không thể thiếu, cho nên lấy thủy làm dụng, con theo nghiệp cha mà vợ hiền.

Tân Hợi, Quý Tị, Mậu Ngọ, Bính Thìn.
Hóa hợp gặp thời. Danh tiếng hiển hách châu báu đầy nhà.
Theo mệnh tạo này, trụ năm gặp Tân Hợi, Mậu Quý sao có thể hóa, chính là lấy Tỵ Hợi tương xung, Nhâm Giáp cung Hợi với Đinh Kỷ cung Ngọ tương hợp, gặp Thìn biến hóa mà thành lập, khi gặp các tháng đầu Hạ, là lúc hỏa khí đương vượng, trở thành hóa hợp gặp thời vậy.

Quý Tị, Đinh Tị, Mậu Ngọ, Đinh Tị.
Quý thủy tuy xuất ở trên Ngọ trụ năm, thiếu Giáp làm tơi thổ.
Tú tài mà thôi. Theo mệnh tạo này thì Mậu Quý cách vị, lại không gặp Thìn, cho nên không hóa, Quý thủy thông căn ở Sửu, tuy có tác dụng giải hỏa, không có Giáp thì thổ không hiệu quả, cuối cùng chỉ ở bậc tú tài mà thôi.

Kỷ Mùi, Kỷ Tị, Mậu Ngọ, Ất Mão.
Sinh giờ Mão ngày 18 tháng 4 năm thứ 9 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Thái Nãi Hoàng: Chi tụ phương Nam Tị Ngọ Mùi, có Tam Kỳ Mão Tị Ngọ, tứ trụ không có một giọt nước để giải viêm nóng, Quan tinh Ất Mão, khí tiết ở hỏa, cách thành chuyên vượng, hỏa thổ nghiêng về táo khô, lại không thích hợp gặp thủy phá dụng, đó gọi là một chén nước không thể cứu được một xe củi đang cháy, chính xác là phản kích thành họa vậy, vận hành Ất Sửu Giáp, vị đến trưởng ban tôn giáo Thượng Hải, vận Tý thôi chức, vận Quý Hợi Tỷ Kiếp tranh Tài, vận Nhâm Tuất không được chết một cách an lành.

Canh Thìn, Tân Tị, Mậu Tuất, Đinh Tị.
Sinh giờ Tỵ ngày 1 tháng 4 năm thứ 6 đời vua Quang Tự.
Mệnh Phương Bản Nhân: Canh Tân xuất can, trong Thìn ám tàng Quý Thủy, có ý là thổ nhuận sinh kim, đặc biệt kim không thành cục, Quý không xuất can, cụ thể mà trong phạm vi nhỏ, không thể lấy thành cách để luận vậy.

Chú thích: 1/ Kinh luân: tơ tằm đã được gỡ rối (ví với tài năng sắp xếp về mặt chính trị)

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Mậu thổ sinh vào tháng 5

Mậu thổ sinh vào tháng 5, hỏa viêm thổ táo, trước xem Nhâm thủy, sau mới lấy Giáp mộc, Bính hỏa cần cân nhắc khi sử dụng, dụng Quý e ràng lực của nó nhỏ.

Mậu thổ sinh vào tháng 5, không rời Nhâm Quý, hỏa viêm thổ táo, được thủy mới có sự trung hòa, sau chọn đến Giáp mộc. Có Nhâm thủy mới có thể dụng được Giáp mộc, không Nhâm thì mộc hóa thành tro, không thể dụng được vậy. Tháng 3 Thổ dày đặc, được Giáp mộc thì linh hoạt hiệu quả.

Nhâm Giáp lưỡng thấu, gọi là Quân Thần ( vua tôi) vui mừng được gặp nhau, quyền cao mà vinh hiển, hơn nữa Tân xuất niên can, Quan cư cực phẩm ( chỉ cấp quan cao nhất). Như một mệnh tạo: Tân Mùi, Giáp Ngọ, Mậu Dần, Nhâm Tý. Nhâm Giáp lưỡng thấu, Ấn vượng Sát cao, thì xuất chinh là tướng soái, nhập triều là thừa tướng, danh truyền tứ hải.

Nói như vậy là Tài sinh Sát nhược làm dụng, Nhâm thủy đến tháng Tỵ Ngọ là Tuyệt địa, được kim để sinh, là nguồn của Nhâm thủy, cách cục càng tăng thêm sự đẹp đẽ đầy đủ. Như sự chính xác của mệnh tạo Tân Mùi vậy.

Nếu chi thành hỏa cục, tuy có Quý thủy, không thể có sự cứu giúp to lớn được, một chén nước khó cứu được một xe củi đang cháy. Mệnh người phù hợp như vậy, thì hiếu học tận tụy, nhưng cuối cùng vẫn không thành danh, trung niên lại còn có bệnh chủ về mắt. Nếu được Nhâm thủy xuất can, tuy không thấy Giáp, phú quý thanh danh đều đẹp, là người đứng đầu về tri thức văn hóa, kinh luân đầy bụng ( tài năng đầy người). Nhâm tàng, song chỉ là tú tài, Thổ xuất lại là thường nhân.

Xin trình bầy tường tận ý nghĩa về lực nhỏ bé của Quý thủy. Như mệnh tạo Tân Mùi ở trên, Dần Ngọ hội cục, nếu như có Quý thủy mà không có Nhâm thủy, giọt nước nhỏ bị sắc cho cạn. Mặc dù không thành danh, thủy chủ về mắt, sấy khô Quý thủy, cho nên chủ bệnh về mắt. Như vậy Bính hỏa với tháng 5, hỏa thổ vượng mà gặp một hai Quý thủy, cũng cùng một lý vậy. Nếu gặp thủy Nhâm chảy dài, thì không phải luận như vậy, càng có ích khí lấy kim cung Thân đắc lộc, nhất định phú quý kiêm toàn. Ấn vượng dụng Tài tổn Ấn, không nhất thiếu cần Giáp mộc gặp thổ xuất chế Nhâm. Chỉ là nhân vật bình thường.

Lại có thể mộc hỏa trọng nặng, hoàn toàn không một giọt nước nào, cũng chỉ là hạng người tăng đạo mà cô bần. Kết hợp với đoạn văn tên.

Nhưng trong đó có hai loại biến cách không thể không biết: Môt là: Thổ nhiều gặp kim tiết tú, đại phú quý, chi tàng một hai Quý thủy để phối hợp, những loại cách cục này phần nhiều là sinh vào tháng 6. Hai là: Mộc nhiều mà không có thủy, hỏa vượng mộc thiêu, phản trợ thổ vượng, hỏa thổ khí thế thuần chất, không phải không quý vậy, chỉ sợ Dương nhận đảo qua ( trở giáo), mà không có được cái chết an lành vậy.

Người dụng Nhâm, kim là vợ thủy làm con.

Dụng Giáp Bính Quý, đã nói rõ ở tháng 3 và tháng 4. Cho nên chỉ nói dụng Nhâm, Nhâm thủy chế hỏa nhuận thổ, phù hợp với yêu cầu, cho nên vợ hiền mà con noi gương cha vậy.

Các mệnh tạo lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Đinh Sửu, Bính Ngọ, Mậu Dần, Bính Thìn.
Dụng Quý thủy trong Sửu Thìn, phá sự sấy khô của hỏa thổ, tàn tật mà mắt lồi, chỉ là một người bình thường mà thôi.

Tân Hợi, Giáp Ngọ, Mậu Tý, Kỷ Mùi.
Sinh giờ Mùi ngày 14 tháng 5 năm thứ 56 đời vua Càn Long.
Mệnh Ông Văn Đoan: Dụng Nhâm thủy cung Hợi sinh Giáp mộc, Tân kim xuất can, là nguồn của thủy, chức vị đến Đại học sĩ.

Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Mậu Ngọ, Mậu Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 25 tháng 5 năm thứ 9 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Viên Hải Quan: Mậu Quý hóa hỏa cách, Mậu Tý trên dưới tương hợp, vận hành phương Đông, chức vị đến Quan Tổng đốc.

Kỷ Mùi, Canh Ngọ, Mậu Tuất, Nhâm Tý.
Sinh giờ Tý ngày 29 tháng 5 năm thứ 9 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Trình Bích Quang: Ngọ Tuất hội cục, đắc Nhâm thủy xuất can, hơn nữa có Canh kim sinh, dụng Tài phá Ấn, tuy không thấy Thân, chính xác là nổi tiếng phú quý tuyệt trần. Chức vị đến bộ trưởng Hải quân.

Kỷ Mão, Canh Ngọ, Mậu Dần, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 5 tháng 5 năm thứ 5 đời vua Quang Tự.
Mệnh Tưởng Tích Hầu: Ủy viên trưởng họ Tưởng là anh trai cùng cha khác mẹ vậy, Mậu thổ sinh tháng Ngọ, không thể không có thủy, Tứ trụ này có Dần Mão Thìn đầy đủ, Sát Ấn lưỡng vượng, Dương nhận Kỷ thổ xuất can, chỉ chọn Canh kim hóa Nhận sinh Tài, Tài ở trụ giờ lâm khố, được khí hồi quang phản chiếu, đại vận Ất Sửu cũng chỉ được mười năm cuối đời mà thôi. Kỷ thổ Lâm Quan đương vượng, Anh do em mà quý. Năm Mậu Tuất đời thứ 17 thời kỳ Dân Quốc, nhậm chức Giám đốc Hải quan tỉnh Chiết Giang, năm Bính Tý kết thúc nhiệm kỳ lúc 58 tuổi.

Đinh Sửu, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Giáp Dần.
Sinh giờ Dần ngày 4 tháng 5 năm thứ 3 đời vua Quang Tự.
Mệnh Trương Tiếu Lâm: Ấn vượng Sát cao, mộc hỏa tự thiêu, Tứ trụ vô Tài, Thất sát trợ Nhận và không chế Nhận, chỉ sợ rằng Dương nhận đảo qua, kết cục là cuối tháng 7 năm Canh Thìn vận Tý bị đánh lén mà mất mạng. Thọ 64 tuổi.

Giáp Thân, Canh Ngọ, Mậu Tuất, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 24 tháng 5 năm thứ 10 đời vua Quang Tự.
Mệnh Tịch Lộc Sênh: Dụng thủy trường sinh ở cung Thân, Giáp mộc bị thương mà vô dụng, dụng Nhâm thủy phá Ấn nhuận thổ sinh kim, cho nên làm phú cách mà không quý, Thân kim ở chi năm, giàu có mà được che chở phù hộ. Khôi Cương gặp xung, vận Tuất bị ám sát mà mất mạng.

Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Mậu Ngọ, Mậu Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 6 tháng 5 năm thứ 24 đời vua Quang Tự.
Mệnh Trương Hâm Hải: Dương nhận hóa Ấn cách.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Mậu thổ sinh vào tháng 6

Mậu thổ sinh vào tháng 6, gặp vào mùa Hạ là quá khô khát, trước xem Quý thủy, sau thì dụng Bính hỏa Giáp mộc.

Mậu thổ sinh vào tháng 6, trước sau nửa tháng không giống nhau, trước tiết Đại thử thì luận giống tháng 5, nhất định phải dụng Nhâm Quý, sau tiết Đại thử, kim thủy tiến khí, tam phục ( mùa nóng ) sinh hàn, nếu nguyên cục gặp kim thủy nhiều, thích hợp với dụng Bính hỏa. Thổ vượng nắm quyền, thì cần Giáp khai thông cày xới, nhưng mà dụng Giáp mộc, không thể vô Quý, nếu không thì đối kháng với thổ mà cháy khét nứt nẻ, bản tính của mộc là tự đốt cháy, cho nên lấy Quý là lựa chọn đầu tiên, không có Quý mà có Nhâm thủy, tuy không bằng sự nhuận ướt của mưa móc ( Quý) thì cũng được cái hiệu dụng của nước sông hồ ( Nhâm) tưới tiêu đồng ruộng thì đương nhiên cũng khả dụng vậy. Được Giáp Quý Bính cùng thấu,nhất định có khoa bảng, cho dù phong thổ bất cập, cũng chủ Cống giám tú tài. Hoặc có Quý không có Bính, gặp được Giáp có thể được Tú tài, không thấy Giáp, cũng chỉ giàu có thoảng qua. Hoặc có Bính mà vô Quý, theo con đường tri thức văn hóa thì y lộc tương đối. Hoặc Quý thấu Tân xuất là một người viết đơn kiện cáo lão luyện, có thể có mưu kế (kế hoạch, mưu đồ) theo con đường lạ lùng nào đó, có phú quý cũng chỉ thoảng qua mà thôi.

Không có Quý Tân và Bính là người bình thường. Nếu lại không có Giáp, bần tiệnchớ đừng nói chuyện đến vợ con.

Giáp Quý Bính đồng loạt cùng thấu, dụng Tài sinh Sát, mà lấy Bính hỏa để phối hợp vậy, sự phối hợp hoàn mĩ đó, là nguyên nhân của người đạt được khoa bảng vậy. Quý Giáp cùng thấu mà không có Bính, dụng Tài sinh Sát, cũng đáng đạt được quý. Nếu như không có Giáp mộc, chuyên dụng Tài tinh, chỉ có thể đạt được sự giàu có, mà không thể có được quý hiển. Quý thấu Tân xuất, thì lấy Thương quan sinh Tài làm dụng, có thể tiến thân theo một con đường khác lạ nào đó, trong phú đạt được quý. Dụng Quý thì Tân kim làm vợ, dụng Bính thì Giáp mộc làm vợ, kim thủy mộc hỏa đều không, chớ đừng hỏi đến chuyện vợ con.

Hoặc thổ nhiều, được một Giáp xuất can, không có Canh là có phong cách làm việc hiên nghang, trung hậu mà thành thực kiên định. Háo danh háo lợi, tức là không có tiếng tăm lừng lẫy, những cũng là người hào kiệt.

Tháng 6 thổ vượng nắm quyền, được Giáp xuất can, duy nhất thấu một Sát, không gặp Canh Tân khắc chế, nhất định là người có thành tựu, nhưng phải có Tài tinh Nhâm Quý sinh dưỡng bồi đắp mới có danh vọng tiếng tăm lừng lẫy. Nếu có Giáp mà không có Quý chỉ hư danh hư lợi mà thôi.

Người dụng Quý thì Kim làm vợ thủy làm con, người dụng Bính thì mộc làm vợ hỏa làm con, người dụng Giáp thì thủy làm vợ mộc làm con.

Mậu thổ sinh vào tháng 6, Quý Bính Giáp đều có thể làm dụng, hỏa nhiều dụng thổ, thồ trọng dụng Quý, thủy nhiều dụng Bính.

Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Mậu Thìn, Quý Sửu.
Giá sắc cách đều hợp tình hợp lý một cách chân thật.
Theo mệnh tạo này, Giá sắc cách cần phải dụng kim, thủy nhuận kim sinh, là mệnh phú quý, dụng thủy dụng hỏa, đều không phải thượng cách.

Mậu Thân, Kỷ Mùi, Mậu Ngọ, Tân Dậu.
Giá sắc cách, hỏa là Bệnh, thủy là dược, thời thanh thiếu niên đã là trùm băng cướp của thiên hạ, thiếu con.
Theo mệnh tạo này cũng là Giá sắc cách, Tân kim kết cục, không phú cũng quý. Ba vị ở ba trụ tháng ngày giờ của mệnh tạo này cùng đủ cả, Ngọ Mùi Thân Dậu liên châu ( có liên kết như vòng ngọc quý), tinh khí đoàn kết, hợp với lãnh tụ của quần hùng, Tân kim lâm Dậu, ứng với không có người nối dõi, hầu như là nguyên nhân của Ngọ phá Dậu vậy.

Kỷ Tị, Tân Mùi, Mậu Tý, Quý Sửu.
Dụng Bính hỏa trong Tỵ, bởi vì hai Quý tranh hợp, háo sắc mà không nghĩ đến ( quên đi) danh tiếng của mình, song cũng chỉ giầu có mà thôi.
Theo mênh tạo này Kim thủy khí vượng, tam phục sinh hàn, cho nên dụng Bính hỏa, Cách cục Thương quan sinh Tài, mà lấy bội Ấn làm dụng, Tài tinh theo ta, phú mà háo sắc.

Canh Tý, Quý Mùi, Mậu Tý, Đinh Tị.
Giả Thương quan cách, làm quan Tri châu trong Phủ bác (1), 5 con sớm thành đạt.
Theo mệnh tạo này, cũng là Tam phục sinh hàn, Cách cục Thương quan sinh Tài dụng Ấn, Nhật Lộc quy thời, Bính hỏa lâm ở trụ giờ, cho nên nhiều con, Mậu Quý tương hợp, tất cự phú. Các ví dụ trên lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Quý Mùi, Kỷ Mùi, Mậu Tuất, Đinh Tị.
Sinh giờ Tỵ ngày 1 tháng 6 năm thứ 3 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Đinh Nhật Xương: Mệnh tạo này có Thai nguyên Canh Tuất, Nhật Lộc quy thời, dụng Thai nguyên Canh kim. Chức vị đến Tổng đốc.

Kỷ Hợi, Tân Mùi, Mậu Dần, Ất Mão
Sinh giờ Mão ngày 14 tháng 6 năm thứ 19 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Liêu Thọ Hằng: Tam phục sinh hàn, dụng Bính hỏa cung Dần hóa Quan Sát. Quan đến Thượng thư.

Canh Tý, Quý Mùi, Mậu Dần, Nhâm Tý.
Giờ Tý ngày 20 tháng 6 năm thứ 20 đời vua Đạo Quang.
Mênh Diệp Trừng Trung: Kim thủy tiến khí, tam phục sinh hàn, dụng Bính hỏa cung Dần, Tài tinh Quý thủy không còn ( bỏ đi) cái tình ý với Mậu. Mặc dù là đại Phú, Mậu thổ lâm Dần, Ấn quy về đóng ở bên dưới, giàu do bản thân mình mà ra. Tý Dần kẹp Sửu củng quý, Mùi xung, Tý hợp, vô hình trung được quý nhân dìu dắt nâng đỡ.

Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Mậu Tuất, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 16 tháng 6 năm thứ 24 đời vua Quang Tự.
Mệnh Từ Triệu Tăng ( cháu Từ Nhạc Ngô): Giá sắc cách, chỉ tiếc không có kim thấu mà lại thấu Ấn Bính, chỉ hưởng âm phúc mà thôi, không phải là thượng cách, thời trẻ hành kim vận, cuộc sống an nhàn tự tại, vận Quý Hợi thương tổn dụng thần, năm Bính Tý tạ thế, năm 39 tuổi.

Chú Thích: 1. Phủ bác: Thời phong kiến, lập ra Phủ bác ở các vùng biên ải hoặc một vùng nào đó có tác dụng như một hang rào bảo vệ.

descriptionLuận THỔ EmptyMậu thổ sinh vào 3 tháng mùa thu

more_horiz
Mậu thổ sinh vào tháng 7

Mậu thổ sinh vào tháng 7, dương khí dần lui ( vào bên trong), hàn khí dần dần xuất hiện. Trước dụng Bính sau dụng Quý, thứ nữa mới đến Giáp mộc.

Trong bốn mùa thì thổ cư ở trung ương, vô thời mà bất vượng, ký gửi vào bốn góc, lấy tháng tứ quý làm thời chuyên vượng, lấy tháng tứ mạnh là đất gửi nhờ sinh vượng. Dựa theo hỏa sinh ở Dần, lộc ở Tỵ, hỏa vượng mà hiển ra được cái dụng của thổ. Dựa theo thủy sinh ở Thân, lộc ở Hợi, thủy vượng mà làm tiêu mất đi cái dụng của thổ. Thổ là chủ của ngũ hành, giá trị của khí ( thổ) là thâu tàng ( cất giữ), cũng dùng là thu liễm ( thu lại). Cho nên Mậu thổ sinh vào tháng 7, tuy là sinh địa, không lấy vượng luận, hỏa khí suy thoái. Từ chuyên môn là Bính trước Quý sau khi chọn dụng thần. Như thổ nhiều bị bịt lấp mà ngưng chệ, càng cần Giáp mộc để khai thông, thì khí trở lại trung hòa, thì thổ hiển lên được cái dụng của mình.

Có Bính Quý Giáp thấu là phú quý cực phẩm, Bính thấu Quý tàng, có thể đề danh nhất bảng, Nhâm thấu Bính tàng, cuối cùng trở thành nhân tài được lựa chọn, Bính Giáp lưỡng thấu, Quý thủy hội cục tàng Thìn, người có văn hóa, tri thức đứng đầu, suy xét rõ ràng thông suốt, mặc dù phong thổ bất cập, cũng không mất đi sự phú quý, uy trấn nhiều vùng. Không có Bính được Quý Giáp thấu, có độ công minh tiết tháo thanh cao, gia phú ngàn vàng, hiển đạt bằng con đường khác biệt nào đó, không có Quý Giáp là người bình thường, có Bính hỏa thì Thê tử đều toàn, vợ hiền con lối nghiệp cha, không có Quý lại không có Bính Giáp, là người vô dụng, chớ đừng hỏi chuyện vợ con.

Xin trình bày tường tận về Mậu thổ sinh vào tháng 7, không rời khỏi lý lẽ về Bính Quý Giáp, thổ sinh vào mùa Thu khí hàn, có Bính hỏa sưởi ấm thổ mà dụng được Tài Quan, mới là quý cách. Không có Bính, mặc dù có sự phối hợp thích hợp, song cũng chỉ trong phú đạt được quý mà thôi. Chia ra làm hai tiết: Tiết đầu nói về tháng có Bính đạt được quý. Tiết sau nói không có Bính đạt được phú. Tiết cuối nói đến vợ con. Quý làm vợ, Giáp làm con. Nhưng thổ mùa Thu tiết nhược, không có Bính sưởi ấm thổ, không thể đảm nhiệm được Tài Quan. Cho nên có Bính hỏa là thê tử đều toàn, đồng thời vợ lại hiền con loi gương cha, không có Bính Quý Giáp thì chớ nói đến chuyện vợ con.

Hoặc chi thành thủy cục, chớ lấy Khí mệnh tòng Tài luận (bỏ mệnh theo Tài), nên lấy Giáp tiết khí thủy. Giáp thấu thì phú quý cũng chỉ thoảng qua, nhiều tài năng mà xử thế linh hoạt khéo léo. Giáp tàng, có phúc hậu rất nhiều. Dụng thần thê tử giống với ý trước.

Thổ kí sinh ở Thân, cung Thân cũng là sinh địa của thổ, tuy khí thế hư hàn, không thể xem nhẹ lấy tòng luận, thổ thất thời không vượng, mà dụng có lúc lộ rõ ra và ẩn lấp đi, với mộc hỏa kim thủy có khác nhau vậy. Như chi thành thủy cục, dụng thần quá nhiều, cần Giáp mộc tiết khí thủy, cho nên gọi là: Dụng thần nhiều là cần tiết bớt là vậy. Xem về vợ con thì giống tháng 6. Mậu thổ dụng Quý, kim làm vợ thủy làm con, dụng Bính thì Mộc làm thê hỏa làm tử, dụng Giáp thì thủy làm vợ mộc làm con.

Nhâm Dần, Mậu Thân, Mậu Thìn, Giáp Dần.
Phủ viện ( Giám đốc bệnh viện)
Theo mệnh tạo này thì có Thân Thìn hội cục thấu Nhâm, chuyên dụng Giáp mộc tiết thủy khí, mừng có Bính Quý Giáp đều toàn, là mệnh đại quý.

Nhâm Dần, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Ngọ.
Quan Thái Thú: Dụng Quý thủy trong Thìn, Bính trong Dần trường sinh, Giáp đắc lộc, chỉ tiếc đều tàng dưới chi, cuối cùng chỉ là Quan chi phủ.

Tân Dậu, Bính Thân, Mậu Tí, Bính Thìn.
Câu Trần đắc vị, dụng Bính hỏa trên trụ giờ, là mệnh Thiên sư (1)
Theo mệnh này có Thân Tí Thìn hội thành thủy cục, Tài vượng dụng Ấn, mừng là chúng không làm trở ngại lẫn nhau, Bính hỏa can tháng hợp Tân, làm mất đi cái hiệu dụng của nó ( Bính hỏa trụ tháng), chuyên dụng Bính hỏa trên trụ giờ.

Kỷ Dậu, Nhâm Thân, Mậu Thân, Nhâm Tí.
Công danh giả tạo, chính xác là phú ông, bởi thế ngũ hành chỉ có 3, bởi vậy mà có một thê hai thiếp mà không có con.
Theo tạo trên thì có Tý Thân Thìn hội cục, hai Nhâm thấu tử ( con), Tài vượng mà Quan Ấn đều không, chỉ giàu mà thôi. Tài nhiều cho nên nhiều Thê Thiếp, mừng được hành phương Tỷ Kiếp vận, bổ cho cái khuyết của thân nhược, bằng không phú cũng không thật.

Canh Dần, Giáp Thân, Mậu Dần, Quý Sửu.
Quý Giáp thấu thiên can, Bính hỏa tàng chi, chỉ tiếc Canh lại khắc Giáp, dừng lại ở Tú Tài, trước giầu sau nghèo con cái đông.

Canh Dần, Giáp Thân, Mậu Dần, Đinh Tị.
Nữ mệnh, thiên khắc địa xung, phu tinh khứ sạch, liên sát 7 chồng. Nguyên nhân bởi Canh nhiều mộc ít vậy.

Theo hai mệnh bên trên, thiên can địa chi của các trụ năm tháng ngày giờ bị khắc, đều không phải là mệnh đẹp, mệnh bên trên có Quý thủy thấu can, khiến Mậu mất đi cái bản chất của mình, Tài tinh khả dụng, Quý ở trụ giờ, có tượng tiên bần hậu phú. Mệnh tạo bên dưới không những Canh nhiều khắc mộc, mà còn hỏa viêm thổ táo, có đủ tam hình, thảo nào gặp nhiều hình khắc.

Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Mậu Tý, Bính Thìn.
Nhâm Bính Giáp đều thấu thiên can, địa chi lại thành thủy cục, là Quan Hàn Lâm Nội Các.
Theo mệnh tạo này gọi là chi thành thủy cục, chớ lấy tòng Tài, dùng Giáp tiết thủy khí là chuẩn xác vậy, lấy Bính thấu can. cho nên Giáp mộc khả dụng để đạt được quý hiển. Các mệnh tạo trên trích ra từ Sách tạo hóa nguyên thược.

Quý Dậu, Canh Thân, Mậu Ngọ, Giáp Dần.
Giờ Dần ngày 12 tháng 7 năm thứ 12 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Vinh Tông Kính: Giáp Quý thấu, Bính tàng, Dần Ngọ hội cục, Thân cường Ấn vượng. Giáp mộc bị Canh kim khắc, phú mà không quý. Địa chi Ngọ Thân Dậu kẹp Mùi, là quý nhân của Giáp Mậu Canh, như vậy không thể đạt được quý hiển vậy, đúng là lấy Canh khắc Thiên quan Giáp mộc, nguyên nhân là làm tổn đi quý khí của nó ( Giáp mộc) vậy, Quý thủy bị mất đi tính chất của mình do Mậu. Cho nên là nhà Công thương nghiệp lớn, (hoặc như mệnh họ Tốc Vinh sinh vào giờ Ngọ ngày 2 tháng 8, tứ trụ là: Quý Dậu, Tân Dậu, Mậu Dần, Mậu Ngọ không biết người nào là chính xác, và tham khảo thêm phần phần phụ lục).

Quý Dậu, Canh Thân, Mậu Ngọ, Bính Thìn.
Mệnh Thẩm Phổ Cầm: Bính quý cùng thấu, Thực thần vượng mà sinh Tài, chuyên dụng Bính hỏa, trong phú đạt được quý.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Mậu thổ sinh vào tháng 8

Mậu thổ sinh vào tháng 8, kim tiết thân ( nhật chủ) hàn, dựa vào Bính chiếu rọimà được sưởi ấm, mừng thủy sinh nhuận, trước dụng Bính sau thì dụng Quý,không cần phải lấy mộc khai thông.

Tháng 8 kim thần phúc lệnh, tử vượng mẫu Suy, khí tiết lại hàn, cần dương khí của mùa thu mà hong phơi. Thổ táo không sinh, cần sự nhuận ướt của mưa móc. Cho nên trước dụng Bính sau dụng Quý để làm Dụng thần, nguyệt lệnh có kim đương vượng tiết tú khí của nó ( thổ), vì vậy không cần tái dụng Giáp mộc khai thông thổ vậy.

Bính Quý lưỡng thấu, nhất định có khoa bảng, Bính thấu Quý tàng, phú quý chỉ thoảng qua, Quý thấu Bính tàng trong phú đạt được quý. Bính thấu mà không có Quý, không quá tú tài, Quý thấu mà không có Bính, nhưng lại là người có tài năng. Bính tàng không thấu, lại không có Quý thủy, hoặc Quý nhiều không thấu, không thấy Bính hỏa, đều là thường nhân. Không Bính không Quý, là người vô dụng.

Tân kim tháng 8 không thấu ( Tân kim tàng trong Dậu không thấu can), lấy Tài Ấn cùng dụng làm chính, nguyệt lệnh Thương quan sinh Tài, Mậu thổ khí hàn, tất lấy bội ấn làm dụng vậy, Bính Quý khuyết một đều không phải là thượng cách.

Hoặc Tứ trụ đều Tân, không có Bính Đinh, đó gọi là thổ kim Thương quan, thông minh thanh nhã, đường công danh thì không thuận lợi cho đường quan văn, nhưng nhất định có lợi cho đường Quan võ, gặp được Quý thủy, phú mà lại còn quý.

Nói như vậy là không phải kim xuất can, không nên có Bính hỏa cùng thấu, đích thực là trói buộc tổn thương Dụng thần. Nhưng đồng thời không phải vì không có hỏa là quý, Bính Đinh nên tàng ở trong địa chi, sưởi ấm thổ trợ giúp thổ mà không thương hại Dụng thần, đó mới là thượng cách, hơn nữa được Quý thủy xuất can, không làm hại Bính Đinh trong địa chi, phú mà lại còn quý.

Hoặc chi thành thủy cục, Nhâm Quý xuất can, là Tài nhiều mà Thân nhược, mất gia đình ( nhà cửa) mà còn chết đói, phú ốc bần nhân, ngu muội nhu nhược mà bất tài, cả cuộc đời thô tục bủn xỉn. Nếu thiên can có Tỷ Kiếp phân tán Tài thần, có y lộc tương đối.

\Nói như thế là Tài nhiều dụng Tỷ vậy. Giữu mùa Thu kim vượng tiết khí, chỉ có bản thân thổ hư nhược, gặp chi thành thủy cục, Nhâm Quý xuất can, kim khí tận tiết cho thủy, là Tài nhiều thân nhược, chết đói trong lầu son, là kẻ phú thất bần nhân, ý nói là: Chỉ có thể là quản lý tài chính cho người khác. Nếu như bản thân có Tài, mà không thể gánh vác được, ngược lại vì Tài mà khốn đốn, vậy chỉ là kẻ ngu muội thô tục bủn xỉn. Tiết khí thái quá, tính tình bất thường, gặp Tỷ Kiếp phân tán bớt Tài, trái lại là phú cách, chỉ có điều không có vận trình trợ giúp thì không thể được.

Thổ mùa Thu sinh kim cho nên cực nhược, rất cần Bính hỏa Đinh hỏa xuất can mới diệu kì, hoặc Tân nhiều vô chế, là cách thanh quý của đời người, lý này cực nghiệm, Dụng thần vợ con giống ở phía trước.

Tổng kết đoạn văn trên, giữa mùa Thu kim vượng tiết khí thổ, Mậu thổ cực nhược, không có Bính xuất can sưởi ấm thổ, thổ không có sự sống. Nhưng Dụng thần là Thương thì không thể bị đoạt, Tân kim xuất can thì không nên có Bính Đinh cùng thấu, khí hậu giữa mùa Thu, còn chưa đến cực hàn, có hỏa tàng chi làm ấm thổ mà không chế kim, thì cũng thành cách thanh quý, Dụng thần thê tử giống ở phía trước, gọi là giống tháng 6 vậy.

Mậu Tý, Tân Dậu, Mậu Tý, Nhâm Tý.

Thiên tài cách.
Theo mệnh tạo này Tài nhiều thân nhược, không Dụng Tỷ Kiên Mậu thổ phân chia bảo vệ Tài thần thì không thể được. Giả như không phải vận Bính Dần Đinh Mão, khó đạt được sự hiển đạt, duy chỉ thế cục thanh,địa vị quyền chức tự có mà thôi.

Mậu Tý, Tân Dậu, Mậu Thân, Tân Dậu.

Hai can không tạp. Quan Tổng Binh. Theo mệnh tạo này Mậu thổ lâm Thân, tuy trường sinh không vượng, Tân nhiều mà không khắc chế, hơn nữa lại gặp Quý thủy, chính là nói hợp với thổ kim Thương quan gặp Quý. Nhưng mà phát đạt ư, cũng phải đợi đến vận Bính Đinh trợ giúp vây.

Các ví dụ trên trích từ sách Tạo hóa nguyên thược.

Đinh Hợi, Kỷ Dậu, Mậu Tý, Đinh Tị.
Sinh giờ Tỵ ngày 4 tháng 8 năm thứ 13 đời vua Quang Tự.
Mệnh Dương Dục Tú: Thương quan sinh Tài, kì diệu ở Nhật Lộc quy thời, Ấn Kiếp cùng thấu, Thân vượng đảm nhiệm được Tài, mà Tài quy tọa ở bên dưới, với nhật chủ trên dưới tương hợp, tình ý của Tài chuyên thuộc, không thể phân đoạt, phú quý kiêm toàn, phú trọng mà trong quý.

Mậu Tuất, Tân Dậu, Mậu Tuất, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 17 tháng 8 năm thứ 24 đời vua Quang Tự.
Mệnh Chu Bác Tuyền: Thổ kim Thương quan cách, Bính hỏa thấu can, hợp trói Thương quan, Thìn làm Tài khố, Tài tinh quy về khố, nhất phú cách, có 5 con trai và 8 con gái.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Mậu thổ sinh tháng 9

Tháng 9 Mậu thổ đương quyền, chọn quý thủy là rất kì diệu, không cần phải dụng Bính, lại kị Mậu với Quý hợp, trước là xem Giáp mộc, sau mới lấy Quy thủy, lại lấy Bính hỏa phối hợp với chi can ( can chi), mới trở thành thổ có được sự sinh vậy, phù hợp với lý này nhất định sẽ phát trong vận trình vậy, và nhất định sẽ có khoa bảng.

Mậu thổ sinh tháng 9, cũng không rời Giáp Quý Bính làm dụng, khi thổ vượng nắm lệnh. Không nhất thiết phải dụng Bính hỏa, trước dụng Giáp sau dụng Quý là lấy Tài sinh Sát nhược làm dụng vậy, kị Quý hợp với Mậu, chính là Tài không xuất sinh Sát, Nhật nguyên luyến Tài mà không hướng về Sát vậy, Bính hỏa làm phối hợp, hỏa ấm thổ nhuận, mới trở thành thổ có được sự sinh vậy, hợp với lý này đương nhiên trở thành quý cách.

Hoặc không có Bính mà có Quý, không thấy Giáp mộc xuất can, có y Lộc mà giàu có nhỏ, có Giáp mà không có Quý Bính, có ý lộc mà lại là người tài năng, có Bính Quý mà không có Giáp thì bần hàn. Quý Giáp đều không, tuy có Bính hỏa, cũng y lộc nhưng cuộc sống vô nghĩa, không phải nhà sư thì cũng là đạo sĩ, cả cuộc đời cũng chỉ có cuộc sống dựa vào người khác.

Không có Bính Giáp mà có Quý, chuyên lấy Tài tinh làm dụng, Mậu Quý tương hợp, Tài đến với ta, cho nên nói có y lộc nhưng tiểu phú. Có Giáp mà không có Quý Bính, Sát cô độc mà không có hỗ trợ, danh lợi đều hư, y lộc không thiếu mà thôi. Có Bính Quý mà vô Giáp, Tài Ấn giao sai ( đan chéo chênh lệch), Mậu thổ được hỏa mà khô táo, có thêm một giọt nước cũng không đủ để cứu, là mệnh bần hàn. Nếu như không có Quý Giáp mà có Bính hỏa, thì thổ không có sức sống, Tài Quan đều khuyết, nhất định không có con nối dõi. Vượng khí đến thân mà dừng, cho nên nói không phải nhà sư thì cũng là đạo sĩ, chỉ có thể có cuộc sống dự vào người khác vậy.

Hoặc chi thành thủy cục, Nhâm Quý thấu can, dụng Mậu thổ ngăn cản dòng chảy của thủy, có Tỷ thấu ngược lại chủ giàu có.

Mậu thổ sinh vào tháng 9, nhật nguyên nắm lệnh mà vượng. Cho nên Tài vượng thành cục, Nhâm thủy thấu can, nhất định là phú cách, Tài thái vượng thích hợp với Tỷ Kiếp trợ giúp, Tài vượng dụng Kiếp là chính xác vậy.

Chi thành hỏa cục, gọi là thổ táo thì không phát, được kim thủy cùng thấu, người này sẽ thanh cao, có thể có phú quý sơ qua. Không có thủy cuộc đời khốn khổ, thê tử giống như ở trước.

Chi thành hỏa cục, là hỏa viêm thổ táo, giống với đoạn văn trên Quý Giáp hoàn toàn không có mà có Bính hỏa, là mệnh tăng đạo nghèo khổ. Nếu như không có Quý Giáp mà gặp kim thủy, lấy thủy chế hỏa nhuận thổ, lấy kim tiết sự cố chấp ( ngoan cố) của thổ, thổ kim Thương quan, tính tất thanh cao. Thương quan sinh Tài, cũng có thể có phú quý. Cho nên điều trọng yếu là nằm ở thủy, có tác dụng là nhuận thổ chế hỏa. Không có việc cứu tế, nguyên do là không có thủy thì cuộc đời khốn khổ. Một lần nữa trở lại vấn đề chi thành hỏa cục, hoặc toàn là phương Nam, tức ( Mậu thổ) ở tháng 4 tháng 5, vẫn còn có thể thành cách tòng vượng. Đặc biệt là Dương nhận làm thương tổn thân, sau đó thì không thể được tốt lành. Nếu như tháng 9 không thấy năng lực của nó ( hỏa) phát ra, đó là lý do tháng Tuất hỏa khí nhập khố, ánh chói sáng không đủ, không có kim thủy hoặc thủy mộc tương trợ, không thể thành cách vậy. Vợ con đều xem giống tháng 6.

Kỷ Dậu, Giáp Tuất, Mậu Thìn, Bính Thìn.
Bính Giáp xuất can, hai Thìn tàng Quý, ghi danh hai bảng (ý chỉ con người thi cử rất đỗ đạt).
Theo mệnh tạo này có Giáp Ất nhất hợp, trói buộc dụng thần là bệnh, nếu không thì địa vị năm giữ không chỉ dừng ở đây.

Đinh Hợi, Canh Tuất, Mậu Tuất, Quý Sửu.
Cống sĩ đại quý.
Theo mệnh tạo này thì chọn Quý thủy, Thương quan sinh Tài, phú cách.

Đinh Dậu, Canh Tuất, Mậu Dần, Ất Mão.
Tay trắng mà làm rạng danh gia đình, đại phú.
Theo mệnh tạo này Ất mộc Quan tinh, không có Tài để trợ giúp ( Quan tinh), lại thấy Canh kim xuất can, Quan tinh bị thương, mừng có Đinh hỏa chế Canh để cứu, hành vận phương Nam, không có Tài sinh Quan, phú mà không quý vậy.

Bính Tuất, Mậu Tuất, Mậu Dần, Nhâm Tý.
Bính Quý Giáp đều toàn, chỉ tiếc Mùi ( Mậu) xuất can, chỉ là một Cống sinh.
Theo mệnh tạo này cũng là phú cách, Dần Tuất hội hợp, Sát Ấn tương sinh, chuyên dụng Tài tinh, không lấy Tài sinh Sát nhược luận, chỉ tiếc Tỷ Kiên xuất can tranh Tài, nếu được vận trợ giúp là đẹp.

Bính Tý, Mậu Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Mùi.
Cách mãnh hổ tuần sơn, Làm quan đến Thiếu Bảo (chức quan thuộc hàng tam cô thời xưa bao gồm: thiếu sư, thiếu phó; thiếu bảo).
Theo tứ trụ này là Giá sắc cách, chính là biến cục vậy, sinh ở tháng 9, được hỏa là quý, Tý Thìn diêu hợp (hợp xa), Mậu thổ không táo, Tý có Bính hỏa, thủy hỏa vừa có cứu giúp, thỏa nào đại quý, phúc trạch dày. Nếu như cách Mãnh hổ tuần sơn, thì chính xác phải là năm Bính Dần, không phải năm Bính Ty vậy.

Canh Dần, Bính Tuất, Mậu Tý, Quý Sửu.
Quan Thị lang.
Theo mệnh tạo này có thổ trọng mà thiếu Giáp, Tỷ Kiếp tranh Tài, nên người này cô khổ. Những ví dụ trên lấy trong sách Tạo hóa Nguyên thược.

Quý Mùi, Nhâm Tuất, Mậu Tuất, Ất Mão.
Sinh giờ Mão ngày 3 tháng 10 năm thứ 3 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Nghê Văn Úy: Cho là giờ Dần, xuất thân tiến sĩ, chức vị đến tuần phủ. Nếu như giờ Ất Mão, sẽ không có địa vị này vậy.

Canh Tý, Bính Tuất, Mậu Thân, Nhâm Tý.
Sinh giờ Tý ngày 21 tháng 9 năm thứ 20 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Dịch Nhượng (hoàng thân trong sáng): Cha của hoàng đế Quang Tự. Tuy cha lấy con làm quý, sở dĩ là ngưởi hưởng thụ những vẫn là phúc của Bính hỏa che chở phù hộ. Năm Tân Mão đời vua Quang Tự thì tạ thế, năm 51 tuổi.

Giáp Thìn, Giáp Tuất, Mậu Tý, Giáp Dần.
Giờ Thìn ngày 24 tháng 9 năm thứ 24 đời vua Quang Tự.
Mệnh Thịnh Tuyên Hoài: Giáp thấu Quý tàng, Bính hỏa tàng Dần làm phối hợp. Chức vị đến Thượng thư Bộ bưu phó ( tương đương như Bưu Điện ngày này), Tài quy tọa ở dưới, đại phú.

Canh Thìn, Bính Tuất, Mậu Tuất, Tân Dậu.
Sinh giờ Dậu ngày 3 tháng 10 năm thứ 6 đời vua Quang Tự.
Mệnh Hạ Siêu: Thổ kim Thương quan bội Ấn, trưởng phòng Cảnh Sát, vận Tân Mão, trở giáo ( phản bội) mà bị giết.

Quý Mùi, Nhâm Tuất, Mậu Tý, Giáp Dần.
Sinh giờ Dần ngày 11 tháng 9 năm thứ 9 đời vua Quang Tự.
Mệnh Nhạc Duy Tuấn: Quý Giáp xuất can, Bính hỏa tàng Dần làm phối hợp, là mệnh đại phú đại quý, chức vị đến chủ nhiệm phòng Bình Định.

Kỷ Hợi, Giáp Tuất, Mậu Dần, Bính Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 4 tháng 10 năm thứ 25 đời vua Quang Tự.
Mệnh Tạ Dung: Giáp thấu Quý tàng chi, hơn nữa có Bính hỏa cung Dần làm phối hợp, chỉ tiếc Giáp Kỉ nhất hợp, lực khai thông thổ bị trói buộc, mệnh phú quý không lớn.

Chú thích:
1. Thiên Sư: Thiên sư là tôn xưng mà hoàng đế Hiên Viên (vua diệt giặc Xi Vưu) gọi một cách tôn kính đối với sư phụ Kì Bá thủy tổ của đạo giáo. Đời sau người có đạo đều gọi là Thiên sư. Như thời Đông Hán có Cát Huyền Thiên Sư, Đời Đông Tấn có Hứa Tốn Thiên sư, thời Bắc Ngụy có Khấu Khiêm Thiên sư, Đời Đường có Đỗ Quang Đường, đời Tống có Tát Thủ Khiêm.... những người này đều thuộc hạng cao đạo đại đức.

descriptionLuận THỔ EmptyMậu thổ sinh vào 3 tháng mùa đông

more_horiz
Mậu thổ sinh vào tháng 10

Mậu thổ sinh vào tháng 10, đương dịp tiểu Dương, Dương khí phát ra rất ít, trước dùng Giáp mộc, sau lấy Bính hỏa, không có Giáp thì thổ không linh hoạt ( tơi xốp), không có Bính thì thổ không ấm áp, như vậy thì lẽ nào ( Thổ) có thể sản sinh ra vạn vật được.

Mậu thổ vừa dày vừa nặng, không dùng Gáp mộc khai thông phân tán, thì thổ không tơi xốp. Đông lệnh ( thời tiết mùa Đông) thâu tàng, không dùng Bính hỏa hâm nóng, thì Thổ không được sưởi ấm, Mậu thổ tháng 10, chuyên dụng Giáp Bính mà không sinh Quý, bởi do Nhâm thủy cung Hợi đắc lộc vậy.

Giáp Bính cùng xuất, nhất định có khoa bảng, hoặc Giáp tọa Trường Sinh, thủy cư đất Lộc, hơn nữa một Bính cao thấu, cũng nhất định có chức vụ mà được rạng danh, chi gặp Canh nhiều, không quá Tú tài, Canh nhiều thì phá Giáp, là người bình thường.


Hàn thổ tháng 10 lấy Bính hỏa làm trọng yếu, thổ nhiều mà được sưởi ấm, thì mới dụng đến Giáp mộc. Nguyệt lệnh là Tài tinh cung Hợi nắm lệnh, tự có thể sinh Quan. Nếu như Giáp mốc không xuất can, chuyên dụng Bính hỏa, cũng là quý cách vậy. Chi gặp Canh nhiều là Thân kim vậy, không thương tổn Quan tinh, không mất y khâm ( những người đỗ tú tài). Mệnh có Thương quan tinh là người bình thường.

Tứ trụ không có Canh, cần phải có Giáp mộc tàng trong cung Hợi, nhưng có Bính hỏa cao thấu, cũng chủ khoa Giáp, hoặc có Canh kim, lại có Đinh hỏa phá, thì chủ quyền vị đều thông suốt, là người viết đơn ( đao bút) một cách rất đặc biệt.

Tiếp nối đoạn văn trên, mà nói Canh nhiều phá Giáp, Tứ trụ vô Canh chế Giáp, thì nhất định có khoa giáp, có Canh tức là không hiển đạt, hoặc có Canh mà lại có Đinh chế, cũng chủ có công danh theo một con đường khác biệt nào đó.

Hoặc không gặp Canh Đinh, tuy Giáp Bính đều tàng dưới chi, Dụng thần thanh trong nhất, cũng chủ phú quý. Hai can Bính Giáp gặp cản trở, là hạ cách, không có Bính tăng đạo cô bần.

Tiếp nối đoạn văn trên, Mậu thổ tháng 10, lấy Giáp Bính làm Dụng thần chủ yếu, lấy Đinh chế Canh, không có Canh Đinh cũng không sử dụng được, chuyên chọn Bính Giáp, dù cho Bính Giáp đều tàng, cũng không mất đi sự phú quý. Hai can Bính Giáp gặp trở ngại, có Nhâm cản trở Bính, có Canh cản trở Giáp, chính là Canh nhiều phá Giáp giống ở đoạn trên vậy, là người bình thương. Có Nhâm gây cản trở Bính, Dụng thần tuy bị thương, nhưng vẫn có tác dụng với Bính hỏa. Nếu như không có Bính càng là hạ cách.

Nhâm thấu được Mậu cứu Bính,chủ trong phú đạt được quý.

Tiếp theo đoạn văn trên Nhâm xuất gây cản trở Bính mà nói, Canh xuất gây cản trở Giáp cần phải có Đinh hỏa xuất can để cứu. Nhâm xuất gây cản trở Bính cần có Mậu thổ xuất can để cứu. Nhâm làm Thiên Tài, chủ trong phú đạt được Quý.

Nhâm Thân, Tân Hợi, Mậu Dần, Canh Thân.
Gọi là hợp Lộc cách, chức vị đến Phủ doãn, bởi dưới 4 chi đều là sinh địa, cho nên vận gặp Đông Nam, đại quý.
Theo Hỉ kỵ thiên nói: giờ Canh Thân gặp Ngày Mậu, gọi là phương của Thực thần vượng, năm tháng phạm Giáp Bính Mão Dần, đây chính là gặp mà lại không gặp. Cho nên ngày Mậu gặp giờ Canh Thân, gọi là chuyên (chỉ) Thực hợp lộc cách, lấy Thân hợp Tỵ là lộc của Mậu, Dần hình Tị, Hợi xung Tị, hư thần của toàn cục tập trung vào Tỵ Lộc, Mậu thổ không vượng, vận đến phương Đông Nam, hỏa thổ đắc địa mà phát vậy.

Nhâm Thân, Tân Hợi, Mậu Thìn, Ất Mão.
Trung hậu, có con nhưng con không tồn tại, lý do là bởi Ất Mão phá bại vậy.
Theo mệnh tạo này Ất Mão mộc không có tác dụng khai thông thổ, cho nên chủ trung hậu, Quan tinh là con, Tân kim khắc, Mậu sinh ở Dần, đến Mão là nơi Mộc dục phá bại, cho nên có con mà không thể sinh tồn vậy.

Kỷ Hợi, Ất Hợi, Mậu Tý, Nhâm Tuất.
Thiên tài cách, vận hành đất hỏa mới phát.
Theo mệnh tạo này, Nhâm thủy xuất can, Thiên Tài thái vượng, Mậu thổ chỉ trông cậy vào sự thông căn ở cung Tuất chi giờ, giờ là chỉ giai đoạn cuối của mệnh cục, cho nên vận cuối mới đẹp vậy. Hỏa địa là đất Mậu thổ sinh vượng, sau trung niên, vận hành phương Nam, Ấn Tỷ bang thân, phân tán Tài thần, thảo nào phát đạt, nhưng giầu mà không quý, người giầu có thì tự có địa vị tương đương thôi.

Kỷ Dậu, Ất Hợi, Mậu Tuất, Bính Thìn
Ghi danh hai bảng.

Ất Mão, Đinh Hợi, Mậu Tuất, Bính Thìn
Ghi danh hai bảng.

Theo hai mệnh tạo trên, Giáp tàng Bính thâu, gọi là Giáp tọa trường sinh, Nhâm cư Sát địa, một Bính cao thấu, tất nhiên được chức vụ mà rạng danh là vậy.

Quý Mão, Quý Hợi, Mậu Thìn, Mậu Ngọ.
Dương nhận giá Sát cách, Quan Phủ doãn.
Theo mệnh tạo này Giáp tàng không có Bính, may mà có Dương nhận ở trụ giờ, hai Mậu hai Quý ám hợp, thảo nào là bậc tôn quý của Quận hầu (tương đương với quan Thái thú). Các ví dụ trên lấy trong Sách tạo hóa nguyên thược.

Đinh Mão, Tân Hợi, Mậu Ngọ, Nhâm Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 9 tháng 11 năm thứ 6 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Vương Nhất Đình: Nhâm thủy cung Hợi đắc lộc, Tài thông môn hộ ( nguyệt lệnh là môn hộ), lại có Tân kim tương sinh, nhật nguyên Mậu thổ, chi lâm Ngọ Tuất hội cục, Thân vượng đảm nhiệm được Tài, sớm niên đã hành vận phương Tây, lấy thân phát Tài. Sau trung niên, nhất phái Ấn vận phương Nam, theo công việc từ thiện, cử chỉ đẹp đẽ có tiếng vang trong xã hội, đến tháng 11 năm Dần vận Giáp thì qua đời, hưởng thọ 72 tuổi.

Nhâm Thân, Tân Hợi, Mậu Thìn, Giáp Dần.
Sinh giờ Dần ngày 17 tháng 10 năm thứ 11 đời vua Đồng Trị.
Mệnh: Tôn Hồng Y, Bính hỏa tàng Dần, Nhâm thủy không khắc, chỉ tiếc Dần Thân xung xa, vinh hoa không dài mà thôi.

Quý Dậu, Quý Hợi, Mậu Tý, Đinh Tị.
Sinh giờ Tỵ ngày 13 tháng 10 năm thứ 12 đời vua Đồng Trị
Vương Tuấn San: Nhật lộc quy thời cách, chuyên dụng Tị Bính Mậu, vận đến đất Tỷ Kiếp phương Nam, phát tài rất to lớn, là trưởng phòng buôn bán muối, đó là phú mà không quý vậy, bởi vì Bính hỏa không thấu, Dậu kim tổn Giáp vậy.

Giáp Tuất, Ất Hợi, Mậu Tý, Quý Hợi.
Giờ Hợi ngày 19 tháng 10 năm thứ 13 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Thang Hóa Long: Chi tụ Tuất Hợi Tý thuộc hai cung Càn Khảm Tây và Bắc, Tài vượng sinh Quan, chuyên dụng Thai nguyên Bính hỏa, chức vị đến bộ trưởng.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Tổng luận Mậu thổ sinh tháng 11, tháng 12

Tháng 11, tháng 12 cực lạnh mà đóng băng, lấy Bính hỏa làm trọng yếu, Giáp mộc làm phò tá.

Tháng 11, tháng 12 vì cực lạnh mà thổ đóng băng, điều hầu là cấp bách, nhất định dụng Bính hỏa làm trước tiên, lấy Giáp mộc làm phò tá, không có Giáp mộc còn có thể được, nhưng tuyệt đối không thể thiếu Bính hỏa, Bính Giáp cùng thấu, Thi hương có thể trông mong, hai Bính một Giáp ( thấu), khoa giáp có thể mong đợi, Bính xuất Giáp tàng, không dừng ở tú tài, Bính tàng Giáp xuất, không quá sinh đồ và tiền đồ chỉ là người giúp việc lặt vặt. Có Bính mà vô Giáp là người bình thường ở trong nhà giàu có, có Giáp mà vô Bính thì nghèo khổ mà buồn chán, Bính Giáp đều không là cách hạ tiện.

Ngày đông giá rét lý điều hầu là cấp thiết. Cho nên tổng luận nói: Hỏa trùng trùng mà không ngại, lại nói Hỏa thịnh có vinh, thủy nhiều không có bất hạnh gì, có hỏa mới có thể đảm nhiệm mà dụng Tài Quan. Không có hỏa, Thực Thương Quan Sát Tài tinh đều không thể dụng. Cho nên nói: Thổ mùa đông lấy hỏa làm Dụng thần chủ yếu vậy, hoặc một bầy Bính hỏa, vận gặp lúc nhị Dương, lại thêm Bính thấu, trong nhược mà biến cường, được một Nhâm thủy thấu can, thanh cao mà giầu có, mà còn trong phú đạt được quý, không có Nhâm thủy thì là tăng đạo cô độc.

Vận gặp nhị Dương là tháng 12 vậy, hỏa thái vượng, Mậu thổ biến nhược trở thành cường, chọn Nhâm thủy làm dụng, thủy là Tài, cho nên chủ trong phú đạt được quý.

Hoặc thổ thủy hàn lạnh mà còn ngưng trệ, một Bính cũng không thấy, được một chữ Tỵ, cũng là người không mất đi nghĩa khí khi giao du với mọi người.

Thổ thủy hàn lạnh mà còn ngưng trệ tức là sinh vào tháng 12 vậy, cung Tị ám tàng Bính hỏa, Mậu thổ lại đắc Lộc, trong cách có như vậy thì nghĩa khí tự hào, vận trình dẫn xuất ( Bính), cũng có thể phú quý, như loại cách Sửu dao Tý, tuy không thấy rõ chữ Tỵ, cũng có thể lấy hư thần ám yêu ( mời, gặp) làm dụng vậy.

Hoặc nhất phái Nhâm thủy, không gặp Tỷ Kiếp, lấy tòng Tài luận, danh lợi do người khác mà được.

Đây là nói tòng Tài cách, chi thành cục Thân Tý Thìn, hoặc phương Hợi Tý Sửu, mà không có Tỉ Kiếp Ấn thụ, thì lấy tòng Tài luận, do người khác mà đạt được phú quý.

Nếu có nhiều Tỉ Kiếp, gặp Giáp xuất can thì đại phú. Nhưng thổ hàn thủy lạnh, có Giáp mà không có Bính Đinh, cũng chỉ là người trông ngoài thì đầy đủ nhưng trong chẳng có gì. Như tạo: Mậu Dần, Giáp Tý, Mậu Thìn, Mậu Ngọ. Được Giáp Bính làm dụng, nhưng Mậu nhiều hối hỏa, không thể thành danh, gian trá mà bủn xỉn, thỏa thuê mà ấm áp, thường ngấm ngầm gây chọc người khác làm cho người khác không vừa ý.

Đây là nói quần Kiếp tranh Tài, dụng Thiên quan chế Kiếp hộ Tài. Mậu thổ tháng 12, Tài vượng nắm lệnh, gặp Tỷ Kiếp nhiều, được Giáp mộc xuất can chế Kiếp, Tài thông môn hộ, thành cách cự phú, nhưng cũng không thể không có Bính Đinh noãn (sưởi ấm) thổ, bằng không cuối cùng là người ngoài thì trông đầy đủ mà trong thì rỗng tuếch. Như tạo Mậu Dần, Tý Dần kẹp quý, Thìn Ngọ kẹp lộc, thiên can 4 chữ, đều đắc Lộc đắc quý, mà không thể thành danh, vì Bính không xuất can, lại không có chữ Tỵ là lý do vậy, Tài tinh nắm lệnh, mà Mậu thổ hợp (Tài tinh) rất chặt, quy khố với tọa ở dưới, tuy có Tài mà thô tục bủn xỉn.

Hoặc có hai Quý thấu ở trụ tháng và trụ giờ, gọi là tranh hợp, tuy có tiền của dư thừa, thì cũng là người vất vả, được Bính Kỷ xuất can, chế quý là người trung nghĩa, vì người khác mà bỏ qua lợi ích của mình.

Mậu lấy Quý làm Tài, thổ mùa Đông mà không có Bính, cuối cùng thuộc hư hàn, Thân nhược dụng Tài. Tuy được vận Ấn Kiếp phù trợ, cuối cùng là người vất vả cần cù mà đạt được giầu có, cuộc đời gian khổ, được Kỷ thổ xuất can làm trợ giúp, Kỷ Quý đồng cung làm dụng, thành cách cục khác, thấy ở đoạn dưới. Trụ năm trụ tháng có Tân kim lại thuộc thổ kim Thương quan, có thể bằng lòng vời công danh theo một con đường khác biệt nào đó, lấy kim làm vợ, thủy làm con.

Tiếp nối câu của đoạn văn trên, Kỷ thổ xuất can chế Quý, Kỷ Quý Tân đều là thần của nguyệt lệnh cung Sửu, gặp Kỷ Quý Tân xuất can, là cách thổ kim Thương quan sinh Tài, đồng cung tụ khí, cho nên có thể có kế hoạch cho con đường công danh theo một cách khác biệt nào đó. Cách này lấy thủy làm dụng, cho nên lấy Thương quan làm vợ, Tài làm con. Thổ mùa Đông lấy dụng Bính hỏa làm chính, Bính hỏa làm dụng, thì mộc làm vợ, hỏa làm con, như trên tháng 6.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Những ví dụ về Thổ sinh tháng 11

Kỷ Hợi, Bính Tý, Mậu Tuất, Canh Thân.
Chuyên dụng Bính hỏa, được tấn phong làm Quan Thị lang.
Mệnh này dựa vào chuyên Thực hợp lộc cách, chuyên dụng Bính hỏa, vận đến Đông Nam có thể phát (đã nói rõ về mệnh tạo Nhâm Thân ở tháng 10).

Nhâm Tý, Nhâm Tý, Mậu Tý, Nhâm Tý.
Tòng Tài cách, Hàn lâm học sĩ.
Theo tứ trụ này thì một điểm Tỷ Ấn cũng không có, tòng Tài cách mà không có trở ngại.
Mệnh tạo của công tước anh hùng Trương Văn Đoan thành Tiền Thanh Đồng: Sinh vào giờ Tý ngày 17 tháng 11 năm thứ 11 đời vua Khang Hi, tám chữ đều giống nhau, xuất thân Hàn Lâm, cha con đều là Tể tướng, ( khi mất) được hưởng cúng trong Thái Miếu ( Thái miếu: hoàng đế được tế tổ thờ cúng ở trong miếu của tổ tiên), là đệ nhất danh thần đời nhà Thanh, với tứ trụ này không biết là nhất hay là nhị. Bởi vì mệnh tạo trong sách này, được nhiều người sau này thêm vào vậy.

Kỷ Tị, Bính Tý, Mậu Dần, Nhâm Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 11 tháng 11 năm thứ 8 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Trương Thọ Linh: Bính thấu thông căn Dần Tỵ, Tài tinh nắm lệnh, chức vị đến Bộ trưởng tài chính.

Canh Thìn, Mậu Tý, Mậu Tý, Canh Thân.
Sinh giờ Thân ngày 24 tháng 11 năm thứ 6 đời vua Quang Tự.
Mênh Triệu Hằng Dịch: Chuyên Thực hợp Lộc cách, Thương quan sinh Tài, chuyên dụng Bính Mậu cung Tỵ để thành cách, cho nên quý, chức vị đến Đô Đốc, duy chỉ hiển hách nhất thời mà thôi.

Những ví dụ về Mậu thổ sinh vào tháng 12.

Quý Mão, Ất Sửu, Mậu Thân, Nhâm Tý.
Tứ trụ này là Thời thượng Thiên Tài cách, đại quý.

Quý Mão, Ất Sửu, Mậu Thân, Quý Sửu.
Tứ trụ không có hỏa, được Mậu Quý hóa hỏa, có Thai nguyên Bính hỏa tiếp dẫn, lại được Tân Nhâm trợ Bính, Quan đến nhị phẩm.

Theo hai mệnh tạo này, đều dụng Thai Nguyên Bính hỏa, Mão Sửu kẹp Dần, Thân kim xung ( Dần), hư thần Bính hỏa có khí, nguyên mệnh Tài Quan đắc Lộc, đặc thù của mệnh cục là hàn thổ hàn mộc, không có dương hòa Bính hỏa, không thể hiển được cái dụng của mình, cũng biết Bính hỏa là trọng yếu vậy. Thổ mùa Đông lý là không dụng thủy mộc, không phải không khả dụng, không có Bính hỏa thì Dụng vô lưc, không đủ để giành được quý hiển vậy.

Kỷ Mùi, Đinh Sửu, Mậu Tý, Bính Thìn.
Tú tài, nhà giàu.

Nhâm Ngọ, Quý Sửu, Mậu Dần, Giáp Dần.
Nhất bảng giáo luận. (Thày giáo, Thày đồ) có những nghiên cứu phi thường trong các nghành học)
Theo mệnh tạo này cũng phú. Các ví dụ trên lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Kỷ Mùi, Đinh Sửu, Mậu Tý, Kỷ Mùi.
Giờ Mùi ngày 5 tháng 12 năm thứ 4 đời vua Gia Khánh.
Mệnh Phí Thuần: Tý Sửu lục hợp, thổ nhuận mà loãn ( ấm áp), chân giá sắc cách vậy, Quan đến Cung bảo(1).

Bính Tý, Tân Sửu, Mậu Tý, Quý Sửu.
Sinh giờ Sửu ngày 14 tháng 12 năm 21 đời vua Gia Khánh.
Mênh công thân Ngọc Lân Bành Cương Trực: Tân Quý cung Sửu đều thấu, lại thấy Bính hỏa xuất can, đồng cung tụ hơp mà cởi bỏ được, lại được chân thần Bính hỏa làm dụng, thảo nào là nhân vật của ngàn đời, không chỉ nhất thời hiển đạt vậy.

Tân Dậu, Tân Sửu, Mậu Dần, Tân Dậu.
Sinh giờ Dậu ngày 25 tháng 12 năm 11 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Giang Triều Tông: Thổ kim Thương quan bội Ấn, chuyên dụng Bính hỏa cung Dần, lấy vận Đinh Dậu, Bính Thân là thời kì đắc ý nhất, chức vị đến ( làm ) thay quyền Tể tướng. Chỉ tiếc là giao vận phương Nam còn quá chậm trễ mà thôi.

Tân Tị, Tân Sửu, Mậu Thân, Nhâm Tý.
Sinh giờ Tý ngày 20 tháng 11 năm thứ 7 đời vua Quang Tự.
Mệnh Vạn Phúc Lân: Thổ kim Thương quan bội Ấn, Bính hỏa tàng ở cung Tị, chức vị đến Đô đốc.

Tân Tị, Tân Sửu, Mậu Thân, Giáp Dần.
Mệnh Khương Đăng Tuyển: Thương quan gặp Quan, Bính tàng Dần Tị, tam hình gặp xung, chức vị đến quân đoàn trưởng. Không được chết già, ở năm Bính Dần vận Bính Thân.

Ghi chú:
1/ Cung Bảo: Các cấp quan viên đời Minh, Thanh nguyên nhân là có chức suông, cấp cao nhất vinh dự là cấp hàm Thái sư, Thiếu sư, Thái phó, Thiểu phó, Thái bảo, Thiếu bảo, Thái tử Thái sư, Thái tử Thiếu sư, Thái tử Thái phó, Thái tử Thiểu phó, Thái tử Thái bảo, Thái tử Thiếu bảo. Nguyên nhân đại thần thêm cấp hàm hoặc sau khi chết được tặng thêm chức Quan, thông thường gọi là Cung Hàm, sau đời vua Hàm Phong không dùng " Sư" nữa mà lại dùng nhiều đến " Bảo", cho nên lại có biệt danh khác là Cung Bảo. Thí dụ mẫu 《 Hà Nam thông chí · bản thảo sưu tầm ở huyện Tuy 》" Miếu thờ khắc đá ở hai phố đối diện nhau hướng Đông và hướng Tây ( Viên có thể được lập Miếu thờ), bên tả viết viết: Tam thế Tư Mã , bên hữu viết: cung bảo Thượng thư. Đinh Cung Bảo ( Đinh Bảo Trinh ), Viên cung bảo ( Viên Thế Khải ).

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Trích trong "Cùng Thông Bửu Giám Toàn Tập"
(Dư Xuân Đài, Từ Nhạc Ngô bình chú, Nguyễn Lê biên dịch)


Tam xuân Kỷ thổ tổng luận
(Lập Xuân, Kinh Trập, Thanh Minh)


Kỷ thổ ở 3 tháng mùa Xuân, ruộng vườn (điền viên) gặp khí hàn lạnh, nhất định cần ấm áp và tưới nhuận để khai thông có ích lợi, vạn vật mới được thổ sinh mầm giống, tháng 1 (từ tiết Lập Xuân) chuyên dụng Bính làm ấm, để trừ hàn khí, tháng 2 (Kinh Trập) trước dụng Giáp để khai thông, như cày bừa giúp cho thổ, sau dụng Quý để tưới nhuận, chính là ruộng không bị khô hạn, Bính hỏa là sau. Tháng 3 (Thanh Minh) trước dụng Bính làm ấm, vạn vật mới bắt đầu sinh trưởng, cần dụng Quý tưới nhuận, vạn vật có nước cung cấp để sinh trưởng, sau dụng Giáp làm phụ tá, trong bát tự có 3 chữ này cùng thấu, là cách phú quý, khuyết một thì không tốt.

Tổng luận, ba tháng mùa Xuân Kỷ thổ trong bản gốc của sách Cùng Thông Bửu Giám là không có, luận tóm tắt vậy. Kỷ là khí thổ tuyệt mà suy, ẩn dụ như (điền viên), khai thông thì có lợi, Kỷ thổ trọng ở vừa ấm vừa được nhuận vậy, hoặc trước hoặc sau, nhất định là có dụng ý.

Chính nguyệt Kỷ thổ
(Tháng Giêng Dần, Lập Xuân)

Tháng giêng hàn khí chưa thoái lui, điền viên (ruộng vườn) vẫn còn đóng băng, Bính làm ấm áp là chủ, được Bính chiếu ấm, vạn vật tự sinh, kỵ thấy Nhâm thủy, vì chữ Nhâm không làm Bính đầy đủ, trái lại là Kỷ bệnh, tại sao vậy? Nhâm như sông dài chảy tràn lan, ruộng vườn bị ngập chìm trong nước, việc khẩn cấp là cần chỉnh đốn bờ đê, ruộng vườn có nước được gieo trồng, cần Mậu làm bờ đê, để bảo vệ ruộng vườn, nếu Nhâm nhiều thấy Mậu thì định chủ thanh nhã phú quý, không có Mậu thì là thường nhân.

Kỷ thổ lấy Giáp Bính Quý làm dụng, cùng Mậu thổ giống nhau, nhưng ở tháng giêng, dư khí hàn lạnh còn tồn tại, chuyên dụng Bính làm ấm thì thổ đầy đủ vậy, hai chữ Giáp Quý, ở trên phải là cần thiết, thấy Nhâm thủy là bệnh, quy tắc ở đâu? Kỷ là thổ khí thế suy kiệt, thấy Nhâm thủy là sinh vượng, thì thổ theo thủy mà trôi nỗi, có tượng bị ngâm chìm trong nước, nhất định cần lấy Mậu thổ trợ phù, Trích Thiên Tủy luận tính tình Kỷ thổ nói: Nhược yếu vật vượng, nghi trợ nghi bang, trợ giả bính hỏa, bang giả mậu thổ dã ( nếu muốn vượng cần trợ cần giúp, trợ là Bính hỏa, giúp là Mậu thổ vậy).

Hoặc một lúc có Giáp mộc, có Canh xuất can, lại thêm Quý Bính cùng thấu, phối hợp được trung hòa, khoa giáp có chắc chắn, danh lợi song toàn, tức là Kỷ sinh tháng Dần, Canh xuất thiên can, cũng không chỉ có cơm ăn áo mặc, Giáp nhiều không có Canh, chỉ ham ăn mà làm biếng, là người tàn tật phế nhân, cần có Đinh tiết, có thể lấy giải cứu.

Kỷ thổ ở tháng giêng, cần Bính hỏa giải trừ hàn lạnh, cũng không cần Giáp mộc, nếu thấy một lúc có Giáp mộc, Quan nhiều thì hóa Sát, nhất định cần có Canh kim để chế, vẫn lấy Bính Quý phối hợp làm dụng. Tháng giêng Dần cung tự có Bính hỏa, có Canh xuất thiên can chế Giáp, Bính tàng ở trong Dần, cũng có thể làm ấm thổ, không chỉ dừng ở có áo cơm đầy đủ, dụng ở Bính hỏa, không ở Giáp mộc vậy, nếu Giáp nhiều không có Canh để chế, Kỷ thổ bị chỗ mộc tổn thương, nhất định là người tàn tật, phế nhân, cần thấy Đinh hỏa tiết khí Giáp mộc để sinh Kỷ thổ, là Quan Ấn tương sinh, hơi có thể bổ cứu.

Hoặc một lúc có Bính Đinh, hoàn toàn không thấy thủy, cũng là không ngại, là sao vậy? Tháng giêng Kỷ thổ bị hàn thấp, hỏa thịnh trái lại là chủ hậu lộc, thêm một Quý thấu, Khoa Giáp hàng cực phẩm, Mậu thấu, trái lại là thường nhân.

Tường thuật tháng giêng Kỷ thổ ý là chuyên dụng Bính hỏa, dù có nói Bính ấm Quý nhuận, phối hợp sử dụng, nhưng tháng giêng Kỷ thổ không thấy Quý thủy, cũng không có ngại, là do Kỷ thổ bản tính hàn thấp cho nên thổ cũng đã suy kiệt, được hỏa phù trợ, trái lại là chủ hậu lộc, thêm một Quý thủy, càng là chỗ quý khí tụ lại, vẫn lấy Bính hỏa làm dụng, nguyên cục có Nhâm thủy, thì cần Mậu thổ là trợ giúp, không có Nhâm thủy thì không cần Mậu thổ, thấy Mậu khắc Quý, lại là thường nhân.

Phàm trong Dần có Mậu thổ, vốn là Giáp chế làm khó thân, chỉ cần Bính hỏa có lực, dù không xuất can, cũng có chỗ tốt, hoặc một lúc có Mậu thổ, cần có Giáp xuất ra để chế, lại là chủ vinh hiển.

Tiếp đoạn trên có câu nói Mậu thấu trái lại làm thường nhân, Dần cung Giáp mộc đắc lộc, Bính Mậu trường sinh, cho nên Dần cung dụng nhân nguyên, là ba thần Giáp Bính Mậu, Giáp mộc đang vượng, Mậu thổ là chỗ Giáp chế, dù có như không có, Bính Mậu tuy cùng sinh ở Dần, chỉ cần Bính hỏa có lực, tức không xuất can, cũng là chỗ hữu dụng, Mậu thổ như không xuất can, có thể biết là không luận, như trụ thấy Mậu nhiều, lại cần Giáp mộc xuất can để chế, Giáp ở trong chi, khó chế Mậu can đầu vậy.

Như thấy Ất xuất, tuy nhiều nhưng không thể khai thông thổ, dụng Ất thì là người gian trá tiểu nhân.

Tiếp đoạn văn ở trên, câu nói cần Giáp xuất ra để chế, như không có Giáp mà thấy Ất, dù có nhiều cũng không thể khai thông thổ có hiệu quả, mà dụng Ất thì nhiều gian trá, nguyên nhân là sao? Kỷ là thổ suy kiệt có thừa, Ất lại là mộc suy kiệt, âm nhu thái quá, là phần đa chủ gian trá vậy, dụng Bính thì mộc là Thê, hỏa là Tử.

Tháng giêng Kỷ thổ chuyên lấy Bính hỏa làm dụng, Quý làm phụ tá, Mậu Canh Đinh Giáp, đều ứng bệnh dược vậy.

(1) Canh Ngọ, Mậu Dần, Kỷ Dậu, Giáp Tý.
Do Giáp Kỷ hóa thổ, lại thêm Mậu xuất, thổ trọng chuyên dụng Giáp mộc, kỵ gặp đất kim, vận khí không tốt, trước bần sau phú.
Ghi chú: Tạo này Giáp Kỷ hợp mà không hóa, thổ trọng chuyên dụng Giáp mộc để khai thông thổ, Canh kim chế Giáp là bệnh, mộc nhiều cần phại chế, thiếu thì không cần chế, không thích hợp vận hành Canh Thìn, Tân Tị, cho nên trước bần, vận Nhâm Ngọ, Quý Mùi, chế hóa cùng hành, từng bước thuận lợi, cho nên sau phú, ghi chú tỉ mĩ gốc bình luận rõ ràng sáng tỏ, không như một chữ hóa thổ, lấy thành thói quen, thấy hậu nhân mắc phải sai lầm là không ít, như quả hóa thổ, nên lấy hỏa làm dụng, sao có thể chuyên dụng ở Giáp mộc.

(2) Canh Thân, Mậu Dần, Kỷ Dậu, Đinh Mão.
Cống nguyên.
Ghi chú: Tạo này Mậu thổ xuất can, Giáp mộc không thấu, hỉ Dần cung Bính hỏa có lực, cho nên không chỉ có Tú tài vậy, lấy ở trên để làm chìa khóa căn bản.

(3) Giáp Tý, Bính Dần, Kỷ Sửu, Giáp Tý.
Gia Khánh (niên hiệu của vua Nhân Tông thời nhà Thanh, Trung Quốc, 1796-1820) năm thứ 8, tháng 12, ngày 28, giờ Tý.
Mệnh Lưu Dong: Tạo này cũng không phải hóa thổ, đầu Xuân Kỷ thổ, Dần cung có Giáp Bính cùng thấu, Quý thủy tàng chi, ấm nhuận dung khai thông íc lợi đều đủ, chuyên dụng Bính hỏa, Giáp Bính cùng Quan Ấn tương sinh, ngoài cách có tình có lực, địa chi Tý Sửu Dần, tinh thần đoàn kết, nên lấy danh thần khoa giáp, là Thái Bình tể tướng vậy.

(4) Ất Mùi, Mậu Dần, Kỷ Sửu, Mậu Thìn.
Quang Tự năm thứ 12, tháng giêng, ngày 17, giờ Thìn.
Mệnh Lô Anh: Kỷ thổ âm nhu, tháng giêng hàn thổ, dù có tứ trụ thổ trọng, vẫn dụng Bính hỏa làm ấm thổ, Ất mộc Thiên Quan, cũng để thấy Bính hỏa mà hướng vinh vậy, Sát thấu là nhân vật giới quân đội, Tuất vận là Đội trưởng đội trinh sát thành phố Thượng Hải.

(5) Kỷ Hợi, Bính Dần, Kỷ Tị, Kỷ Tị.
Quang Tự năm thứ 25, tháng giêng, ngày 21, giờ Tị.
Mệnh Hoàng Quý Lục: Chuyên dụng Bính hỏa, Kỷ thổ hàn thấp, hỏa nhiều trái lại là chủ lộc hậu vậy.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Nhị nguyệt Kỷ thổ
(Tháng Hai, Mão, Kinh Trập)


(Tháng 2 Kỷ thổ, dương khí dần dần thăng lên, mặc dù cùng trồng trọt chưa thành, vạn vật phát sinh, nhưng ruộng vườn chưa triển khai, trước dụng Giáp mộc để khai thông, kỵ hợp, sau dụng Quý thủy để tưới nhuận)

Tháng 2 Xuân nặng, dương khí dần thịnh, Tị Bính hỏa không cần thiết, trước dụng Giáp sau Quý, lấy Tài Quan làm chính dụng, được Bính Ấn phối hợp, phúc trạch càng dày, hòa giá là ví dụ Ất mộc vậy. Tháng Mão tuy là Ất mộc mùa nắm vượng, mà chưa có thể lấy Ất làm dụng, ví dụ như Hòa giá vị thành vậy, nhưng Giáp mộc xuất can, kỵ cùng Kỷ thổ tương hợp, giữa Xuân mộc vượng mùa nắm lệnh, Giáp Kỷ quyết không thể tòng hóa, trái lại mất dụng khia thông thổ, thì là Hạ cách vậy.

Giáp Quý xuất can, định chủ khoa giáp, lại thêm một vị Bính hỏa, Quan nơi cực phẩm, quyền trọng trăm quan, thấy Nhâm thủy phú quý hơi nhẹ, hoặc thấy Canh chế Giáp, Nhâm thủy Mậu thổ trọng nặng, liền là thường nhân, Bính thấu vẫn có tiểu phú, Bính tàng y lộc không có giảm, không có Bính là bần hàn.

Kỷ thổ sinh vượng, dụng Quý Giáp Tài Quan, tất là quý cách, càng được Bính Ấn phối hợp, lộc trọng quyền cao, Nhâm thủy sinh Giáp mộc vô tình, cho nên phú quý hơi nhẹ, thấy Canh kim khắc hại Quan tinh, dụng thần bị tổn thương, hoặc Nhâm thủy trọng vậy khốn Bính, Mậu thổ trọng vậy khốn Quý, đều là có bệnh không có dược, liền thành nhân vật bình thường, có Bính hỏa, không mất y lộc ở trên vậy.

Hoặc chi thành mộc cục, Canh thấu thì phú quý, nếu trụ nhiều Ất mộc, Ất lại xuất can, Canh nhất định thấu tình ở Ất muội, không thể bỏ tà quy chính, chỗ này nhất định là đồ giảo trá, vận nhập Đông Nam, không chết cũng khởi là kẻ bất lương, cần dụng Đinh tiết, có Đinh là tiểu nhân mà thôi, không đến nỗi là kẻ bất lương.

Tiếp ở trên, câu nói thấy Canh chế Giáp liền là thường nhân, chi thành mộc cục, Quan Sát bè đảng tụ hội, lại cần có Canh kim chế, mới là thượng cách, nếu Ất mộc xuất can, thì Ất Canh tương hợp có tình, như quan binh thông tình với đạo tặc, lại hành Đông Nam đất mộc hỏa vượng, như nhập vào khu vực kẻ cướp, có lý lẽ yên ổn may mắn, chỗ này cần Đinh hỏa tiết chi, tiết khí mộc để sinh Kỷ thổ, không dụng Canh kim, để mà không đến nỗi tiến thoái mất chỗ mà thôi, không có Tỉ Ấn, lấy Tòng Sát luận, là đại quý.

Tháng 2 mộc vượng nắm lệnh, chi thành Hợi Mão Mùi mộc cục, hoặc đầy đủ Dần Mão Thìn tụ Đông phương, mà không có Tỉ Ấn, thì nhất định lấy Tòng Sát luận, Giáp mộc thấu xuất, là Thê tòng Phu hóa theo mộc, cũng lấy Tòng Sát luận.

Nếu trong trụ Giáp Quý Bính đều không có, là Hạ cách, Thê Tử dụng thần giống ở trước.

Tháng 2 Kỷ thổ, không thể không có Giáp Quý Bính, Thê Tử giống ở trước là nói giống ở trên tháng giêng vậy.

(1) Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Ất Sửu
Quần Sát nắm quyền, kì diệu là có Tị Sửu hội cục, Canh không hợp Ất, trái lại là chế quần Sát, là Trạng Nguyên.
Ghi chú: Chi Canh không hợp can Ất, Tị cung Canh có Bính hỏa hóa quần Sát vậy.

(2) Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Canh Ngọ
Canh kim cách ngôi, Ất khó hợp canh, quần tà tự khuất phục, là Phủ viện.
Ghi chú: Ất Canh cách ngôi không hợp, trái lại có thể tương chế lấy thành cách, chi tụ Tam Thai ( ngôi vị Tam Công), giờ gặp Ngọ lộc, thân cường Sát vượng, là Hóa Sát vi quyền, cho nên là mệnh phủ quân, kiêm cả nắm binh quyền vậy.

(3) Quý Mão, Ất Mão, Kỷ Tị, Tân Mùi
Quần Sát điên cuồng ngang ngược, là mệnh thảo khấu (tướng cướp).
Ghi chú: Tân kim ý nói có chế Sát, mà không có lực chế, Kỷ thổ đến Tị, đất lộc của Bính Mậu, Tị Mùi kẹp Ngọ lộc, là Thân cường Sát vượng, cũng hóa Sát thành quyền, không bằng Mão Mùi hội cục, quần Sát điên cuồng khôg có chế, không vào quỹ đạo, thế nhất định chuẩn bị cầm vũ khí quấy phá kinh thành, là mệnh Tướng cướp, cũng là nắm quyền bính vậy, lấy trên đề làm chìa khóa căn bản.

(4) Giáp Tý, Đinh Mão, Kỷ Hợi, Mậu Thìn
Đồng Trị năm thứ 3, tháng 2, ngày 28, giờ Thìn.
Mệnh Dương Tăng Tân: Mậu thổ xuất can, chuyên dụng Giáp mộc khai thông thổ, Giáp Kỷ cách ngôi không hợp, mà được dụng khai thông thổ, Đinh thấu Quý tàng, thổ ấm mà nhuận, thủy mộc hỏa thổ tự thuận mà tương sinh, Mùi vận làm Đô đốc Tân Cương.

(5) Canh Ngọ, Kỷ Mão, Kỷ Mùi, Canh Ngọ
Đồng Trị năm thứ 9, tháng 2, ngày 23, giờ Ngọ.
Mệnh Đinh Nãi Dương: Mão Mùi hội cục, Canh kim xuất can để chế, Kỷ thổ sinh vượng, mệnh phú quý.

(6) Quý Dậu, Ất Mão, Kỷ Tị, Kỷ Tị
Đồng Trị năm thứ 12, tháng 2, ngày 20, giờ Tị.
Mệnh Ngô Cảnh Liêm: Quý thấu Bính tàng, Ất mộc xuất can, được Tị Dậu hội cục để chế, địa vị là Nghị trưởng hạ nghị viện.

(7) Nhâm Ngọ, Quý Mão, Kỷ Tị, Canh Ngọ
Quang Tự năm thứ 8, tháng 2, ngày 13, giờ Ngọ.
Mệnh Trình Tiềm : Tạo này Mão Tị Ngọ là Tam Thai, Canh thấu Ất tàng, chế Sát đắc lực, đại vị là Quân trưởng Chủ tịch tỉnh, hoặc nói là giờ Tân Mùi, thì Cách cục kém xa vậy (xem thêm tạo Quý Mão ). Dậu vận năm Kỷ Mão, gặp đạn nổ bị thương mà chết.

(8 ) Giáp Thân, Đinh Mão, Kỷ Mùi, Canh Ngọ
Quang Tự năm thứ 10, tháng 2, ngày 13, giờ Ngọ.
Mệnh Điền Duy Cần: Canh kim đắc lộc ở Thân, nên lấy Đinh hỏa chế Canh hộ Quan làm dụng, địa vị tới Đô đốc.

(9) Mậu Tý, Ất Mão, Kỷ Mão, Ất Sửu.
Quang Tự năm thứ 14, tháng giêng, ngày 27, giờ Sửu.
Mệnh Ngô Thiết Thành: Thất Sát tụ quyền, nắm lệnh, 2 Ất trùng điệp xuất ra mà không có chế, mộc vượng thổ hư, lại không có thể tòng, chỗ hỉ là Thai Nguyên Bính Ngọ, dụng Ấn hóa Sát, cách thành đại quý.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Tam nguyệt Kỷ thổ
(Tháng 3, Thìn, Thanh Minh)


Kỷ thổ sinh tháng ba, chính là mùa vun xới trồng trọt, đầu tiên dụng Bính sau dụng Quý, lệnh thổ ấm mà ẩm mát, lại dụng Giáp để khai thông. Thổ ở tháng ba, tư, được khí dương đang tiến, chính là mùa vạn vật phát sinh, Mậu Kỷ thổ tuy cùng lấy Giáp Bính Quý làm dụng, mà Mậu thổ thì trọng hậu (dày nặng), cho nên cần Giáp mộc khai thông có ích là đầu tiên; Kỷ thổ thì súc tàng (tàng chứa) cho nên lấy Bính Quý làm ấm mà ẩm mát là quan trọng, lấy khí có sinh vượng cùng suy kiệt là khác nhau vậy.

Kỷ thổ tháng ba, đầu tiên dụng Bính Quý, trong Thìn có gốc Quý thủy là khí có ánh sáng giọi lại (mộ khí) cho nên đầu tiên dụng Bính sau là Quý, lại tiếp tục dụng Giáp để khai thông. Kỷ thổ thấy Bính Mậu cùng thấu, lại sinh ở tháng thổ vượng, dụng cùng Mậu thổ là giống nhau, không có Giáp khai thông ích lợi, thì thổ mất linh, đặc biệt đã dụng ở ấm áp mà sau đó lại có ẩm mát vậy.

Cả ba đều thấu thiên can, làm quan ở hàng cực phẩm, chỗ này hợp lại không tra xét, là phong thổ thiếu vậy; hoặc cả ba mà chỉ thấu một, cũng chủ phú quý nhưng cần được chỗ; không có chế, dụng Bính kỵ Nhâm thấu, dụng Quý kỵ Tỉ kiên thấu, dụng Giáp kỵ Canh thấu.

Cả ba là Bính Quý Giáp vậy, là đủ Tài Quan Ấn, phú quý cực phẩm, ba mà thấu một, cũng chủ phú quý. Được chỗ là ở cung Trường sinh, Lâm quan vậy, như Bính tàng Dần Tị, Giáp tàng Hợi Dần, Quý tàng Tý, đều là nơi được chỗ, dụng Bính không thấy Nhâm chế, dụng Quý không thấy Mậu Kỷ chế, dụng Giáp không thấy Canh chế, tức là mệnh phú quý.

Hoặc có Bính không có Quý, cũng có thể lấy phú, nhưng không quý mà thôi; có Quý không có Giáp Bính, cũng có áo cơm mà không đến nỗi là tiện, nhưng mà là người bình thường mà thôi; có Bính Quý không có Giáp, cũng thuộc loại tài nhân có năng lực làm quan; Bính Quý đều không có, là kẻ phàm tục.

Đoạn văn ở trên nói Quý Bính Giáp cả ba vị đều đủ, chỗ này là nói ba vị mà khuyết một vậy, có Bính Giáp không có Quý, trong Thìn vốn có Quý thủy, nhưng mà lực kém vậy; có Quý không có Giáp Bính, thời gặp tháng ba, mộc vượng hỏa tướng, là khí vô hình, tất nhiên hữu dụng; có Bính Quý không có Giáp, sinh ở sau Thanh Minh trước Cốc vũ, mộc có dư khí, cho nên thuộc loại có tài năng có thể làm quan; nếu Bính Quý Giáp đều không có, thì là người vô dụng vậy.

Hoặc đồng nhất chỉ có Ất mộc, không có kim chế phục, là bần tiện, chết yểu, thê tử giống như trước. Đồng nhất chỉ có Ất mộc mà không có kim chế phục, nói là Thất Sát không có chế vậy, thân nhược là mệnh bần tiện, chết yểu, thân cường Sát vượng không có chế, là mệnh đạo tặc.

(1) Quý Sửu, Bính Thìn, Kỷ Tị, Ất Hợi
Bính Quý Giáp đều đủ, địa vị tới Nguyên soái.

(2) Quý Sửu, Bính Thìn, Kỷ Tị, Tân Mùi
Quý thổ thiếu Giáp, không qua tú tài, chi kết thổ cục, cốt nhục mây trôi.
Ghi chú: Lưỡng tạo này đều có Bính Quý xuất can, tạo trên có Ất Hợi, Giáp mộc ám tàng đắc sở (được chỗ), Tị Hợi tuy có xung, mà trong Tị có Canh kim thụ chế bởi Bính, không thể khắc Giáp mộc vậy, Ất mộc Thất Sát tuy thấu, được Bính Ấn hóa Sát làm quyền, cho nên địa vị tới Nguyên soái; tạo ở dưới Thìn Sửu Mùi thổ tinh kết cục, thổ nặng mà lấy Giáp mộc khai thông ích lợi là quan trọng, mà tứ trụ không có Giáp, tuy có Bính Quý, không qua khỏi giàu có thanh tú, có thể thấy Giáp Bính Quý dụng cả ba, thổ trọng đầu tiên là dụng Giáp, ấm khô đầu tiên là dụng Quý, thấp nhuận đầu tiên là dụng Bính, không thể cố chấp trước sau vậy.

(3) Nhâm Tý, Giáp Thìn, Kỷ Mão, Bính Dần
Bính Giáp Quý đầy đủ, Sát vượng Thân cường, địa vị tới Tể Tướng.

(4) Nhâm Tý, Giáp Thìn, Kỷ Mão, Nhâm Thân
Tạp khí Tài Quan cách, mệnh Trạng nguyên.
Ghi chú: Tạo ở trên, Giáp Bính thấu xuất mà Quý tàng, chuyên dụng Bính Ấn hóa Sát làm quyền, Sát Ấn lưỡng vượng, địa vị cao quyền trọng; tạo ở dưới khuyết Bính, chuyên lấy Tài vượng sinh Sát làm dụng, Kỷ thổ hàn thấp, vẻn vẹn thanh quý vậy.

(5) Tân Mùi, Nhâm Thìn, Kỷ Tị, Giáp Tý
Thân vượng đảm nhận tài, là phú ông.
Ghi chú: Tạo này cũng có Bính Quý Giáp cà ba đều đủ, đặc biệt có Tân xuất can, kim Quan tinh thụ thương, chuyên dụng Tài tinh, cho nên phú mà không quý vậy, lấy ở trên làm chìa khóa cơ bản.

(6) Giáp Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Dậu, Đinh Mão
Đồng Trị năm thứ 13, tháng ba, ngày mùng bảy, giờ Mão.
Mệnh Ngô Bội Phu, Mão Thìn Dậu Tuất, Đông Tây xen lẫn thứ tự, chính là cách cục phía trước to lớn, ( Xem thêm tiết Quý thủy tháng chín, mệnh Từ Thế Xương), dụng thủ Tài Quan, tiếc là Tài tinh nhập mộ, vận đến Nhâm Thân, Quý Dậu, Tài vượng sinh Quan, địa vị là Nguyên soái, trụ ngày và giờ Mão Dậu tương xung, Kiêu Ấn là cái đầu, già mà không có con.

(7) Mậu Dần, Bính Thìn, Kỷ Mão, Bính Dần
Quang Tự, năm thứ tư, tháng 3, ngày 29, giờ Dần.
Mệnh Trương Thụ Bình, sinh ở trước Lập Hạ một ngày, chi toàn Đông phương, tốt ở Bính Mậu cùng thấu, Kỷ thổ thân vượng, dụng Sát khuyết chế, hành Canh Thân, Tân Dậu vận, giàu có hàng vạn, thân vượng không nhọc Ấn sinh, mà trụ thấy Ấn hóa Sát, Sát cần Thực chế mà khuyết kim, cho nên phú mà không quý vậy (Tăng Nhậm nghị viên quốc hội), xem thêm ở Kỷ thổ sinh tháng hai, tạo Quý Mão.

(8 ) Tân Tị, Nhâm Thìn, Kỷ Hợi, Mậu Thìn
Quang Tự, năm thứ 7, tháng 4, ngày mùng 8, giờ Thìn.
Mệnh Lý Tư Hạo, sinh ở trước Lập Hạ 5 giờ, Giáp Bính đều tàng, thổ nhuận mà cường, phương hỏa tiến khí, Bính tàng không có ngại, Giáp tàng thì lực có không đủ, chhỉ có thể lấy Nhâm thủy Tài tinh làm dụng, địa vị tới Tổng trưởng Tài chính.

(9) Kỷ Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Mão, Mậu Thìn
Quang Tự, năm thứ 5, tháng 4, giờ Thìn.
Mệnh Hạ Diệu Tổ, trong bát tự, thổ được bảy vị, nhật chi thấy Mão, không lấy Giá Sắc cách luận, chính là Tạp khí Tài Quan vậy, một điểm Mão mộc, có tượng cùng trồng trọt ở ruộng vườn, vận hành Tài địa, địa vị đạt tới cực phẩm, Mão là Thất Sát, hiện tuy là Đại sứ bên ngoài, cuối cùng là địa vị cao quý về vũ lực vậy, tạo này lại cần là giờ Kỷ Tị, Kỷ thổ tháng ba, không cách ly ấm noãn, nhuận, khia thông lợi ích làm dụng, Mậu Thìn mùa của dương hòa chưa đủ, dụng thổ không lộ rõ, cùng trồng trọt không tươi tốt, quý cũng chưa đủ vậy.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Tứ nguyệt Kỷ thổ
(Tháng 4, Tỵ, Lập Hạ)


(Kỷ thổ ba tháng mùa Hạ, gặp mùa vụ trồng trọt ở ruộng vườn, cần giúp ngay nước ngọt để tưới thấm, trước dụng Quý thủy sau dụng Bính hỏa, mùa Hạ rất nóng mà dụng Bính là sao? Mùa Hạ không có ánh Thái Dương thì mùa trồng trọt sẽ không kéo dài, càng kéo dài thì càng rất nóng, cho nên không có Quý thì nói là Hạn điền, không có Bính thì nói là Cô âm.)

Kỷ là thổ suy kiệt, tính chất cùng Mậu thổ là khác nhau, sinh ở mùa Hạ, điều hòa khí hậu, Quý thủy là trước tiên, là luận về tính chất kỹ năng, cần trợ cần phù, ví dụ về Hạn điền, Cô âm, chính là lấy không thể cách ly Quý Bính vậy.

Bính Quý lưỡng thấu, lại thêm Tân kim phát sinh gốc Quý, là phú quý cực phẩm. Mậu xuất can thì tổn thương Quý và làm mờ Bính, không thể không phân rõ, hoặc Bính hỏa viêm thượng, chi tàng Quý thủy, lại thấy Tân kim sinh, gọi là Thủy hỏa ký tế, khoa giáp có chắc chắn, hoặc có Quý không có Bính cũng tốt, tức là không có Khoa giáp cũng là kẻ sĩ tài cao được tuyển chọn đề bạt, có Bính không có Quý, có Nhâm cũng được, nhưng không phát lớn.

Tháng 4 Kỷ Thổ, điều hậu là cần thiết, lấy Quý thủy là dụng thần chủ yếu, nhưng thủy tới Tị Ngọ là tuyệt địa, một giọt thủy cũng bị nấu khô cạn, không có bổ cứu cục Hỏa viêm thổ táo, cho nên nhất định lấy Tân kim để sinh, là dòng chảy không dừng, là được dụng Nhuận trạch. Hai tháng Tị Ngọ, tháng tự có Bính Đinh, cho nên có Quý không có Bính cũng tốt, tức không có khoa giáp, cũng nhất định được tuyển dụng đề bạt, không có Quý dụng Nhâm, không có Tân dụng Canh, dù cách cục có cao hay thấp, dụng một quy tắc, thấy Mậu xuất can, đặc biệt không tổn thương Quý, mà đề phòng hợp Quý hóa hỏa, phàm dụng Quý thủy thì đều sợ Mậu thổ, không chỉ tháng 4 Kỷ thổ là như vậy, Mậu Quý tương hợp, cách cục biến đổi, là họa là phúc, xem riêng định cách cục, cho nên không thể không phân rõ vậy.

(Hoặc một lúc có Bính hỏa quá mạnh liệt, lại thêm Đinh hỏa chế kim, có Quý không có căn, như khoảng giữa tháng 7, 8 gặp hạn, thì mầm giống khô héo vậy, là mệnh quan cô đơn mà bần hàn, mệnh tạo loại này, lấy kim là Thê, lấy thủy là Tử, một giọt thủy cũng bị nấu khô cạn, cho nên có Tử nhưng khó thành, kim bị hỏa khắc, có Thê khó bảo toàn, Nhâm Quý là Tài Lộc, thủy khô không có gốc, cho nên y lộc cũng khó mà vững bền, là bần hàn không có nghi ngờ, giống ở dưới hoặc như Tiết Giáp mộc.)

(Hoặc có Giáp mộc, lại thêm Bính Đinh trọng nặng, không có tích thủy để giải viêm, thì cục rất thiên khô, là cô bần đến già, dù có Nhâm giải, không được Canh Tân sinh thủy, thủy bị thổ khắc, thì không là Quan đơn độc thì nhất định là có bệnh về tim, thận, có Canh Tân sinh thủy, phú quý không phải nhẹ.)

Tiếp đoạn văn ở trên, tháng 4 Mậu thổ thấy mộc hỏa quá nặng, không có thủy giải viêm, chỉ sợ gặp Dương Nhận đảo qua, Kỷ thổ dù không có tai ách do Dương Nhận, nhưng mệnh là Thiên khô, cũng là tượng bần hàn, cô Quan, thủy bị thổ khắc, thì Canh bị Đinh hại, cách cục đều bị phạm kỵ, được Canh Tân sinh thủy, phú quý là không ít, bệnh nặng được dược, hoàn toàn lực Càn Khôn thay đổi, cũng không phải là tầm thường vậy, thủy là mắt, lại vừa là Tâm Thận thuộc thủy, thủy bị nấu khô cạn, cho nên chủ tâm (tim), thận từng phần bị bệnh.

Như Kỷ Tị, Kỷ Tị, Kỷ Tị, Mậu Thìn, là người giàu có nhất thủ đô, là sao vậy? Kỷ sinh đầu mùa Hạ, Bính nhiều, Mậu Kỷ lại nhiều, diệu kì là được 3 Canh sinh khởi Quý thủy ở trong Thìn, thêm Thai Nguyên là Canh Thân, như phá thủy bị suy kiệt, không thành Hạn điền vậy, cho nên vận hành Tây Bắc, phát tài vô số kể, được ở lục thân, mà có nhiều con cháu sống thọ, không phải là ngẫu nhiên vậy.

Tiếp đoạn văn ở trên, phép Ngũ tinh trọng Mệnh Cung, phép Tử Bình trọng Thai Nguyên. Thai Nguyên là mùa thụ thai thừa hưởng bản tính trời cho vậy, mang thai thông thường là lấy 10 tháng, cho nên tính ra là thông thường lấy trước can chi 10 tháng làm tiêu chuẩn, nhưng có 7 tháng cho đến 12, 13 tháng, cần phải hiểu rõ tháng mang thai phân rõ mà suy ra, thường có mệnh đặc biệt, không ứng phú mà phú, không ứng quý mà quý, phân rõ tháng ở Thai Nguyên, liên quan rất nhiều, tôi đã gặp nhiều lần (sinh có 7 tháng, được khí Thai Nguyên mà đại quý, như đối chiếu mệnh tạo cùng Thai Nguyên 10 tháng, làm sao mà không luận, không được giải, con cháu hỏi ý kiến biết là gặp Thai Nguyên 7 tháng, không thể không chú ý).

Như tạo trên là đại phú, cũng do ở Thai Nguyên vậy, Tị cung Canh kim, bị áp bức bởi hỏa thổ, không thể sinh Quý thủy ở Thìn cung, mộ khố giọt thủy bị nấu khô cạn, sao mà có thể giải viêm, không được Thân cung thủy trường sinh, cứu giúp để kim đắc lộc, chỗ này không luận trở lại lực của cung Khôn vậy, thủy bị phá kiệt là sông ngòi lộ ra bia đá, văn chương trôi chảy, ở trên lấy bia đá, trói buộc ở vách núi, rõ ràng được Thìn là mộ khố của thủy, được Canh Tân kim thủy dẫn xuất, dòng chảy không dứt vậy, lại vận hành Tây Bắc đất kim thủy, nên là phát tài vô số vậy, được thai khí phụ mẫu, tiền của đến từ phúc ấm ở trên che chỡ, tới thời thượng quy khố, vào mà không xuất, sao mà không thành cự phú, thủy là Tử, cho nên nhiều con cái, lại có 3 Tị lộc, thổ dày quá nặng, sao mà không thọ.

Tổng luận nói: Tứ trụ thổ trọng, kiến kim kết cục giả, bất quý tức phú (Tứ trụ thổ nặng, thấy kim kết cục, không quý cũng phú), dù nói thổ ở tháng 6, lý lẽ là vững chắc trước sau như một vậy ( tháng 4, 5 cần có thủy nhuận thổ).

(Hoặc chi thành hỏa cục, không có thủy, là tăng đạo cô bần, hoặc có Quý thấu có gốc, phú mà có Quý Nhâm thấu có gốc, phú mà không quý lại cần có vận tốt mới phát, hoặc thấy Nhâm Quý lưỡng thấu, phá cục Đinh hỏa, Kỷ nhuận là thấp nê, tinh thần phát ra tứ phương, lý sự đều thông, phú quý đều từ được đến đúng lúc, chính là Tý thủy không khắc thay đổi tinh thần, hỏa thổ cùng thấp ẩm là tốt.)

Chỗ này là nói dụng Nhâm dụng Quý có khác nhau vậy, chi thành hỏa cục, không thể không có thủy để giải viêm, có gốc là nói kim thủy tương sinh vậy, Quý là trời mưa ẩm ướt, cho nên phú mà còn quý, Nhâm là người dẫn nước tưới ruộng, xuất ra miễn cưỡng, cho nên phú mà không quý, yêu cầu, có tình cùng vô tình là khác nhau vậy, vận tốt là vận trình Tây Bắc vậy, Quý là Trạch ở thiên nhiên (là thấm ướt, cái gì nhờ để tưới tắm cho cây cối được đều gọi là trạch, như vũ trạch là mưa thấm), là được tự nhiên, cho nên có sinh địa vị là tương ứng.

Nhâm là người dẫn nước tưới vào ruộng vườn, cần cù mà được, không có vận tốt tiến hành, thì không được nâng cao địa vị, Nhâm Quý đang lưỡng thấu, nói Chính thiên Tài cùng thấy, là dụng Tài phá Ấn vậy, thủy phá hỏa cục là nói Kỷ thổ nhuận thành thấp nê, là người nhất định thông minh đặc biệt hiển đạt, giỏi về mưu mô hành động, trong phú lấy quý, thủy tới ba tháng mùa Hạ là đất tử tuyệt, cho nên viết là Tý thủy, hỏa là thần đang vượng, khí mới mở ra, cho nên thủy không thể khắc, duy chỉ có được nhuận thổ dụng để giải viêm, vạn vật dựa vào để sinh trưởng phát triển, tự có thể chuyển họa thành phúc mà thôi.

Dụng Quý thì kim là Thê thủy là Tử, dụng Bính thì mộc là Thê, hỏa là Tử.

Kỷ thổ 3 tháng mùa Hạ, không cách ly khỏi Quý Bính làm dụng, tháng 4, 5 chuyên dụng Quý thủy, tháng 6 kim thủy đang tiến khí, kiêm dụng Bính hỏa.

(1) Ất Sửu, Tân Tị, Kỷ Tị, Canh Ngọ
Tân kim Sửu Quý, sinh Nhâm Thai Nguyên, không là Hạn điền, địa vị là Bá tước một phương.

(2) Ất Dậu, Tân Tị, Kỷ Dậu, Ất Hợi
Kim sinh Hợi Nhâm, địa vị là Thái Thú.

(3) Ất Tị, Tân Tị, Kỷ Tị, Tân Mùi
Kim nhiều tiết thổ, là Hạn điền không có thủy, chuyên dụng Thai Nguyên, địa vị tới Tri Phủ.
Ghi chú: Lấy ở trên 3 tạo, cùng lấy Thai Nguyên là Nhâm Thân làm dụng, Kỷ thổ ở 3 tháng mùa Hạ, trừ tháng 6 thì thổ thịnh thấy kim kết cục, tất nhiên là ngoài phú quý, hai tháng 4 và 5, đều không thể không có thủy, là do hỏa thổ viêm táo vậy, tạo Ất Sửu có Canh kim xuất can, dẫn sinh Thai Nguyên Nhâm thủy, địa vị là Bá tước một phương, hai tạo Ất Dậu và Ất Tị, cùng lấy Thai Nguyên Nhâm Thân làm dụng, cách cục giống nhau, địa vị cũng vậy, là không phải ngẫu nhiên vậy, nếu không phải Thai Nguyên để cứu, thì có thể tránh khỏi nạn Hạn điền ư.

(4) Tân Mùi, Quý Tị, Kỷ Mão, Mậu Thìn
Nữ mệnh, hơi phú mà không có con.
Ghi chú: Tạo này Quý thủy xuất can, Tân kim sinh, cho nên phú, thời thượng Quý thủy nhập mộ, Mậu thổ Kiếp đoạt, cho nên không có con.

(5) Bính Thân, Quý Tị, Kỷ Hợi, Ất Hợi
Bính Quý đều đủ, là Tài Vượng sinh Quan, là nhất phẩm phu nhân.
Ghi chú: Mệnh tốt ở cả hai Bính Quý cùng thấu, người là Nữ mệnh, cho nên không thể không lấy Ất mộc làm Phu tinh vậy.

(6) Giáp Tuất, Tân Tị, Kỷ Dậu, Kỷ Tị
Cũng dụng Thai Nguyên mà đạt phú.
Thai Nguyên Nhâm Thân, dù có Tị Dậu kim cục tương sinh, không thể so với Thân cung có thủy trường sinh, chỗ này là Nhâm thấu có gốc, phú mà không quý là vậy.

(7) Đinh Hợi, Đinh Mùi, Kỷ Mão, Mậu Thìn
Đinh thấu đủ cả hai, là Câu Trần đắc vị, làm quan tới Đô Đốc.
Ghi chú: Tạo này Hợi Mão Mùi hội cục, giờ thấy Mậu Thìn, là thân cường Sát vượng, tháng 6 thổ táo mộc khô, hỉ dụng Nhâm Quý thủy, Tài sinh Sát vượng làm dụng, cho nên là Vũ quan quý vậy, lấy ở trên làm chìa khóa căn bản.

(8 ) Nhâm Tuất, Ất Tị, Kỷ Tị, Bính Dần
Đồng Trị năm thứ nhất, tháng 4, ngày 17, giờ Dần. ( Nhằm ngày 15/5/1862 DL)
Mệnh Lý Đỉnh Tân: Nhâm Bính cùng thấu, chuyên dụng Nhâm thủy, hỉ Thai nguyên Bính Thân, Nhâm thủy thông căn, địa vị tới Tổng trưởng Hải quân.

(9) Quý Dậu, Đinh Tị, Kỷ Mão, Giáp Tuất
Đồng Trị, năm thứ 12, tháng 5, ngày 2, giờ Tuất.
Mệnh Trử Phụ Thành: Quý thấu Bính tàng, hỉ Tị Dậu hội cục để sinh Quý thủy, địa vị tới Tỉnh trưởng.

(10) Kỷ Sửu, Kỷ Tị, Kỷ Dậu, Mậu Thìn
Quang Tự năm thứ 15, tháng 5, ngày 4, giờ Thìn.
Mệnh Ngũ Nãi Mô: Tị Dậu Sửu hội cục, sinh Thìn trong có Quý thủy, hỉ Thai Nguyên Canh Thân, được Canh lộc lấy sinh Nhâm thủy, chính là chỗ thổ nhuận kim sinh, mệnh phú quý.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
Ngũ nguyệt Kỷ thổ
(Tháng 5, Ngọ, Mang Chủng)


(1) Quý Sửu, Mậu Ngọ, Kỷ Tị, Đinh Mão
Hàm Phong năm thứ 3, tháng 5, ngày 25, giờ Mão.
Mệnh Trương Kiển: Quý thủy cùng Mậu thổ hợp hóa, Đinh Kỷ cùng có lộc ở Ngọ, cách thành Tòng Vượng, Đinh Kỷ đồng cung, Mão Tị Ngọ là Tam Thai (ngôi vị Tam công) tụ quý, vận hành Đông Nam, đại khôi thiên hạ, địa vị tới Bộ trưởng Công Thương nghiệp.

(2) Bính Thìn, Giáp Ngọ, Kỷ Sửu, Đinh Mão
Hàm Phong năm thứ 6, tháng 6, ngày 4, giờ Mão.
Mệnh Đoạn Thư Vân: Dụng Sửu cung kim thủy, hỉ vận hành Tây Bắc.

(3) Kỷ Mùi, Canh Ngọ, Kỷ Sửu, Tân Mùi
Hàm Phong năm thứ 9, tháng 5, ngày 20, giờ Mùi.
Mệnh Lý Thịnh Đạc: Thổ nhuận kim sinh, không phú cũng quý, hỉ Sửu cung Quý thủy đắc dụng, mệnh phú quý kiêm toàn, địa vị tời Đốc phủ.

(4) Ất Hợi, Nhâm Ngọ, Kỷ Mùi, Kỷ Tị
Quang Tự năm thứ nhất, tháng 5, ngày 23, giờ Tị.
Mệnh Lý Trưng Ngũ: Địa chi Tị Ngọ Mùi thành phương, Nhâm thủy xuất can, đắc lộc ở Hợi, tiếc là không có kim tương sinh, thủy không có gốc dễ khô cạn, là hư vinh mà thôi.

(5) Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Kỷ Tị, Ất Hợi.
Quang Tự năm thứ 15, tháng 5, ngày 24, giờ Hợi.
Mệnh Đặng Tích Hậu: Canh thấu Nhâm tàng, dụng Nhâm thủy, địa vị tới Quân đoàn trưởng, mệnh phú quý đầy đủ.

(6) Đinh Dậu, Bính Ngọ, Kỷ Hợi, Kỷ Tị
Quang Tự năm thứ 23, tháng 5, ngày 11, giờ Tị.
Mệnh Chu Quang Mộc: Lấy Tị Dậu kim hội cục, sinh Hợi cung Nhâm thủy, cũng là mệnh phú quý đầy đủ.

Lục nguyệt Kỷ thổ
(Tháng 6, Mùi, Tiểu Thử)


(1) Tân Mão, Ất Mùi, Kỷ Sửu, Ất Sửu
Đạo Quang năm thứ 11, tháng 6, ngày 9, giờ Sửu.
Mệnh vua Văn Tông nhà Thanh (hiệu là Hàm Phong): tứ trụ thổ nhiều, dụng Tân kim tiết thổ khí, chế Ất mộc, kim ở can năm, có thể hiểu mệnh chuyên hưởng phúc ấm ở trên che chở.

*Hàm Phong (Thanh Văn Tông, 17.7.1831 – 22.8.1861), là vị Hoàng đế thứ 9 của triều đại nhà Thanh

(2) Nhâm Dần, Đinh Mùi, Kỷ Mão, Ất Hợi.
Đạo Quang năm thứ 22, tháng 6, ngày 2, giờ Hợi.
Mệnh Ngũ Đình Phương: Nhâm thủy hợp Đinh hóa mộc, Hợi Mão Mùi chi tụ mộc cục, Ất thấu Giáp tàng, cách thành Tòng Sát, vận hành Đông phương, địa vị là Tổng trưởng Ngoại giao, kiêm quản lý nội các, ( tháng 6 Kỷ thổ đang vượng mà Tòng Sát, Trích Thiên Tủy gọi chỗ này là Can âm tòng thế vô tình nghĩa vậy).

*Ngũ Đình Phương (9.7.1842 - 23.6.1922) là chính trị gia cuối thời Thanh mạt và đầu thời Dân quốc.

(3) Ất Hợi, Quý Mùi, Kỷ Hợi, Tân Mùi.
Quang Tự năm thứ nhất, tháng 7, ngày 5, giờ Mùi.
Mệnh Tằng Dục Tuyển: Quý Tân lưỡng thấu, tiếc là tứ trụ không có Bính, khí Kỷ thổ hư hàn, địa vị tới Tổng trưởng Giao thông.

(4) Mậu Thìn, Kỷ Mùi, Kỷ Mùi, Canh Ngọ.
Đồng Trị năm thứ 7, tháng 6, ngày 13, giờ Ngọ.
Nữ mệnh, tháng Tứ Quý, tổng luận có nói Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ quý, lấy tháng Mùi là cực vượng, chỗ này là thổ đến tháng Mùi, tứ trụ thổ trọng, đa số là hỏa viêm thổ táo, không lấy Giá Sắc luận, nhưng thổ đến tháng này, thấy kim kết cục, không quý cũng phú. Sách nói: Thổ gặp tháng tứ quý thấy nhiều kim thì lấy quý luận, tháng Mùi càng nặng, tạo này chính là nói hợp thổ trọng thấy kim kết cục, là Giá Sắc cách vậy (thấy hỏa là hỏa viêm thổ táo thì vạn vật đều bị khô héo), quý là nhất phẩm phu nhân, gặp nhiều lần Ngũ phúc.

Ghi chú: Phúc, những sự tốt lành đều gọi là phúc. Kinh Thi chia ra năm phúc. (1) Giàu 富 (2) Yên lành 安寧 (3) Thọ 壽 (4) Có đức tốt 攸好德 (5) Vui hết tuổi trời 考終命.

descriptionLuận THỔ EmptyRe: Luận THỔ

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết