KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Luận HỎA

descriptionLuận HỎA EmptyLuận HỎA

more_horiz
Luận HỎA

Viêm Hỏa là chân hỏa, trấn giữ vị trí phương Nam, cho nên hỏa không thể không có cái lý sáng tỏ của mình, phát sáng không lâu, rồi đều phải phục tàng, cho nên hỏa tuy sáng tỏ nhưng không thể không có tượng phụt tắt. Hỏa lấy mộc làm thể, không có mộc thì hỏa không thể kéo dài được sự cháy sáng. Hỏa lấy thủy làm dụng, không có thủy thì Hỏa cực kì mãnh liệt, vì thế hỏa cường thịnh thì không có thực, Hỏa cháy rực thì làm tổn thương vạn vật. Mộc có thể ẩn tàng hỏa, đến phương Dần Mão mà sinh hỏa, bất lợi ở phương Tây, gặp phải Thân Dậu thì nhất định phải chết. Sinh ở vị trí của quẻ Ly, quyết đoán có triển vọng, nhược bằng ngụ tại cung Khảm, cần phải cẩn thận kính phục và tuân thủ lễ phép.

Tổng luận về tính chất của hỏa, phương Nam là Tỵ Ngọ Mùi thuộc vị trí của quẻ Ly, bản chất của hỏa là nóng và sáng. Lấy mộc làm chủ thể, thì hỏa có chỗ nương tựa, mà hiển lên được cái đức quang minh, xán lạn của mình. Lấy thủy làm đối tượng, thì hỏa có chỗ để làm bốc hơi, mà bộc lộ được cái dụng cứu tế của mình, Bính hỏa sinh vượng, không rời Nhâm thủy, Đinh hỏa suy kiệt, không rời Giáp mộc, tính chất của chúng có khác nhau. Tính chất của hỏa thì viêm nóng, hành ở phương Đông Nam, tính thuận với hỏa thì phồn thịnh vinh quang, hành hướng Tây Bắc, tính nghịch với hỏa, dần vào tàn lụi, cho nên sinh ở phương Nam là quyết đoán có triển vọng, sinh ở phương Bắc, thận trọng kính phục. Vận trình liên tục thì hỷ Đông Nam, kị Tây Bắc, tại Viêm thượng cách mà hành vận Tây Bắc quả là chẳng quý (1).

Kim được hỏa mà hài hòa thì có thể đúc nóng. Thủy được hoả mà hài hòa lại thành cứu giúp. Hỏa gặp phải thổ thì tính sáng bị mờ, chủ vượng mà bị lấp kín. Gặp mộc nơi vượng, nhất định là tươi tốt, mộc tử hỏa hư, khó được vĩnh cửu, dẫu có công danh, tất không thể lâu dài. Mùa Xuân kị gặp mộc, xấu thì bị thiêu đốt; mùa Hạ kị gặp thổ, xấu thì bị mờ tối; mùa Thu kị gặp kim, kim khó khắc chế; mùa Đông kị gặp thủy, thủy vượng thì diệt. Do đó Hỏa mùa Xuân mong được viên nóng, viêm nóng mà không được đủ đầy; Hoả mùa Thu thì mong được tàng phục không muốn sáng rõ, bừng lên thì rất khô hanh; Hỏa mùa Đông thì mong được sinh mà không muốn chết, chết tức là tàn lụi vậy.

Tổng luận về tác dụng khi hỏa khi gặp kim thủy thổ mộc, đều lấy trung hòa làm quý. Hỏa gặp kim, danh hỏa luyện chân kim, gặp thủy thì nổi tiếng vừa cứu tế thành công, gặp thổ thì ánh sáng bị mờ tối, gặp mộc thì hỏa sáng rực. Mộc với hỏa gắp bó với nhau, mùa Xuân mùa Hạ nếu hỏa gặp mộc nhiều thì quá vượng liệt, bởi quá sung túc mà tự thiêu mình, nhưng mộc suy thì hỏa tắt, lại hiềm không đủ. Do đó Xuân kị mộc giàu, Hạ kị thổ vượng, Thu Đông hỏa hư nhược nên kim nhiều thì hỏa không thể khắc chế nổi, thủy vượng thì hỏa bị áp chế cho nên lúc này lại cần thổ mộc đến cứu giúp.

Hỏa sinh các tháng mùa Xuân, mẹ vượng con tướng, thế lực song hành.

Hỏa là đại biểu của khí hậu ba tháng mùa Hạ, khí của nó là nắng nóng. Cung Dần tàng Giáp mộc đương vượng, tàng Bính hỏa Trường sinh, cho nên mới nói "mẫu vượng tử tướng" là vậy. Tướng biểu hiện sự tuần tự, nhưng cũng là sự bổ trợ cho nhau, Bính hỏa tuy là khí của phương sinh, nhưng cũng là nơi mộc đương vượng, vì vậy mà thế lực của chúng song hành với nhau, dương khí quay trở lại mặt đất, vũ tuyết khi sương (cười ngạo đẩy lùi sương tuyết), hiện tượng đó quá uy mãnh, đây chính là tính chất của Hỏa ở mùa Xuân vậy.

Khí của trời đất, khí của thủy hỏa cũng thế thôi (tức khí hậu nóng lạnh), cho nên hỏa sinh ở Dần, thủy sinh ở Thân, kim sinh ở Tỵ, có vị trí khác nhau, mộc là tiên phong của hỏa, kim là tiên phong thủy, tháng giêng mộc vượng hỏa sinh, thế lực của chúng đồng thời cùng đến, đó là thế lực tự nhiên vậy.

Tuy mừng có mộc đến sinh phù, nhưng không thích với quá vượng, vượng thì hỏa viêm nóng. Mong có thủy đến cứu trợ, nhưng cũng không thích hợp nếu thủy quá thịnh, thủy thịnh quá chẳng khác nào vứt bỏ cái ân huệ của nhau.

Đầu mùa Xuân, khí lạnh còn dư thừa mà chưa hết, thì Mộc mượn Hỏa để sinh trưởng, mà Hỏa cũng mượn Mộc để sinh tồn. Khí của tháng giêng là khí dương hòa, tức là tượng của mộc hỏa hợp nhất, cho nên nói: hỉ mộc sinh phù. Tháng 2,3 dương khí hưng thịnh, mộc ít hỏa sáng, mộc nhiều sẽ che lấp hỏa, cho nên không cần mộc quá vượng, vượng thì hỏa cháy mãnh liệt, dương khí khô khát, thích hợp có thủy đến điều hòa. Mộc của ba tháng mùa Xuân là lúc vượng thịnh, tự nó có thể hợp với thủy để sinh hỏa, nên gọi là thiên hòa địa lợi, vừa cứu trợ cho nhau vừa có thành tựu. Nếu là thủy quá phồn thịnh, mộc ướt thì không thể cháy được, không thể không nhờ vào thổ chế thủy, làm mất đi ý nghĩa của sự điều hòa, như vậy không xứng với cái ân huệ của khí dương hòa ngày Xuân rồi, bởi thế hỏa mùa Xuân dụng Thực chế Sát không phải là thượng cách.

Thổ thịnh thì xấc xược làm hỏa mờ tối, hỏa thịnh làm "Thương đa" khô cháy.

Lời trên chính là nói tới hỏa khi gặp Thực Thương vậy, thổ được thủy làm cho tươi nhuận thì sinh vận vật, thổ gặp hỏa táo (thiếu nước) gây ra hạn hán cháy khét nứt nẻ, do đó hỏa thổ Thương quan là cách cục duy nhất khó có thể đạt tú khí. Thổ thịnh mà hỏa ít, thì ánh sáng của hỏa bị mờ tối; hỏa thịnh thổ nhiều, thì hỏa nóng thổ khô, sinh cơ bị tận diệt (Thổ là Thương quan, "Thương đa" tức Thổ nhiều), vì thế Bính hỏa không sợ Nhâm thủy mà chỉ sợ Mậu thổ vậy. Cục "hỏa viêm thổ táo" nếu dụng Kiếp dụng Tài đều không thể không có thủy làm phụ giúp; dụng mộc để khai thông thổ, không có thủy tức mộc bị cháy; dụng kim tiết thổ, không có thủy thì kim bị nóng chảy. Cho dù hỏa vượng thành phương cục, cũng chỉ nên có một hai điểm thấp Thổ, không nên quá nhiều, như vậy mới hữu ích.

Gặp Kim có thể phát huy công dụng, dẫu trọng kiến dụng Tài thì từng bước nổi bật.

Đây chính là nói về dụng Kim vậy. Kim tại ba tháng mùa Xuân thuộc vị trí Tuyệt Thai Dưỡng cho nên khí thế yếu ớt, trong khi thế lực của hỏa đang hướng vượng, lực khắc kim chắc chắn có dư, cho dù kim có nhiều đến mấy cũng không thể gây khó khăn cho hỏa, bởi vậy gặp nhiều mà dụng được Tài thì càng ngày càng tốt đẹp (2). Tài cho ta sử dụng thì nhất định là phú cách.

Hỏa ở các tháng mùa Hạ, nắm lệnh thừa quyền.

Ba tháng mùa hè là nơi hỏa chủ vượng, khí nắm thời lệnh, là lúc đương quyển, đây chính là thể tính của Hỏa mùa hè vậy.

Gặp thủy chế thì tránh khỏi cái họa tự thiêu, thấy mộc trợ nhất định chuốc phải nạn chết yểu.

Lời trên là nói đến hỏa mùa Hạ hỷ Sát kỵ Ấn, cái nóng làm khô hanh mãnh liệt, đến vàngtrong đá cũng chảy ra lấp lánh, nếu không có thủy điều hòa ắt gặp họa tự thiêu, mùa hạ nắng nóng cho nên mừng có trận mưa rơi. Tình thế nắng hè chói chang không thể đến gần được, vậy mà còn lấy mộc trợ sẽ thành thái quá, khó có thể sống tiếp được, quá nhiều thành chết yểu là do vậy.

Được sửa bởi Admin ngày 16/10/2024, 08:58; sửa lần 1.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Gặp kim tất có được công trình tốt, đắc thổ thì dần trở thành Giá Sắc. Kim thổ tuy đẹp đẽ sắc bén, nhưng không có thủy thì kim khô thổ cháy khét, lại thêm mộc đến bang trợ, thì thái quá mà có nguy cơ sập đổ.

Đây chính là nói về dụng Tài dụng Thực Thương vậy. Bàn về kim Tài, bởi kim ở vào ba tháng mùa Hạ, khí cực suy nhược, nhân vì hỏa đương vượng, tựa như cho kim vào lò lửa, luyện rèn mà thành khí cụ, cho nên hỏa trưởng ở mùa Hạ lại có kim trùng điệp, nhất định là cách cự phú. Luận vể thổ Thực Thương, đắc thổ tiết khí hỏa, thành cách Giá sắc, (Thổ chủ về các tháng cuối của bốn mùa, tên gọi là Giá sắc cách, hỏa mùa Hạ gặp thổ, là hỏa thổ Thương quan, nhưng cùng với Giá sắc mà dụng Hỏa thì cũng giống nhau cả thôi). Nhưng bất luận dụng Tài, dụng Thực thương, đều không thể không có thủy phối hợp, thổ nhuận thì vừa nóng vừa ẩm, khi có mưa lớn sẽ lưu thông, giống như mạ non phát triển thành mùa màng tươi tốt. Nếu không có thủy, hỏa vượng thổ cháy, vạn vật lụi tàn, vì vậy mà mất đi ý nghĩa của Giá sắc cách. Hỏa gặp kim càng thích hợp lấy thấp Thổ làm thành khuôn mẫu, tiết hỏa để làm lợi cho kim, thế mới trở thành khí cụ tốt (các tháng Tị Ngọ Mùi, mỗi tháng đều có thể dụng thổ, được thủy thì tự có khả năng nhuận thổ sinh kim). Bằng không, hỏa vượng thì kim bị nóng chảy, cùng nhau trở thành tro bụi, lại thêm mộc trợ, không thể tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ. Vì vậy ở các tháng mùa Hạ nóng bức, bất luận dụng Tài hay Thực Thương, thì đều không thể thiếu thủy được.

Hỏa sinh các tháng mùa Thu, thể ngừng tính nghỉ

Hỏa ở vào ba tháng mùa Thu, khí thế suy thoái, như mặt trời quá Ngọ chuyển tới hoàng hôn, ánh sáng tuy vẫn còn chiếu rọi, nhưng không thể kéo lại cái uy mãnh liệt của cái nóng buổi đang trưa, đây chính là tính chất của hỏa trong mùa Thu vậy.

Được mộc sinh, thì mừng bởi ánh hỏa được phục hồi. Gặp thủy khắc, khó tránh khỏi họa bị dập tắt mà bỏ mình.

Đây nói đến sự liên hợp của hỏa, hỷ Ấn kỵ Quan Sát. Khí hỏa đã suy, ánh sáng chiếu rọi chẳng còn bao lâu nữa, mừng được mộc sinh thì có tượng ánh sáng được hồi phục, dưỡng hỏa đang suy, gặp thủy khắc thì khó tránh khỏi cái mừng bị tổn diệt. Kế Thiện Thiên nói rằng: Bính lâm vào vị trí Thân gặp dương thủy, khó giành được tuổi thọ dài lâu. Đây chính là nói đến hỏa mùa Thu vậy, song có mộc đến cứu giúp, thì có thể phản khắc thành sinh, do đó hỏa mùa Thu nếu dụng Quan Sát đều không thể không có Ấn.

Thổ trọng thì che kín ánh sáng, kim nhiều thì tổn thương thế lực của hỏa, hỏa gặp hỏa thì lấy lại ánh sáng rực rỡ, dẫu trùng trùng gặp lại thì càng có lợi.

Đây nói về hỏa mùa Thu dụng Thực Thương, dụng Tài, không thể không có Tỷ Kiếp vậy. Thế hỏa suy yếu, gặp thổ trọng làm mờ đi ánh sáng của hỏa. Kim vượng nắm lệnh, không khỏi làm hỏa lộ ra năng lực khắc chế, do vậy gặp Kim nhiều thì thế của hỏa cũng chịu tổn thất (3). Thổ là Thực Thương, kim là Tài, gặp thổ trọng thì kim nhiều, chỉ được Tỷ Kiếp tăng cường trợ lực cho hỏa thì mới có thể dụng Thực thương, dụng Tài, vì vậy mới nói dẫu có trùng trùng gặp lại (Tỷ Kiếp trùng trùng) thì nhất định càng có lợi.

Hỏa ở tháng mùa Đông, thể tuyệt hình vong.

Hỏa tới cung Hợi là lâm Tuyệt địa, sang hai cung Tý Sửu mới là lúc tiếp tục được ấp ủ, như vậy khí thế vừa mất lại được nối lại liền mạch. Không chỉ suy tuyệt mà hình thể cũng chẳng còn, đó là tính chất của hỏa trong mùa Đông.

Hỷ mộc sinh mà có cứu, gặp thủy khắc coi như tai họa.

Mùa Đông hỏa gặp mộc, thực là tuyệt sứ phùng sinh, vì thế cho rằng "có cứu" là như vậy. Trong lúc thủy đương vượng, lại lấy vượng thủy khắc hỏa suy, không có mộc cứu, nhất định phải chịu tai ương, cho nên hỏa mùa đông không thể xa rời mộc được.

Mong thổ chế làm vinh, thích hỏa Tỷ làm lợi, gặp Canh Tân mà khó đảm nhận được Tài, trái lại thành bị hại. Qua Đông chí, nhất dương (4) phục hồi trở lại, lí khí tuần hoàn.

Lời trên ý nói hỏa ở tháng mùa Đông dụng Ấn, càng nên lấy Thực Thương Tỷ Kiếp phối hợp. Ba tháng mùa Đông thủy vượng lệnh, gặp hỏa tất khắc, dụng mộc sinh hỏa, càng cần có thổ chế thủy. Nếu chỉ thấy hàn thổ một mình thì lực không thể đủ, lại càng cần có Bính Đinh đến trợ giúp, hỏa thổ tương trợ nhau, mới có thể sưởi ấm cho mộc mà bảo vệ hỏa. Kim mùa Đông tuy yếu, nhưng chắc chắn hỏa đang suy tuyệt cũng không thể nào khắc Tài Kim nổi, thân nhược trái lại càng bị khốn đốn. Huống hồ Quan Sát đương lúc thịnh vượng, được thêm kim sinh trợ, lấy thế bức hỏa suy, không phản ngược lại gây hại không được. Mặc dù, đại khí tuần hoàn, đầu tiên phải phân ra nóng lạnh, rồi xem tổng số thủy hỏa âm dương có bao nhiêu, hỏa tại Đông chí ở giữa ranh giới tuyệt diệt, nhất dương đến phục hồi, sinh cơ đã ngừng lại động, cho đến lúc khí tiến nhị dương, (tháng 12) địa khí thăng lên, lại vũ tuyết khi sương, bởi thế tháng 12 Bính hỏa mà gặp Tỷ trợ, ngược lại lấy vượng để luận bàn.

Lý của ngũ hành, chỉ có thịnh suy, vĩnh viễn không có tuyệt diệt, nhất khí tuần hoàn, vòng qua vòng lại, không riêng gì thủy hỏa mới như vậy, mà ở đây chỉ lấy thủy hỏa để nói ra điểm then chốt của tổng thể ngũ hành, hàm ý thủy hỏa cũng là trong ngũ hành rồi.

Chú thích:

(1) Viêm thượng cách: Nhật can Bính Đinh, sinh ở mùa Hạ, địa chi toàn là Tị Ngọ Mùi phương Nam; hoặc Dần Ngọ Tuất kết thành Hỏa cục, không có Nhâm Quý Hợi Tý, cấu thành Viêm thượng cách. Lấy hỏa làm dụng thần, kỵ thủy khắc diệt, mừng có mộc thủy tương trợ, gặp thổ thổ tú cũng thiện, gặp kim là Tài, có thổ thì Tài không ngại. (theo Thiên Lý Mệnh Cảo)

(2) Hỏa mùa Xuân trọng kiến dụng Tài kim, không chỉ nói đến nguyên cục mà bao gồm cả đại vận, càng gặp càng phát tài. (ND)

(3) Đây cũng là một tình huống "Tài đa thân nhược". (ND)

(4) Nhất dương: chỉ một hào dương của quẻ Chấn, biến chuyển từ quẻ Khôn (tiết Đông chí) trước đó có 3 hào âm. (ND)

descriptionLuận HỎA EmptyBính Hỏa sinh ở 3 tháng mùa Xuân

more_horiz
Tổng luận Bính Hỏa sinh ở 3 tháng mùa Xuân.

Bính hỏa sinh ở 3 tháng mùa Xuân, tượng là chủ trì đến mức uy nghiêm, dương về mặt đất, coi thường tuyết ức hiếp sương, chuyên dụng Nhâm thủy, là Thủy trợ giúp dương sáng, chứ không phải khắc Bính vậy. Danh viết thiên hòa địa nhuận, đã cứu giúp mà công thành vậy, hoặc Thổ nhiều là quần Thổ trở thành hiền từ, không tiết Bính hỏa chính là giả Bính vậy. Tháng giêng chuyên dụng Nhâm thủy, lấy Canh kim làm phò tá, tháng 2 chuyên dụng Nhâm thủy, tháng 3 thổ trọng hối Hỏa ( làm mờ Hỏa), dụng Nhâm thủy lấy Giáp làm phò tá mới là kì diệu.

Bính hỏa tháng 3, dương về mặt đất, đồng thời cùng đến với Mộc khí, Mộc vượng hỏa tướng, thế lực song hành. Bính làm khí thuần dương, tương ngộ một cách rất đặc biệt, tốt tươi phồn thịnh, coi thường và ức hiếp tuyết sương, tầng tầng băng đá được giải trừ. Chính vì lẽ đó mà hiển lên được cái dương oai vậy. Bính hỏa không có Nhâm thủy, cô dương mà mất hỗ trợ, khí thế không trong sạch, cho nên lấy gặp Nhâm làm quý. Danh viết: Thủy trợ giúp dương quang, tức không phải là khắc Bính vậy. Giáp mộc tháng giêng đắc lộc, nguyệt lệnh tự có Mộc khí, có thể thông hiểu được cái tình của Thủy Hỏa. Cho nên mới nói địa nhuận thiên hòa, vừa có thành công cứu giúp vậy, thế của Bính hỏa là viêm nóng, gặp Thổ nhiều thì cứu giúp được cái uy của nó, Hỏa vượng vô Thủy, thì dụng Thổ để tiết bớt khí Hỏa vượng, cách cục nhiều phú mà thiếu quý vậy, giả như lấy làm dụng, bắt buộc phải nhớ thứ tự của nó vậy. Bính hỏa sinh vào 3 tháng mùa Xuân đều lấy Nhâm thủy làm tôn quý. Đặc biệt tháng giêng Nhâm thủy ở vào Tuyệt Địa, Giáp mộc sinh vượng, cho nên dụng Nhâm lấy Canh kim làm phụ tá, tháng 3 Thổ trọng, lấy Giáp mộc làm phò tá, Thổ trọng làm mờ ánh sáng của Bính và ngăn chặn sự lưu chảy của Nhâm, có Giáp mộc giải cứu, thì Thủy trợ Dương quang, như vậy vẫn thanh trong để dành được sự quý.

Bính hỏa sinh vào mùa Xuân, tiết trời âm u, ngày Bính sinh vào mùa Xuân, Giờ Tháng xuất Quý, mây mù không phân biệt được với mưa sương, không hiển đạt vậy, không như Nhâm thủy trợ giúp Bính vậy.

Trình bầy chi tiết ý nghĩa đoạn văn trên, Bính hỏa sinh vào ba tháng mùa Xuân, dụng Nhâm không dụng Quý, Bính hỏa gặp Nhâm, óng ánh trong veo, hợp nhau lại càng tăng thêm sức mạnh, Quý Bính cùng gặp, tiết trời âm u, mây mù không phân biệt được với mưa sương, làm mất đi tác dụng của Bính hỏa, cho nên gặp Nhâm là quý, gặp Quý thì không phải là quý, không chỉ có ba tháng mùa Xuân là như vậy.
Dương can là khí sinh vượng, khí thế của nó mới khuếch trương, âm can là khí suy kiệt, công thành thân giảm sút, cho nên dương can nhất định phải dương can tương khắc, thì cùng bổ sung cho nhau thì càng tốt, như Giáp mộc hỷ Canh kim chẻ Giáp, Bính hỏa hỷ Nhâm thủy trợ giúp ánh sáng để chiếu rọi, Mậu thổ hỉ Mộc khai thông, Nhâm thủy hỉ Mậu thổ đê phòng, đều không phải tương khắc, chỉ có Canh kim hỉ Đinh hỏa, lợi dụng tính vượng của nó mà không phải viêm nóng, để trở thành công lao rèn đúc, đây là sự khác biệt của tính chất 5 can dương vậy, dương gặp dương để sinh vượng làm quý. Nếu như gặp can âm, có tình ý muốn khắc, thì không đủ lực để khắc, cách cục là thứ thôi, không chỉ có Bính hỏa gặp quý thủy là như vậy, mà lý của ngũ hành có thể tương thông.

Bính hỏa sinh vào tháng giêng

Tháng giêng tam dương khai thái, Hỏa khí dần nóng, lấy Nhâm làm tôn quý, Canh kim làm phò tá.

Tháng giêng Giáp mộc đắc lộc, nguyệt lệnh tự có Mộc khí, Mộc vượng hỏa tướng, tất lấy Nhâm thủy làm đối tượng (người yêu), mới hiển lên được cái tượng trong sáng, Tuyệt địa của Thủy ở cung Dần, cho nên lấy Canh kim làm phò tá.

Nhâm Canh cùng thấu, nhất định có khoa bảng. Cho dù Nhâm thấu Canh tàng, tuy không phải do khoa giáp, thì cũng phù hợp với đươc ân phong bằng con được khác biệt nào đó.

Nhâm Canh cùng thấu, Tài lộ Ấn tàng, cả hai không ngăn cản nhau, lấy Tài sinh Sát, lấy Ấn hóa Sát, đương nhiên hiển đạt. Nếu Nhâm thấu Canh kim tàng ở Thân và với Dần tương xung , Dần Thân là sinh địa của Bính Nhâm, mà còn làm dụng thần sở tại vậy, xung lẫn nhau không phải là cát, nhưng cách xa nhau thì không ngại. Thủy giúp Dương quang, vẫn có thể dành được quý vậy, duy không phải chỉ bằng con đường khoa giáp mà có thể bằng con đường khác biệt nào đó.

Nếu như một Nhâm cao thấu, có một hai Bính tàng ở Dần Tỵ. Cho dù nạp túc Tần danh*, cũng có thể có thời kì hiển chức, là người có phong cách khẳng khái tài hoa, quang minh lỗi lạc, có tài bước trên nhiều người.

Người Bính dụng Nhâm, lấy thân vượng là ý nghĩa trọng yếu đầu tiên, căn gốc lấy chi làm trọng, Bính hỏa thông căn Dần Tị, nhật nguyên đương nhiên vượng. Đoạn văn trên nói Nhâm Canh lưỡng thấu dụng Tài sinh Sát vậy. Nói như vậy chỉ một Nhâm thấu mà không có Canh, Bính hỏa thông căn ở Dần Tỵ, giả như Sát làm quyền, tính Bính hỏa dương cương, được Nhâm thủy phù trợ ánh lửa sẽ sáng chói, cho nên chủ khẳng khái anh hào, lỗi lạc, quang minh.

Hoặc Bính ít Nhâm nhiều mà không có Mậu chế, Sát trọng Thân khinh, người này ngoài thì tươi cười trong thì nham hiểm ( miệng nam mô, bụng bồ dao găm), lớn gan lưu manh côn đồ, gặp được một Mậu chế Nhâm, đó là đại phú đại quý. Nhưng thích hợp gặp một hai Tỉ Kiên mới tuyệt diệu.

Bính ít Nhâm nhiều, Sát trọng Thân khinh, tháng giêng Mộc khí đương vượng, có Ấn hóa Sát, không đến nỗi thương hại thân, nhưng Sát nhiều không cát, có Mậu chế Nhâm, liền thành phú quý. Nhưng dụng Thực chế Sát, cũng cần thân vượng, bằng không, khắc tiết đan xen ( lẫn lộn), cho nên rất cần một hai Tỉ Kiên giúp thân mới là tuyệt diệu, bên trên nói về dụng Nhâm thủy, là con đường phát triển đúng đắn của Bính hỏa trong tháng giêng.

Hoặc một bè Canh Tân hỗn tạp, người bình thường, hoặc trên trụ giờ và trên trụ tháng cùng thấu Canh Tân, tú tài. Hoặc trụ năm có Tân trụ giờ có Tân, gọi là tham hợp, chắc chắn là người ham mê tửu sắc, nữ mệnh cũng cùng một lý đó thôi, khó lập được nghiệp cho bản thân, khó được thừa hưởng gia sản của tổ tiên.

Nói như vậy thì lấy Tài làm dụng, Bính hỏa gặp Tân thì hợp, vậy Bính hỏa mất đi tính dương cương của nó. Do đó khi dụng thì chỉ thích hợp với Canh mà không thích với Tân, trụ giờ trụ tháng cùng thấu Canh kim, như tháng Canh Dần giờ Canh Dần vậy, Thân vượng đảm nhiệm Tài mà Tài lâm Tuyệt địa, chủ thanh quý mà thôi. Nếu lưỡng thấu Tân kim, Bính Hỏa Tham hợp, thì Bính hỏa mất đi bản tính của nó, lạc vào mê lộ mà không biết quay trở lại, tình thế là như vậy đấy.

Hoặc một khối Mậu thổ tiết, Giáp không xuất can, khó thành nhân tài, mà e rằng bần tiện chết ở bên ngoài. Cho nên Bính hỏa sinh vào tháng giêng, tối kị Mậu thổ làm mờ ánh sáng (của Bính hỏa). Hoặc chi thành Hỏa cục, chuyên lấy Nhâm thủy làm thanh quý, không có Nhâm, Quý cũng có thể dùng tạm. Nếu Nhâm Quý đều không, thì lấy Mậu để tiết Hỏa khí, nhưng thuộc loại bình dân thôi.

Nói như vậy là Thực thần làm dụng vậy. Bính hỏa sinh vào tháng giêng, cung Dần tự có Mộc khí sinh, vốn không cần Giáp mộc xuất can. Nếu một khối Mậu thổ che mờ ánh sáng, thì không thể không mượn Giáp mộc xuất can để cứu, thành Thực thần bội Ấn vậy. Bởi thế Bính hỏa sinh vào tháng giêng là khí của phương sinh, gặp Mậu thổ thì ánh sáng bị che mờ, cho nên là tối kị. Cho dù chi thành hỏa cục, không có Nhâm, Quý có thể dụng, bất đắc dĩ mới dụng Mậu thổ tiết hỏa khí, vậy cũng không phải là thượng cách. Cho nên dụng Tài dụng Thực thương, đều là thuận theo cục mà phối hợp, đó chính là giả thần chứ không phải chân thần, dụng Quý thì trời âm u do sương mù bao phủ ( xem tổng luận), thì cũng là giả thần, đều là những mệnh tạo tầm thường vậy.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Hoặc chi thành hỏa cục, lại lấy Viêm thượng cách luận, nhưng chi thành mà không được lệnh, vận không gặp Đông nam, thì trở thành cô bần.

Tháng giêng gặp Dần, gặp thêm Ngọ Tuất, hội thành hỏa cục, Tứ trụ không có Nhâm Quý, là thành Viêm thượng cách, cần phải được sinh ở tháng Tỵ Ngọ mới là đắc thời đắc lệnh, sinh vào 3 tháng mùa Xuân, chuyên vượng thất thời, phải hành Đông nam vận trình trợ giúp, thì có thể phú quý, bằng không, chỉ là mệnh cô bần, ( Đông Nam mới chuẩn, trong bản in của các phường khắc in là Đông Tây điều này rất sai lầm). Thông thường thành cách không nhất định là quý, nói chung cần phải phối hợp được thích hợp, mà cách cục chuyên vượng, đặc biệt cần đắc thời đắc địa làm yêu cầu. Phàm viêm thượng cách nhất định cần phải hành vận Đông Nam. Cho dù gặp thời đắc lệnh, thì cũng không được rời ý này. Từng găp một tạo: Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Bính Ngọ, Giáp Ngọ. Đẹp ở đắc thời, tuy nhiên cẩn trọng nhu nhược, sinh ra chỉ là người như bình thường vậy.

Hoặc Tứ trụ có Giáp mộc, được Canh kim ám chế, có thể làm tú tài.

Nói như vậy là dụng Tài tổn Ấn vậy. Giáp mộc sinh vào tháng giêng Lâm quan. Nếu như tứ trụ gặp nhiều Giáp mộc, thì Mộc thịnh Hỏa hàn, được Canh kim ám chế mới là kì diệu. Tiết này với phần trên đang bàn về trụ giờ và trụ tháng cùng thấu Canh kim với ý Canh kim trọng nặng, chỉ là nho lâm tú sĩ, không mất đi sự thanh quý là vậy.

Không có Nhâm dụng Quý, phú quý sơ qua, mà còn Quan Sát cũng cần vượng tướng có căn, Bính hỏa vô Nhâm, phần nhiều chủ bần tiện. Càng nhiều dẫn chứng thì càng nhiều kinh nghiệm, hoặc Hỏa nhiều không có Mộc, vừa đến đất Thủy tất chết, nếu không thì nhất định chủ tai họa bất hạnh, Bính hỏa tháng 5 hợp với Viên thượng cách, cũng không thích Thủy phá cách, dụng Quý vô căn, ắt chủ mắt có tật.

Hai tiết này ý nghĩa đều trùng lặp với đoạn trên, bản sao của sách Tạo hóa nguyên thược đã cắt bỏ, hiện nay chỉ là phần phụ lục. Bính Hỏa sinh vào tháng giêng, không có Nhâm dụng Quý, người dụng Nhâm được kế thừa quý hiển, người dụng Quý thì phú quý sơ qua, bất luận dụng Nhâm dụng Quý, ( Quan Sát) đều phải thông căn vượng tướng, Thủy tuyệt địa ở tháng Dần, vô căn dễ khô cạn, khó giành được phú quý, dụng Qúy vô căn, nhất định chủ mắt bị tật, nguyên nhân là Quý thủy bị sấy cạn vậy, Bính hỏa tất lấy Nhâm làm dụng, khí thế bắt đầu sáng tỏ, vô Nhâm nói chung là không đẹp, kinh nghiệm này là rất tâm đắc vậy. Hỏa nhiều vô Thủy, với Viêm thượng cách cách luận giống nhau, vận đến đất Thủy, vài giọt nước kích ngon lửa Hỏa, không chết thì cũng tai họa, Viêm thượng Cánh với tháng 5 kị thủy phá cách, cùng một lý mà suy ra thôi. ( Tham khảo tiết tháng 5).

Dụng Nhâm thì Kim là thê Thủy làm tử, dụng Canh thì Thổ làm thê Kim làm tử, trước là Nhâm sau mới đến Canh, Nhâm kị gặp nhiều.

Bính hỏa sinh vào tháng giêng, lấy dụng Canh Nhâm làm chính đạo, Tài sinh Sát nhược vậy. Dụng Canh, nếu như Mộc nhiều thì lấy Tài phá Ấn, Thổ nhiều là Thực thần tiết khí. chỉ là thứ cách, Nhâm nhiều dụng Mậu, Mậu nhiều dụng Giáp, lại chỉ là thứ yếu mà thôi.

Bính Ngọ, Canh Dần, Bính Ngọ, Canh Dần.
Hai can không tạp, là quan án sát.
Theo trụ giờ, trụ tháng cùng thấu Canh kim, mà Canh kim vô căn, Dần Ngọ hội cục, Tỉ Kiên xuất can, không thể dùng Tài, chính là Viêm thượng thất thời, hỷ vận hành Đông nam, cho nên quý làm quan án sát.

Canh Dần, Mậu Dần, Bính Dần, Nhâm Thìn.
Canh Nhâm đều thấu, vị đến quan chủ khảo.
Theo mệnh tạo này Thủy vượng xuất can, Mậu thổ là bệnh, hỉ được Canh hóa Thực sinh Sát, vị đến quan chủ khảo.

Canh Dần, Mậu Dần, Bính Thìn, Mậu Tý.
Canh thấu Quý tàng, cự phú, dụng Quý trong Tý. Trạng nguyên
Theo tạo này chuyên dụng Quý thủy trong Tý, Canh thấu hóa Mậu thổ sinh Quý thủy. Không có Canh Quý bị Mậu chế, cho nên trọng yếu là ở Thiên tài. Do đó giàu có to lơn, Quý ở trong cung tử tức Tý chi giờ, cho nên con cũng quý.

Đinh Dậu, Nhâm Dần, Bính Tý, Mậu Tý.
Tú tài. Vận Ngọ chết, trước giầu, sau nghèo mà lại cô đơn.
Theo mệnh tạo này, Đinh hỏa hợp khử Nhâm thủy, Mậu thổ hạn chế Quý thủy, trụ năm Dậu kim sinh Nhâm, cho nên làm Tú tài, tức trước giàu. Trụ giờ gặp Mậu Tý, sau cô độc mà bần hàn, đến vận Ngọ thì chế, thọ nguyên ( tuổi thọ) đến Ngọ, tức lấy Ngọ là tuyệt địa của Tý thủy, song cũng đã ngoài bát tuần rồi. ( hơn 80 tuổi).

Đinh Dậu, Nhâm Dần, Bính Tý, Mậu Tuất.
Là người theo con đường văn hóa, nhã nhặn lich sự, từ sớm đã gian nan về đường con cái, trước giàu sau nghèo thọ cao.
Tạo này với Tạo trên giống nhau, trụ giờ Mậu Tuất lực chế Sát tương đối mạnh, cho nên tử tức gian nan, trước giàu sau nghèo thọ cao, đều giống mệnh tạo bên trên.

Đinh Dậu, Nhâm Dần, Bính Tý, Kỷ Hợi.
Quan Tri châu (1), 5 con đều quý, vào vận Dậu thì chêt.
Theo mệnh tạo này Nhâm thủy cung Hợi trường sinh, lâm Thiên Ất quý nhân, cho nên con nhiều mà quý, Kỷ thổ không đủ để chế Nhâm, lực hối hỏa cũng mỏng, cho nên làm đến Quan Tri châu.

Ất Mùi, Mậu Dần, Bính Thân, Tân Mão
Mộc thịnh dụng Canh, cô bần mà chết yểu.
Theo mệnh tạo này dụng Canh tân kim tạp loạn, Bính hỏa thấu Tân mà sợ chết khiếp, Tân Sửu không thể trừ bỏ được Ất, uổng phí đã có tình rồi lại còn thương khắc.

Mệnh tạo của một người bạn:
Ất Mùi, Mậu Dần, Bính Thân, Canh Dần,
dụng Canh không có Tân, Tài Ấn giao sai, dụng Nhâm thủy cung Thân, xuất thân thế gia, phú quý bậc trung.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Tân Hợi, Canh Dần, Bính Tý, Đinh Dậu.
Trạng nguyên.
Theo mệnh tạo này Tài vượng sinh Sát, Kiếp Ấn cùng dụng, kì diệu ở chỗ Bính Tân cách vị mà không hợp, vận đến Đinh Hợi, Bính Tuất, nên quý vậy.

Kỷ Mùi, Bính Dần, Bính Ngọ, Ất Mùi
Giả Viêm thượng cách, tú tài đại phú.
Theo mệnh tạo này là giả viêm thượng mà Bính hỏa không hề vương. Hai Mùi ở trụ năm và trụ giờ, Kỷ thổ xuất can, dường như dụng Kỷ thổ tiết khí Hỏa, Hỏa Thổ tháng giêng là giả Thương quan không phải thượng cách, như vậy tiết tú sinh Tài, cho nên làm Tú Tài mà giàu có, ( tham khảo thêm Bính hỏa sinh tháng 2). Lấy trong sách Tạo hóa nhuyên thược.

Tân Hợi, Canh Dần, Bính Tý, Ất Mùi.
Giờ Mùi ngày 12 tháng giêng năm thứ 9 đời vua Ung Chính.
Mệnh Chu Khuê: Ví dụ này với ví dụ Tân Hợi chỉ có sai biệt nhất thời. Mệnh tạo bên trên Tài vương dụng Kiếp Ấn, Tứ trụ này Ấn vượng dụng Tài Quan, vận hành Tây bắc, xuất thân khoa Giáp. Thái bình Tể tướng.

Nhâm Thân, Nhâm Dần, Bính Tý, Ất Mùi.
Sinh giờ Mùi ngày 14 tháng giêng năm thứ 17 đời vua Càn Long.
Mệnh Thiết Bảo: Nhâm thấu Canh tàng, dụng mộc hóa Sát, Sát Ấn tương sinh. Tại vị đến Đại sử Tướng soái (tướng soái thống trị một phương, thời Minh Thanh chỉ tổng đốc, tuần phủ).

Nhâm Tý, Nhâm Dần, Bính Ngọ, Canh Dần
Sinh giờ Dần ngày 7 tháng 2 năm 57 đời vua Càn Long.
Mênh Lục kiến Doanh: Nhâm Canh xuất can, Dần Ngọ hội cục, thân Sát đều vượng, Quan chí Tổng đốc.

Mậu Tuất, Giáp Dần, Bính Thân, Kỷ Hợi
Sinh giờ Hợi ngày 23 tháng giêng năm thứ 18 đời vua Đạo Quang.
Mệnh Hồ Tự Tuấn: Thực Thương hối Hỏa, dụng Giáp mộc phá Mậu Kỷ thổ. Làm đến phó bảng, Tri phủ phủ thành phố Bình Lương Đẳng tỉnh Cam Túc.

Giáp Tý, Bính Dần, Bính Thìn, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 14 tháng giêng năm thứ 3 đời vua Đồng Trị.
Mênh Diệp Đức Huy: Canh kim tuy thấu, Nhâm không xuất can, Địa chi Tý Dần kẹp Sửu, Giáp Canh Tài Ấn lâm quý, Dần Thìn kẹp Mão, khí toàn phương Đông, vận Thân xung Dần, phá tan củng kẹp, đau đớn mà chết do tai nạn.

Quý Dậu, Giáp Dần, Bính Ngọ, Quý Tị
Sinh giờ Tỵ ngày 26 tháng giêng năm thứ 12 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Lương Khải Siêu: nhật tọa Dương nhận, Thân vượng dụng Quan, Tý vận xung Nhận, bỏ mạng ở hải ngoại, vận Mậu hợp khử Quan tinh, không có Lộc.

Đinh Sửu, Nhâm Dần, Bính Dần, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 10 tháng giêng năm thứ 3 đời vua Quang Tự.
Mệnh Thẩm Thụy Lâm: Nhâm Canh cùng thấu, Tài sinh Sát nhược, mệnh phú quý.

Mậu Dần, Giáp Dần, Bính Thìn, Bính Thân
Sinh giờ Thân ngày 6 tháng giêng năm thứ 4 đời vua Quang Tự.
Mệnh Dương Thọ Sinh: Chuyên dụng Tài tinh Canh kim cung Thân, mệnh thương gia.

Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Bính Thân, Ất Mùi.
Sinh giờ Mùi ngày 9 tháng giêng năm thứ 8 đời vua Quang Tự.
Mệnh Tôn Đa Giác: Nhâm thấu Canh tàng, Bính hỏa cũng vượng, dụng Ấn hóa Sát, mệnh phú quý.

Tân Mão, Canh Dần, Bính Tuất, Kỷ Sửu
Sinh giờ Sửu ngày 21 tháng giêng năm thứ 17 đời vua Quang Tự.
Mệnh Vương Phổ: Thương quan vượng mà sinh Tài, thích hợp với Ấn Kiếp làm dụng, mừng Bính Tân không hợp, quý làm chủ tịch tỉnh, rồi Thống soái trong quân đội.

Mậu Tuất, Giáp Dần, Bính Ngọ, Mậu Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 22 tháng giêng năm thứ 24 đời vua Quang Tự.
Mênh Đô Cẩm Sinh: Viêm thượng thất thời, Mậu thổ Mậu trọng nặng, nguyệt lệnh Giáp mộc, có thể phá Mậu của trụ năm, mà không thể phá Mậu thổ trên trụ giờ được, không quý mà phú, giờ gặp Hoa Cái, là ngôi sao nghệ thuật, vận hành Đông nam, lấy nghệ thuật làm giàu.

Canh Thân, Mậu Dần, Bính Thân, Ất Mùi.
Sinh giờ Mùi ngày 19 tháng 12 năm thứ 8 thời Dân Quốc.
Phú gia công tử. Tài vượng phá Ấn, e rằng không thọ.

Ghi chú:
1/ Quan Tri Châu: Đây là một chức quan thời cổ đại của Trung Quốc, đến đời Thanh thì quy định Tri Châu thuộc hành ngũ phẩm trở nên. Có Tri Châu thuộc cấp tỉnh và Tri châu thuộc cấp huyên. Tri châu thuộc hai chức Quan có Đồng Tri và Thông Phán. Đồng Tri trông coi việc quản lý tài chính, Thông phấn nắm giữ hình pháp, trị an.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào tháng 2
Bính hỏa sinh vào tháng 2, dương khí dần thăng, chuyên dụng Nhâm thủy.

Bính hỏa thích dụng Nhâm thủy, tháng giêng Giáp mộc nắm lệnh, cho nên dụng Nhâm lấy Canh chế Mộc làm phò tá, tháng 2 dương tráng Mộc khát, chuyên dụng Nhâm thủy, tháng Dần Mão là đất Tử Bệnh của Nhâm, dụng Nhâm cần phải mượn Kim sinh trợ, chính là Giáp mộc tháng giêng hai cách luận giống nhau vậy.

Nhâm thấu không gặp Đinh hóa, hơn nữa Canh Tân cũng thấu, Nhâm thủy hữu căn, khoa Giáp không nghi ngờ gì, hoặc Nhâm tàng chi, cũng chủ tú tài, nhưng tất có Canh Tân mới diệu kì.

Tháng 2 dụng Nhâm, thì Canh Tân làm phò tá, chuyên để sinh trợ, không phải để chế Mộc. Chuyên dụng ở Nhâm cho nên Nhâm thấu lấy trụ có Canh Tân mới là kì diệu, Canh thấu Tân tàng, phú quý không phải nghi ngờ, Nhâm tàng trong chi thì lực mỏng, có Canh Tân sinh, không chỉ Tú tài, Đinh thấu hợp trói dụng thần, cho nên là kị.

Hoặc vô Nhâm Quý, tạm dụng Kỷ thổ, nhưng là thường nhân, tuy có tài năng và học vấn, không được thành danh, song y Lộc sung túc.

Không có Nhâm Quý mà dụng Kỷ thổ, là hỏa thổ Thương quan, chủ thông minh có tài, Ấn ở nguyệt lệnh, Thương thấu Thiên can, hai cái không ngăn cản lẫn nhau là đẹp, Thực Thương vượng đương nhiên có thể sinh Tài, tuy không thể đạt quý, nhưng y Lộc sung túc, là phú cách vậy.

Hoặc nhất phái Nhâm thủy, gặp một Mậu thấu, tuy không khoa Giáp, nhưng không mất đi con đường hiển đạt khác, hoặc không có Mậu thấu, dụng Mậu của tứ khố Thìn Tuất Sửu Mùi, e rằng Quý thủy cung Thìn hợp hóa, không thể chế Nhâm, song cũng có y lộc nhưng làm thường nhân thôi. Nếu Can Chi không thấy được một Mậu, tất là người buôn ba lưu lạc sứ người, hơn nữa Kim nhiều sinh Thủy là mệnh hạ tiện.

Một bầy Nhâm thủy, Nhâm thủy quá nhiều, phải dụng Mậu thổ chế phục, nguyệt lệnh Chính Ấn, Thân vượng có thể gánh vác đảm nhiệm, không mất phú quý, thổ của Thìn Tuất Sửu Mùi, Thìn Sửu đều là thổ ẩm thấp, không thể chế thủy, Mùi gặp Mão hội Mộc cục, có thể tiết Nhâm thủy mà không thể chế, duy chỉ Mậu thổ đồng cung với Tuất, Bính hỏa dương can, nguyệt lênh Chính ấn nắm lệnh, không phải là lý tòng Sát, duy chỉ có dụng chế. Nếu Thất sát vô chế, tất là người buôn ba lưu lạc, Tài nhiều thì che lấp Sát, càng là mệnh hạ tiện.

Hoặc nhất phái Mậu thổ, vẫn lấy Nhâm thủy làm dụng, hỷ hành phương Đông mộc vận, thổ vận chẳng lành, gặp năm Thổ, vận Thổ liền chết, hành Hỏa vận thì truân chuyên.


Bính hỏa lấy Nhâm thủy làm quý, nếu gặp một bầy Mậu thổ, khắc chế Nhâm thủy, tất lấy Giáp mộc chế Mậu làm cứu giúp. Tứ trụ tuy không thấy Giáp mộc, vẫn cần phương Đông mộc vận bổ cứu cái khuyết của nó, duy chỉ căn ở trước mầm, nguyên mệnh không có Giáp, hành Đông phương Mộc vận, phát phúc tuy không đủ , nên vẫn có thể xem là vận tốt nhất, Kim vận có thể hành, Thủy vận không có ích, Hỏa vận trái lại trợ giúp Thổ vượng, do đó là truân chuyên vậy.

Hoặc ngày Bính Tý giờ Tân Mão, giả tòng thất lệnh, tham Tài phá hư Ấn, khó thừa kế tổ nghiệp. Nếu được hai Đinh hỏa trọng phá Tân, Nhâm thủy đắc vị, cũng chủ phú quý, tuy không khoa giáp, thì cũng có cơ đồ khác, phong Thổ tuy mỏng, công danh cũng chỉ cấp huyện mà thôi, sự hợp như thế chủ nhiều thê thiếp, kiêm con cái nhiều.
Có Đinh thì cát, hoặc chi gặp Mùi, thành Mộc cục, trái lại do phản tặc đắc lộc, do rượu mà hưởng lợi.


Nguyên Lý Phú nói rằng: Bính Tý Tân Mão tương hình, hoang dâm trụy lạc. Bởi thế ngày Bính Tý giờ Tân Mão, Bính được chính Ấn, hóa mà không hóa, Nhật chủ hướng Tài, ham tiền (Tài) phá hư Ấn, Bính hỏa gặp Mão là Hàm Trì Đào Hoa Sát. Mộc lấy Tý làm Hàm Trì Đào Hoa Sát, Mộc Hỏa giao nhau, là Đào hoa cuộn sóng vậy, gặp Đinh hỏa khắc Tân, hoặc Nhâm thủy xuất can, khiến cho Tân không hợp với Bính, mà tiết khí ở Nhâm,chính là tương đồng với Nhâm thủy lấy Tân làm phò tá, cũng có hiển đạt. Tài thấu chủ nhiều Thê Thiếp, Nhâm thủy đắc vị, giờ gặp Kỷ Hợi, cho nên chủ nhiều con. Hai Tân tranh hợp, không có Đinh hỏa khử bệnh, tất chủ phóng túng ham mê, có Đinh khắc đi một Tân, thì không có họa tranh hợp. Nhưng dụng Quan tinh Quý thủy trong Tý, mà tiết khí ở Ấn, cũng chỉ là thường nhân thôi. Chi thành mộc cục, thì Tý Mão không hình, nhưng Nhật chủ hướng Tài mà không hướng Quan, dụng ở Quan mà nhật chủ luyến Tài, cho nên chủ do gian trá mà đắc lộc. Chuyên dụng Nhâm thủy, Kim làm vợ Thủy làm con, chuyên dụng Kỉ thổ, Hỏa làm vợ Thổ làm con.

Bính hỏa sinh tháng 2, lấy dụng Nhâm làm chính, không có Nhâm Quý dụng Kỉ thổ.

Kỷ Hợi, Đinh Mão, Bính Thân, Kỷ Hợi.
Trong Thân có Canh sinh Thủy, tiến cử làm quan võ. Nhưng tử tức gian nan. Tứ trụ trên lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Đinh Tị, Quý Mão, Bính Thìn, Quý Tị.
Sinh giờ Tỵ ngày 4 tháng 3 năm thứ 7 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Hàn Quốc Quân: Địa chi cuốn buộc với nhau, dụng Quan Ấn. Quan ở vào hàng cực phẩm.

Ất Hợi, Kỷ Mão, Bính Tý, Tân Mão.
Sinh giờ Mão ngày 8 tháng 2 năm đầu vua Quang Tự.
Mệnh Lý Cảnh Hi: Bính Tý Tân Mão tương hình, có hiềm khích vì ham Tài hoại Ấn. Tứ trụ này kì diệu ở Hợi Mão hội cục, thấu Ất thái vượng, thích hợp với dụng Tài tổn Ấn, hơn nữa có Kỷ thổ xuất can, Thương quan sinh Tài làm dụng, đương nhiên phú quý đủ cả. Sự biến hóa của mệnh lý bất ngờ như vậy.

Canh Thìn, Kỷ Mão, Bính Thân, Mậu Tuất
Mệnh Hoàng Phu: Ngày Bính Thân giờ Mậu Tuất kẹp Đinh Dậu, gọi là liên châu kẹp quý, Bính lâm ngôi Thân, Mậu Kỷ tiết khí quá nặng, lấy Mão Ấn làm dụng, hành vận Ấn quý làm Quan tổng quản, chủ tịch ủy viên giám sát tỉnh Hà Bắc. Thông thường nhật can Bính hỏa, gặp Mậu Kỷ xuất can, đa phần không quý mà phú, tức Viêm thượng cách cũng không thể ngoài ví dụ minh họa này. Duy chỉ có ngày Bính Thân Bính Tý, gặp giờ Mậu Tuất, có thể kẹp củng mà đạt được quý. Phú nói rằng: Bính lâm Tý Thân, Mậu đứng đầu mà quý, cho nên dự đoán là vương hầu là vậy.

Đinh Hợi, Quý Mão, Bính Tuất, Nhâm Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 28 tháng 2 năm thứ 13 đời vua Quang Tự.
Mệnh: Chu Thứ Kỳ: Nhâm thủy xuất can, Hợi Mão hội cục, chuyên dụng Sát Ấn, 10 ngày lên ba vị, chức lên đến trưởng phòng công thương nghiệp tỉnh Triết Giang.

Kỷ Sửu, Đinh Mão, Bính Thân, Quý Tị
Sinh giờ Tỵ ngày 20 tháng 2 năm thứ 15 đời vua Quang Tự.
Mệnh Lý Khâm: Canh tài cung Thân sinh Thủy, Quý thủy trụ giờ thấu can, Tài Quan làm dụng, vị đến Trưởng phòng tài chính tỉnh Hồ Bắc.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào tháng 3

Tháng 3 hỏa khí dần nóng, chuyên dụng Nhâm thủy, hoặc chi thành thổ cục, lấy Giáp làm phụ, Nhâm không thể xa rời.

Bính hỏa sinh vào tháng 3 Hỏa hướng vượng, chuyên dụng Nhâm thủy, và giống tháng 2, sau sương tuyết thì nổi mưa, thổ vượng năm quyền, vô hình trung, tự có họa hối hỏa làm bế tắc Nhâm. Cho nên dụng Nhâm, cần phải lấy Giáp mộc làm trợ giúp, gặp Giáp mộc xuất can, khí của Bính Nhâm thanh trong, đương nhiên đạt được quý, cục Mậu thổ, chi tụ tứ Mộ, Bính hỏa dụng Nhâm, gọi là thủy phụ dương quang, ở mùa Thổ vượng, tuy can không thấu Mậu Kỷ, chi không tụ Mộ khố, cũng không có Giáp mộc phù trợ, không thể giành được quý, huống hồ chi thành thổ cục vậy.

Nhâm Giáp lưỡng thấu, nhất định khoa Giáp. Nhưng kị Kim xuất can phá Giáp, chỉ ở bậc tú tài trí thức tài năng. Nhâm thấu Giáp tàng, phú đại quý tiểu, không Giáp dụng Canh trợ giúp Nhâm, lại có thể tiết khí thổ, có Giáp mà không có Nhâm, gian khổ tiểu phú, Nhâm tàng không có Giáp, chỉ thuộc giới hàn nho, vôNhâm vô Giáp là cách bần tiện.

Trình bày tường tận cách dùng Nhâm Giáp. Có Giáp kị gặp Canh kim, không có Giáp thích dụng Canh kim. Thổ vượng mà không có Giáp, không thể không dụng Canh trợ Nhâm được, kiêm tiết khí Thổ, nhưng cần phải Nhật chủ vượng tướng, mới khả dụng, không thể so với Giáp mộc chế thổ bảo vệ Nhâm, kiêm trợ Thân vượng, chỉ một mà được ba tác dụng. Như tứ trụ của bản thân bỉ nhân: Bính Tuất, Nhâm Thìn, Bính Thân, Bính Thân. Nhâm thấu vô Giáp, chi tụ Thìn Tuất thổ cục. Nếu dụng Canh kim trong Thân tiết Thổ sinh Nhâm, Tài đến bao che Sát khắc thân, không những không ích gì, trái lại còn có hại, không Giáp không thể hóa Nhâm sinh Bính, không có Giáp khốn khổ cả đời, đủ thấy dụng được Canh trợ Nhâm, tất nhiên là Bính vượng Nhâm nhược, mới có thể lấy Tài sinh Sát làm dụng. Hoặc Thổ nhiều Nhâm nhược, mới bất đắc dĩ dụng Canh tiết Thổ sinh Nhâm, thân nhược nói chung không phải thượng cách.

Hoặc Đinh Kỷ ly tán hỗn loạn, là người bình thường.

Tiêp theo đọan trên, Nhâm Giáp cùng thấu, gặp Đinh hợp Nhâm, gặp Kỷ hợp Giáp, thì mất đi ý nghĩa dụng Sát Ấn, nhàn Thần trói buộc, là mệnh xoàng xĩnh.

Hoặc chi thành Thủy cục, thích dụng Mậu thổ, chớ nên dụng Nhâm, Mậu thấu ít phú quý.

Nói như vậy là Nhâm thủy thái vượng, Thìn là thủy Mộ, có Thân Tý thành thủy cục, vẫn lấy Giáp mộc hóa Sát sinh Bính làm thượng cách, ( thấy mênh của Tôn Bảo Kỳ bên dưới ) không có Giáp dụng Mậu thổ chế Nhâm, tất lấy thân vượng làm cốt yếu, gặp Mậu thổ thì phú quý mỏng, nói không phải thượng cách vậy, tuy dụng Mậu thổ, vẫn dựa vào Ấn vận là đẹp.

Phàm Dụng Nhâm là Kim làm thê Thủy làm tử, phàm dụng Giáp là Thủy thê Mộc tử.

Dụng Nhâm làm chính cách, dụng Giáp thì có hai, Thổ trọng dụng Giáp, hoặc Nhâm thủy thái vượng mà thân nhược, thì cũng dụng Giáp vậy.

Quý Sửu, Bính Thìn, Bính Ngọ, Nhâm Thìn.
Nhâm xuất Thiên can. Quan Thái Thú.
Theo mệnh tạo trên, Nhâm thấu không có Giáp, mà Thìn Ngọ kẹp Tị Lộc, nhật tọa Dương nhận, thân vượng, giả Sát làm quyền, lấy Nhâm đạt được quý.

Tân Mão, Nhâm Thìn, Bính Tuất, Quý Tị.
Minh Kinh (1).
Theo mệnh tạo trên Nhâm thấu không có Giáp, mà giờ quy về Tỵ lộc, lấy Tân kim là phụ tá lấy Nhâm làm dụng, chỉ hiềm mỗi Quan Sát hỗn tạp mà thôi. Các mệnh tạo bên trên là lấy từ sách Tạo hóa nguyên thược.

Canh Thân, Canh Thìn, Bính Ngọ, Mậu Tuất
Sinh giờ Tuất ngày 12 thang 3 nhuận năm thứ 3 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Trịnh Hiếu Tư: Bính lâm Ngọ Nhận, Nhâm Tuất hội cục, Thân cung tàng Nhâm, dụng Canh tiết Mậu sinh Nhâm. Mệnh tạo này chính xác vậy.

Đinh Mão, Giáp Thìn, Bính Tý, Bính Thân.
Sinh giờ Thân ngày 22 tháng 3 năm thứ 6 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Tôn Bảo Kỳ: Thân Tý Thìn thủy cục, Hỏa cư ở trên, Thủy cư ở dưới. Nếu như ánh nắng mặt trời chiếu sáng bầu trời, thì đáy nước xuất hiện ánh sáng, gọi là tượng chiếu sáng, đắc lực ở Giáp mộc xuất can, thông được cái tình của Thủy Hỏa, cho nên đại quý, quan đến Tổng quản.

Đinh Mão, Giáp Thìn, Bính Tý, Mậu Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 22 tháng 3 năm thứ 6 đời vua Đồng Trị
Mệnh Đồng Khang: Tý Tuất kẹp Hợi quý, Tý Thìn hội cục mà không có Nhâm thủy, Mậu Tuất thổ trọng, cũng dụng Giáp mộc chế Thổ nhằm bảo hộ Quan tinh, làm đến Bộ trưởng tư pháp.

Kỷ Tị, Mậu Thìn, Bính Thân, Giáp Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 24 tháng 3 năm thứ 8 đời vua Đồng Trị
Mệnh Lương Sĩ Di: Lộc Nhận ở trụ năm và trụ giờ, Thổ trọng hối Hỏa, Giáp mộc chế, Nhâm thủy cung Thân trường sinh, Canh kim sinh, Địa chi Thìn Tị Ngọ Thân kẹp Mùi, được quý ở Giáp Mậu, Thìn Tị mời Dậu làm Bính quý, Thân là cái quý của Kỉ thổ, Ất ủng hộ nhật nguyên, cho nên quý làm đến Quan tể tướng, có dấu hiệu tài thần.

Quý Mùi, Bính Thìn, Bính Ngọ, Mậu Tý.
Sinh giờ Tý ngày 26 tháng 3 năm thứ 9 đời vua Quang Tự.
Mệnh Quách Tùng Linh: Nhật tọa Dương nhận, Địa chi Thìn Ngọ Mùi kẹp Tị Lộc gặp Tý xung Ngọ, kẹp Lộc không thể đảm nhiệm, có điềm ám phục sát thân, Mậu thổ hợp khử Quý thủy Quan tinh làm Bệnh vận hành Giáp Dần Quý Sửu, lên như diều gặp gió, làm Thống soái trong quân đội. Năm Giáp Tý vận Nhâm, hai Tý xung Ngọ, ở trong Nhâm vận, lực Tý cường, trở giáo, quay súng lại bắn quân mình mà bị giết.

Mậu Tý, Bính Thìn, Bính Ngọ, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 24 tháng 2 năm thứ 14 đời vua Quan Tự.
Mênh Mao Trọng Phương: Dần Ngọ hội cục, thân vượng, dụng Mậu thổ tiết hỏa khí, làm Thực thần sinh Tài cách.

Mậu Tý, Bính Thìn, Bính Thìn, Mậu Tý
Sinh giờ Tý tháng 3 năm thứ 14 đời vua Quang Tự.
Mệnh Lưu Hồng Sinh: Tý Thìn hội cục,tên gọi chiếu tượng ( có tượng chiếu sáng), Mậu thổ xuất can mà không có Giáp mộc, phú mà không quý, là người có tài sản quý báu nổi tiếng.

Giáp Thìn, Mậu Thìn, Bính Tý, Nhâm Thìn
Sinh giờ Thìn ngày 27 tháng 2 năm thứ 30 đời vua Quang Tự.
Mệnh Lưu Nhân Hi: Tý Thìn hội cục, Nhâm thủy xuất can, chuyên dụng Giáp mộc chế Mậu, Giáp mộc xuất can, quý ở phương diện này.

Ghi chú:
1/ Minh Kinh: Thời nhà Hán xuất hiện việc tuyển chọn danh sách trúng tuyển của Quan chức. Bắt đầu vào thời kì Hán Vũ Đế, đến thời kì Tống Thần Tông. Người được đề cử cần phải nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của Nho giáo về mặt triết học, sử học, ngôn ngữ, văn tự một cách thông thạo sáng tỏ, cho nên lấy tên gọi là " Minh Kinh".

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Tổng luận Bính hỏa sinh ở 3 tháng mùa Hạ

Bính hỏa sinh ở 3 tháng mùa Hạ, dương khí hanh nóng, chuyên dụng Nhâm thủy, nhưng nên dụng thủy trường sinh và có nguồn ở trong cung Thân mới là tuyệt diệu, Nhâm thủy cung Hợi không có lực, do quay lại khắc tiết khí vậy.

Bính hỏa sinh ở 3 tháng mùa Hạ, rất cần Nhâm thủy giải viêm nóng, cung Hợi là đất lộc của Nhâm, Tứ trụ gặp Hợi, Nhâm thủy thông căn Lộc vượng, nên có thể dụng. Nhưng sinh vào tháng 4, Tị Hợi tương xung, Mậu trong Tỵ, quay lại khắc Nhâm thủy, sinh vào tháng năm, Đinh Kỷ trong Ngọ với Nhâm Giáp trong Hợi tương hợp, khiến cho trói buộc dụng thần, sinh ở tháng 6, Hợi, Mùi hội Mộc cục, tiết khí của Thủy, do đó không như dụng Thủy trường sinh ở trong cung Thân, lại có Canh kim lộc vượng sinh, nguồn Thủy chảy dài mà không lo khô kiệt, mới có thể nói rằng phú quý vậy.

Tháng 4, tháng 5 chuyên dụng Nhâm thủy, hoặc Đinh nhiều kiêm luôn Quý thủy xem, tháng 6 dụng Nhâm, nhưng dựa vào Canh kim làm phò tá.

Nối tiếp đoạn văn trên, tháng 4, tháng 5 Nhâm thủy xuất can thông căn, tức có thể nói là phú quý, có Canh kim làm phò tá thì lại càng đẹp, tháng 6 không có Canh kim làm phò tá thì không thể được, bởi lý do là tháng tứ quý Thổ vượng vậy.

Dương nhận hợp Sát, uy quyền ngàn dặm, Đinh hỏa Dương Nhận thái vượng, chính gọi là Dương Nhận đảo qua (đảo qua: trở giáo, quay súng lại bắn quân mình), không có dấu hiệu báo là người đứng đầu.

Bính hỏa dụng Nhâm, sinh vượng tọa Thực (?) mới tốt, kị Nhâm thủy nhiều, gọi là Sát trọng Thân khinh. Phân ra 3 tiết:
Tiết 1: Dương nhận hợp Sát. Bính sinh vào tháng 5, nguyệt lệnh Dương nhận, can thấu Đinh hỏa, gặp thêm Nhâm thủy xuất can, hợp chế Dương nhận, gọi là Dương nhận hợp Sát, chủ đại quý. Nhâm thủy cần phải sinh vượng tọa Thực (?) mới kì diệu.
Tiết 2: Dương nhận đảo qua. Dương nhận vốn là vật giúp Thân hộ Lộc. Nếu như gặp Giáp mộc hóa Sát sinh Nhận, ngược lại là hại bản thân, gọi là Đảo qua ( trở giáo; quay súng lại bắn quân mình), như Nhâm thủy sinh vượng tọa Thực (?), tức không có họa đảo qua.
Tiết 3: Sát trọng Thân khinh, Nhâm thủy quá nặng, áp chế Bính không thể tỏa sáng được.Tuy ở ba tháng mùa Hạ, thì cũng có tượng Thủy hàn mênh mông, rất cần Giáp mộc hoặc Mậu thổ. Hai tiết trên chuyên chỉ tháng 5, sau toàn bộ tiết một nói về 3 tháng mùa Hạ.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào tháng 4

Bính hỏa sinh vào tháng 4, gặp lộc ở Tỵ, thế Hỏa khô nóng, chuyên dụng Nhâm thủy, có uy lực giải viên nóng, hoặc vừa có công cứu tế. Không có Nhâm thủy, gọi là cô dương mà không có trợ giúp, khó hiển ra cái đức sáng tỏ. Song tất có Canh, mới là Thủy có nguồn, Nhâm Canh cùng thấu, không thấy Mậu Kỷ xuất can. Hiệu viết: Hồ hải uông dương, quảng ánh thái dương, quang huy hiển trứ, văn minh chi tượng (ND: Biển hồ mênh mông, mặt trời chiếu ánh sáng rộng khắp nơi, nổi bật lên ánh sáng chói chang rực rỡ, đó là cái tượng văn minh vậy). Phù hợp với câu này tức là không những khoa giáp mà còn có tài hoa xuất chúng cao như ngọn Lao Sơn (1), tất có tước phong mà hiển vinh, nếu không nghiệm, Phong thổ (phong thủy) kém vậy.

Bính là hỏa Thái Dương, không sợ Thủy khắc, huống chi sinh vào tháng tư, Hỏa vượng nắm lệnh, bản tính rất viêm nóng, không gặp Nhâm thủy giải viêm, không thể thành công trong trong việc cứu tế được, Bính hỏa mà không có Nhâm, không thể hiện ra cái tượng ánh sánh lóng lánh trong suốt được. Nhưng Nhâm đến cung Tị là Tuyệt địa, không có Canh kim phát Thủy nguồn, thì Thủy vô căn dễ cạn, cho nên Nhâm Canh cùng thấu, không thấy Mậu chế, là không hề quý vậy, Nhâm Canh xuất can, chi lâm cung Thân thì mới kì diệu.

Có Mậu mà không có Nhâm thấu, thích hợp với dụng Nhâm thủy trong cung Thân, Hợi thủy e rằng Giáp tiết vô lực, dụng Thủy trong Thân, cũng chủ khoa Giáp, Hợi thủy thì cũng chỉ tú tài hoặc là trí thức, phú quý đều nhẹ.

Dụng Nhâm thủy trong cung Hợi, không bằng Nhâm thủy cung Thân mới là tốt đẹp, đã trình bầy tỉ mỉ ở tổng luận, sợ rằng Giáp tiết khí nó ( Nhâm thủy), Thổ ở 3 tháng mùa Hạ theo Hỏa mà vượng, Thủy ít dễ khô cạn, cung Hợi tuy có Giáp mộc phá Thổ, nhưng là Mộc trường sinh, lực lượng tương đối nhược, không đủ để chế Thổ, không như Canh kim cung Thân đắc lộc, tiết Thổ sinh Thủy. Cho nên dụng Nhâm thủy cung Thân cũng được khoa giáp, còn dụng Nhâm thủy trong Hợi song cũng chỉ tú tài trí thức mà thôi.

Hoặc không có Nhâm thủy, tạm dùng Quý thủy, Canh Quý đều thấu, không quý mà phú nhiều, người này mưu mô giả rối có tài ngụy biện, xuất chúng siêu quần.

Quý thủy và Nhâm thủy cùng một công dụng, đặc biệt (Quý) lực yếu mà thôi. Bính là dương hỏa, Nhâm là dương thủy, thể dụng đều dương, áng sáng lóng lánh khi chiếu sáng thì trong trẻo, nhân mạng hợp với cách này, lỗi lạc quang minh, tính cách anh hùng hào kiệt, không hề tư lợi mà phải uấn cong mình. Nếu gặp Quý thủy mặc dù cùng là cứu tế, thành công thịnh vượng mà như mây mù, cảnh tượng có khác biệt, đạt được quý mà chưa đủ, cần phân biệt rõ tính chất này.

Hoặc Quý Nhâm đều không có, thì chỉ là người vô dụng thôi, hỏa viêm thổ táo, cũng chỉ là loại tăng đại, không chỉ bần tiện, mà còn chết yểu, nam nữ đều cùng một lý.

Bính hỏa sinh vào tháng 4, không thể khuyết Thủy, dụng Thủy không thể không có Kim làm phò tá, nếu Kim thủy đều không mà gặp Giáp mộc, trở thành Viêm thượng cách, ( xem tiết tháng năm), bằng không Hỏa vượng mà không có chỗ dựa, tất là mệnh không bơ vơ thì cùng nghèo túng chết yểu.

Hoặc nhất phái Canh kim, không thấy Tỉ Kiếp, có phú mà không quý. Nếu hỏa xuất hiện, đúng là bần nhân.

Nói như vậy là có Kim mà không có Thủy vậy, gọi là Hỏa vượng ở mùa Hạ mà Kim trùng trùng, thân Tài đều vượng, tất là cự phú. Nhưng cần có thấp Thổ hối Hỏa bảo tồn Kim mới là tuyệt diệu.

Hoặc Nhật can Bính Ngọ, Tứ trụ Nhâm nhiều, không thấy Mậu chế, gọi là Dương chỉ (Dương nhận) và Sát trọng nặng ( hoặc có thể là: Dương nhỏ bé mà Sát trọng nặng), thì thuộc loại lưu manh côn đồ. Hoặc chi thành Thủy cục, lại một hai Nhâm thấu, không có đến một điểm Mậu chế, thì cũng thuộc loại mệnh trộm cướp. gặp Kỷ thổ là người thấp hèn nông cạn, gặp Tài thì nảy lòng tham.

Nói như vậy là Sát Nhận đều vượng, Bính hỏa tháng 4, nguyệt lệnh kiến lộc, gặp thêm Nhật can Bính Ngọ, Dương nhận thái vượng, Tứ trụ Nhâm nhiều, Thất sát trùng điệp, phàm Sát Nhận cách, một Sát một nhận tương chế, thì chủ uy quyền, hai ba Sát trọng, hoặc hai ba Nhận trọng, chủ đều hung bạo, có Mậu thổ chế Sát, thì làm quý mệnh, Kỷ thổ không thể chế Thủy, chỉ uổng phí mà hỗn trọc Nhâm thủy, cho nên là kẻ thấp hèn nông cạn, tháng 4, tháng 5 Sát Nhật cách, không thể dụng Ấn, Hỏa đương mùa vượng nắm quyền, gặp Giáp hóa Sát trợ Nhận, tức có dự đoán là Nhận trở giáo làm giặc vậy.

Người dụng Nhâm Kim làm thể Thủy làm tử.

Bính hỏa sinh vào tháng 4, không dụng Nhâm thủy, không thể giành được quý. Cho nên chuyên nói dụng Nhâm vậy.

Ất Mùi, Tân Tị, Bính Ngọ, Giáp Ngọ.
Viêm thượng cách hỏa lâm đất Tị Ngọ Mùi. Làm đến Quan Thái úy.
Theo mệnh tạo này chính là Viêm thượng cách, có Mộc để sinh, không có Thổ làm bịt lấp Hỏa, Hỏa viêm và hư thì cũng đều có ngọn, hành vận phương Đông đại quý, gặp Thủy họa không kịp trở tay.

Canh Tý, Tân Tị, Bính Dần, Bính Thân
Lấy Nhâm thủy trong cung Thân để giải viêm nóng của Bính hỏa, Thân vận hội nguồn.
Theo mệnh tạo này thì dụng Thủy trường sinh trong Thân vậy.

Canh Thìn, Tân Tị, Bính Thân, Nhâm Thìn.
Mệnh Chương Kim: Năm Nhâm Tý làm chức Trạng nguyên.
Theo mệnh tạo này dụng Nhâm thủy, Canh kim làm phò tá.

Đinh Tị, Ất Tị, Bính Tý, Mậu Tý.
Vận Canh làm người đứng đầu trong làng xã.
Theo mệnh tạo này lấy Quý thủy trong Tý làm dụng, Quý lộc ở Tý, tuy không có Kim làm phò tá, thì cũng không đến nỗi khô cạn, hành vận hỷ Tài sinh Quan, chỉ tiếc Mậu thổ Cái Đầu, nguyên cục vô kim, cho nên quý không lớn.

Đinh Mão, Ất Tị, Bính Dần, Bính Thân
Nữ mệnh lấy Nhâm thủy trong Thân làm dụng, nhất phẩm phu nhân.
Theo mệnh tạo này lấy Nhâm thủy cung Thân, nam nữ cùng một lý. Những ví dụ trên là lấy từ sách Tạo hóa nguyên thược.

Quý Dậu, Đinh Tị, Bính Tuất, Giáp Ngọ.
Sinh Giờ Ngọ ngày 9 tháng 5 năm thứ 12 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Tôn Liệt Thần: Dụng Quý thủy, Tị Dậu hội cục sinh, sau 40 tuổi hành Kim Thủy vận, làm chức Thống soái trong quân đội.

Quý Tị, Đinh Tị, Bính Thìn, Quý Tị.
Sinh Giờ Tỵ ngày 4 tháng 4 năm thứ 19 đời vua Quang Tự
Mệnh Hùng Thức Huy: Không có Nhâm thủy dụng Quý, hai Quý xuất can, thông căn Thìn khố, hành vận phương Bắc trợ giúp, quý là ở phương diện này.

Giáp Ngọ, Kỷ Tị, Bính Dần, Kỷ Hợi.
Sinh Giờ Hợi ngày 20 tháng 4 năm thứ 20 đời vua Quang Tự.
Đô mệnh: Chỉ lấy một điểm Nhâm thủy trong cung Hợi với Dương Nhân cung Ngọ tương chế thành cách, quý tất thành quan võ, Thai nguyên Nhâm Thân, Nhâm thủy thông nguồn, Canh Lộc tương sinh, hành vận Nhâm Thân Quý Dậu Tài Sát tương sinh, làm đến sư đoàn trưởng trong Quân đội.

Ghi chú:
1/ Lao Sơn: ngọn núi này ở tỉnh Sơn Đông Trung Quốc.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào Tháng 5

Tháng 5 Hỏa khí càng viêm nóng, được hai Nhâm thủy một Canh xuất can, mới là thượng cách, hoăc một Nhâm không có Canh, tiến cử làm giám sinh viên, nhưng vẫn cần vận tốt. Hoặc Mậu Kỷ xuất can, thêm Đinh xuất can, với Nhâm hóa hợp, thì làm thường nhân. Cho dù không thấu Canh Nhâm, mà có Thủy trường sinh ở cung Thân, lấy Kim tọa lộc để cứu giúp, sẽ vô cùng kì diệu, là người tài năng thuộc giới thơ văn, chỉ sợ Mậu Kỷ tạp loạn, thì cũng chỉ được ân phong theo một con đường khác biệt nào đó (ý chỉ người này nếu có được vua ban tước lộc, ân huệ thì cũng theo một cách dị biệt nào đó).

Bính hỏa sinh vào tháng 5, nguyệt lệnh Dương nhận, hỏa khí càng rực cháy, được hai Nhâm một Canh phối hợp, mới là quý mệnh, một Nhâm mà không có Canh thì Thủy không có căn nguồn, nếu không có vận trợ giúp, thì con đường làm quan không vinh hiển, lại chỉ là sinh đồ cống giám mà thôi, Nhâm thủy cũng như có khí sinh trợ. Nếu như Quý thủy không có Kim sinh trợ, tất sẽ bị sắc cho cạn nước, (thấy ở bên dưới) Nhâm thủy tuy không bị sắc cạn, nhưng cũng kị Mậu Kỷ khắc chế, Đinh Nhâm hóa hợp, thì cũng trở thành mệnh vô dụng, cho nên mậu Kỷ khắc Nhâm, nếu như có Canh kim ở vào giữa Mậu Nhâm, tức là có bổ cứu. Thậm trí trong trường hợp Đinh Nhâm hóa hợp, tức là ở vào Dương nhận hợp Sát, vậy tại sao cũng kị? Chính là lấy một Nhâm mà không có Canh, Nhâm thủy không có nguồn để sinh trợ, gặp Đinh hóa hợp, không những không thể chế Hỏa, trái lại còn đi trợ giúp vượng Hỏa, làm mất đi vai trò giải viêm nóng vậy. Không thấu Canh Nhâm mà gặp Thân, trong Thân có Thủy trường sinh, thêm có Kim tọa lộc, Kim Thủy tương sinh, thì tác dụng của nó càng thêm kì diệu. Cùng một lý tương đồng với Canh Nhâm xuất can, cũng kị Mậu Kỷ tạp loạn, Thủy mất đi sự thanh trong của mình, thì chỉ là trong phú có quý, tức công danh bằng con đường lạ lùng nào đó vậy.

Hoặc chi thành hỏa cục, không thấy một giọt nước nào, chính là mệnh tăng đạo không vợ không con. Cho dù gặp một hai Quý thủy, (mệnh cục) phần nhiều hỏa thổ, dụng đó cũng vô lực, thì người này bị lồi mắt; được Mậu Kỷ xuất can tiết hỏa khí, cũng chủ hình khắc cô quả, hành vận phương Bắc nhiều hung họa, vì sao? Chính xác là ( hỏa) quá mãnh liệt khô hanh, là nơi thủy kích trái lại trở thành tai ương.

Chi thành Hỏa cục, không thấy một giọt nước nhỏ, quá trong táo nhiệt, mệnh cục thiên về khô nóng, có một hai điểm Quý thủy, mà không có Canh kim sinh trợ, gặp nhiều Hỏa Thổ, một chút ít nước cũng bị sấy cạn, không thể giải viêm. Cho nên nói rằng cái Dụng vô lực, Quý thủy là Mắt, cho nên chủ bệnh về mắt lồi. Mậu Kỷ xuất can tuy có thể tiết Hỏa khí, mà Hỏa viêm Thổ táo, khả năng sống thiếu hụt, chủ nhiều hình khắc. Nếu nguyên cục không có Kim Thủy, hành vận phương Bắc, trái lại gặp nhiều hung sự, chính là Hỏa Thổ quá vì táo nhiệt, đi vào vận thủy mà chỉ là rãnh nước nhỏ, trái lại kích thêm ngọn lủa viêm táo của nó vậy.

Theo cục Hỏa viêm Thổ táo, thì nhiều phú quý, duy chỉ có tượng thiên về khô nóng, tất nhiên có chỗ không đủ, không phải hình khắc cô quả vậy, hành vận phương Bắc, cũng không đến mức có họa, mà lại nhiều cát lợi. Cho nên Bính hỏa nhật chủ, lấy Thổ làm dụng, hành đến Thủy vận, là thổ mà trái lại phản khắc, Thổ được Thủy nhuận, tức có thể sinh Kim, chủ nhiều phú quý, hành vận Mộc Hỏa thì nhiều hung sự.

Nếu như nhật chủ Mậu Thổ, Bính hỏa làm dụng vận hành đất Bắc, gặp nhiều hung tai, Thương dụng làm trọng, gặp nhiều chứng cứ thêm nhiều kinh nghiệm, xem tiết thuyêt minh về Hỏa viêm Thổ táo trong sách Trích Thiên Tủy bổ chú thích.

Hoặc thành Viêm thượng cách, trong trụ và vận không thấy Canh Tân, gặp nhiều Giáp Ất, đại phú đại quý. Nhưng mà cũng không thể gặp vận Thủy. Tứ trụ vô kim thủy, chi thành hỏa cục, hoặc tụ phương Nam, chính là Viêm thượng cách, thích Giáp Ất mộc đến sinh, thì là hỏa hư có ngọn, chủ đại phú quý. Nếu gặp Thổ tiết, Hỏa viêm Thổ táo, phú mà không quý, ( xem đoạn trên).

Viêm thượng cách tuy có Mộc dẫn hóa, cũng không thể gặp Thủy vận, thành phương thành cục, khí thế thiên lệch về một bên, gặp Thủy kích tức là phá cách, chủ có họa khó lường. Hỏa thế viêm thượng, hành vận Đông Nam, tức hợp với tính chất của viêm thượng, hành vận Tây Bắc, tức là hướng xuống phía dưới, không chỉ vận Thủy phá cách là hung, phương Tây Bắc cũng đều không thuận lợi. Tổng luận viết: Đến phương Dần Mão để sinh Hỏa, gặp phải Thân Dậu rồi tất tử ( chết), Lại nói rằng: Sinh ở Ly vị ( quẻ Ly), quả đoán có chức vụ. Nêu cư đất Khôn ( quẻ Khôn), cẩn thận phục tùng tuân thủ phép tắc, quả thật lời nói thâm sâu vô cùng vậy. Tham khảo nhiều các mệnh tạo thì có nhiều dẫn chứng.

Hoặc Canh Nhâm cùng thấu, phú quý không nhẹ, nhưng vận khí không phù, có ra làm Quan cũng không vinh hiển, hoặc Canh Quý cùng thấu, y Lộc sung túc, chi hỏa khinh nhẹ, không có bệnh về mắt, chi mà gặp thủy ( Quý), có tiền đồ khác biệt.

Bính hỏa sinh tháng 5, theo dụng Nhâm Canh làm chính, gặp ở tiết đầu, Quý thủy tuy cũng có thể giải viêm nóng, Bính hỏa khí thế không thanh, cho nên phú mà không quý. Quý thủy chủ về mắt, chi hỏa khinh, thì Quý thủy không đến nỗi bị sắc cạn, cho nên mắt không bị bệnh, chi gặp Thủy, tức Tý thủy vậy, thì Quý ở lĩnh vực đặc biệt nào đó.

Hoặc chi thành thổ cục, lại là tiết khí thái quá, được Nhâm phụ trợ Hỏa, Giáp xuất chế thổ, phú quý phúc thọ đều toàn.

Chi thành thổ cục, không dụng Nhâm Canh, mà dụng Nhâm Giáp, bởi thế thổ nhiều không thể không có Giáp để chế, mà Mộc đến đất Hỏa, lại có lỗi sầu lo do bị tự thiêu, không có Nhâm thủ trợ giúp, chưa đủ để chế Thổ. Thổ bị chế mà Hỏa được sinh phù, phú quý phúc thọ đều toàn, Canh kim tiết thổ khí, cũng có thể làm dụng, duy chỉ quý là chưa đủ, cũng xem là có Thủy nhuận Thổ vậy

Người dụng Nhâm, Kim làm thê, Thủy làm tử.

Bính hỏa sinh tháng 5, lấy Nhâm thủy làm chính Dụng, Canh kim làm phò ta vậy.

Canh Dần, Nhâm Ngọ, Bính Tuất, Kỷ Hợi.
Mệnh này hai Nhâm phá cách, khó làm Viêm thượng, chuyên dụng Nhâm Canh, rất quý.

Mậu Thân, Mậu Ngọ, Bính Thìn, Giáp Ngọ.
Hỏa Thổ hỗn tạp, lấy Giáp chế thổ, dụng Nhâm chế hỏa, thi đứng nhất bảng, làm Quan Phủ doãn.
Theo mệnh này, Giáp mộc chế Thổ, mà lấy Nhâm thủy trong cung Thân làm dụng, Mậu thổ quá nặng, Nhâm thủy không thể lộ ra là khuyết hãm, nhưng mà Thân Thìn diêu hợp (hợp xa ), dẫn khí Thủy mà lại thành gần, đắc lực mà nguồn thủy không cạn vậy.

Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Bính Ngọ, Kỷ Sửu.
Thổ hối (hỏa) khiến (hỏa) không thể tỏa sáng. Làm Nô bộc.
Theo mệnh tạo này: Thổ hối mà khiến (hỏa) không thể phát sáng, lại thêm hành vận phương Tây, chiều hướng đúng là đi xuống, người này tất cực ngu dại vụng về. Những ví trên lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Đinh Mão, Bính Ngọ, Bính Tý, Nhâm Thìn
Sinh giờ Thìn ngày 24 tháng 5 năm thứ 6 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Long Tế Quang: Đinh Nhâm diêu hợp, đúng là Dương nhận hợp Sát, uy quyền ngàn dặm, Tý Thìn hội cục, giải xung hung Nhận, thích được chi năm Mão mộc, vận hành phương Bắc Sát địa, lập nha khai phủ, quý làm quan Tuần duyệt sứ lưỡng Quảng ( Lưỡng Quảng là tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay).

Tân Mùi, Giáp Ngọ, Bính Thân, Mậu Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 7 tháng 5 năm thứ 10 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Diêu Văn Phu: Viêm thượng biến cách, Thiên can Giáp Bính Mậu trong cung Dần đều dụng được cả, Thân đối xung Dần, Ngọ thành củng Dần, Địa chi ám tụ Dần Ngọ Tuất hỏa cục, vận hành phương Đông, nói rằng: "Thê trực thượng" ( ND: bắc Thang mà thẳng tiến lên), lến đến Đại biểu hội đồng hai tỉnh lưỡng quế ( Quế: Tên gọi khác của tỉnh Quảng Tây). Hai trụ Tháng Ngày kẹp Ất Mùi, Giáp Mậu được quý, hai trụ ngày giờ kẹp Đinh Dậu, Bính hỏa được quý, một tuần ba vị ( 10 ngày lên 3 chức), kẹp củng liên châu, tiếc ở chỗ Nhâm thủy cung Thân, có hiềm phá cách, tại vị chỉ đến Đại biểu hội đồng. Nhưng mà Thân Ngọ Sát Nhận, quý kiêm nắm binh quyền, mệnh này đúng có cách cục phức tạp, quả thật đây là hiện tượng lạ vậy. Vận đến Mão Dần, mà Quý đến cực phẩm, đến Mậu Kỉ mà có tài sản kếch sù, đến Tý vận thất bại thảm hại mà chết.

Ất Hợi, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 10 tháng 5 năm đầu đời vua Quang Tự.
Mệnh Tôn Phát Tự: Chuyên dụng Nhâm thủy, Canh kim làm tá, đại quý. Vị đến Tỉnh trưởng.

Ất Hợi, Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Ất Mùi.
Sinh giờ Mùi ngày 10 thang 5 năm đầu đời vua Quang Tự.
Mệnh Hạ Kiếm Thừa: Chuyên dụng Nhâm thủy, chỉ tiếc không có Canh kim phò tá, Địa chi chi không có Thân, cung Hợi tuy Nhâm thủy đắc lộc, Giáp mộc tiết khí, gặp ở tổng luận, xuất thân khoa giáp, vị đến Đề học sử.

Bính Tý, Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Canh Dần.
Mênh Trương Quốc Cam: Canh Nhâm xa cách, Tý thủy vì xung vượng Hỏa, nhưng mà có Canh tương sinh, cho nên dụng Quý thủy, đặc biệt là không thể tái hành vận Tý, chức đến bộ trưởng.

Kỷ Sửu, Canh Ngọ, Bính Thìn, Nhâm Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 11 tháng 5 năm thứ 15 đời vua Quang Tự.
Viên Tổ Minh: Canh Nhâm cùng thấu, quý làm đốc quân tỉnh Quý Châu.

Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Bính Ngọ, Giáp Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 1 tháng 6 năm thứ 20 đời vua Quang Tự.
Chói chang chân hỏa, chân Viêm thượng cách, tiếc thay vận hành Tây bắc, đớn hèn cẩn trọng, một bước cũng không thể phát triển, thất thế mà đi xuống. Nghịch với bản tính của nó (Viêm thượng), mà mệnh này lại có Thai nguyên Tân Dậu, Tỉ Kiếp tranh Tài, thành cách rồi lại phá cách. Tạo này không phải đẹp vậy.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào Tháng 6

Tháng sáu Hỏa khí dần dần lui, tam phục sinh hàn, Kỷ thổ tiết khí, lấy Canh làm tá Nhâm làm dụng.

Tháng sáu hỏa viêm thổ táo, trước tiết Đại thử với tháng 5 cùng suy một lý, sau tiết Đại thử, kim thủy tiến khí, tam phục sinh hàn, dụng Nhâm tất lấy Canh kim làm phò tá, nguyên nhân Kỷ thổ đương vượng vậy, mà lại là lý do vì Kỷ thổ tiết khí, Bính hỏa không vượng, tuy dụng Canh Nhâm, vận hỉ đất Đông Nam sinh vượng, không lợi phương Tây, nếu nguyên cục sinh vượng, lại cần luận theo cách khác.

Canh Nhâm lưỡng thấu, sát ( gần) thân tương sinh, có thể nói rằng khoa bảng mà làm Quan lại vinh hiển . Nếu không có Canh kề sát, có Nhâm mà không thấy Mậu thổ thấu xuất, tú tài phú nhỏ, gặp Mậu chế Nhâm, song chỉ là người có tài năng đức độ ở trong một vùng quê, một bè phái nào đó mà thôi. Hoặc Kỷ thổ xuất can hỗn trọc, cũng chỉ là kẻ phàm phu tục tử, hoặc Nhâm thủy ở chi, Kỷ thổ xuất can, thì nghèo khổ. Không có Nhâm là hạ cách, đã bần tiện mà lại còn ngu đần, nam nữ đều cùng một lý như vậy, người dụng Nhâm, Kim là thê Thủy làm tử.

Canh Nhâm lưỡng thấu, phú quý kiêm toàn là thượng cách, có Nhâm vô Canh, Nhâm thủy vô nguồn, cho nên phú quý đều nhỏ. Nếu lại thêm Mậu thổ xuất chế, vì hoàn cảnh mà bị trói buộc, khó có thời kì phát triển, lại chỉ là người có đức tài ở thôn quê mà thôi. Nếu như Kỷ thổ không thể chế Thủy, trái lại chỉ làm Thủy bẩn đục, khiến Thủy thổ hỗn tạp, tất chỉ là loại phàm phu tục tử, không có Nhâm thì là người ngu dốt ngoan cố lại còn hạ tiện.

Hoặc can gặp nhất phái Bính hỏa, Can Chi lưỡng gặp Canh Nhâm, dương cực sinh âm, khoa bảng đại thần.

Kết hợp với đoạn trên. Bính hỏa sinh vào tháng 6, Kỉ thổ tiết khí, tuy lấy Canh Nhâm cùng thấu để đạt được quý, nhưng vẫn cần Ấn Tỷ để trợ giúp, thích hành vận Đông Nam. Nếu gặp một bầy Bính hỏa, dương cực sinh âm, chuyên chọn Tài Sát, vận cần Tây Bắc. Tuy cùng lấy Canh Nhâm để đạt được quý, khi dụng nó có lúc khác nhau vậy.

Tóm lại: Bính hỏa sinh vào tháng 6 dụng Nhâm, không giống những tháng còn lại khi dụng Nhâm. Cho nên vận nhập Đông Nam, giàu có ngàn lượng, Tấy Bắc thì nghèo khổ buồn chán, những tháng khác dụng Nhâm đều hỉ hành vận Tây Bắc.

Nói như vậy tháng 6 dụng Nhâm có điểm nào khác với các tháng còn lại, tháng 6 Tam phục sinh hàn, Kỷ thổ tiết khí, Bính hỏa đã dần suy thoái. Tuy phối hợp để giành được quý, không thể không dụng Canh Nhâm, mà vận hỉ hành đến đất Đông Nam sinh vượng. Cho nên dụng Nhâm tháng 6 có chỗ không giống với tháng khác là như vậy. Nếu như nguyên cục Ấn Tỉ nhiều, Bính hỏa sinh vượng, thì lại cần phân biệt khi luận, nhưng vẫn cần hành vận Tây Bắc vậy.

Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Dần, Nhâm Thìn.
Trụ gặp ba Bính, hai Nhâm xuất can, vị đến Các Lão.
Theo mệnh tạo trên, Đinh Nhâm hợp khứ một Sát, chuyên dụng duy nhất Sát trên trụ giờ, không lấy Dương Nhân hợp Sát luận. Mệnh tạo nói trên là của họ Hạ thuộc triều đại nhà Minh vậy.

Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Ngọ, Kỷ Hợi.
Thổ tiết hỏa thần, Hợi có Nhâm Giáp, tuổi nhỏ nghèo khổ, vận hành phương Bắc, giàu có ngàn lượng, chết ở vận Dần.
Theo mệnh tạo trên thì Thổ tiết khí Hỏa thần, cho nên không thể giành được quý vậy, Thổ táo Hỏa viêm, mừng Nhâm thủy cung Hợi nhuận thổ, Thương quan vượng mà sinh Tài, cho nên là phú cách, đến vận Dần, Hợi Dần hợp, Thủy khí bị tiết ở Mộc, phá hỏng Thương quan, tổn đến thọ nguyên vậy. Tham khảo thêm tiết Bính hỏa tháng 5.

Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu.
Sát trọng thân khinh, vận nhập Tây Bắc, làm kẻ ăn mày, Nhâm vận thì chết.
Theo mệnh tạo này, chi không thấy Ngọ, Đinh hỏa không lấy Sát luận, Đinh hỏa hợp khử Nhâm thủy, hóa mộc trợ hỏa, quần Kiếp tranh Tài.

Kỷ Tị, Tân Mùi, Bính Ngọ, Quý Tị.
Không thấy Nhâm thủy, chi thành Hỏa cục, lại gặp Tân hợp, không luận là viêm thượng, chỉ là hạng nô tiện ham ăn.
Theo Tứ trụ này Hỏa cục sắc cạn (nước) Quý thủy, vùa đúng e rằng bị tàn tật, Quý thủy dễ khô cạn, nếu là Nhâm thủy thì không dễ dàng bị khô vậy. Các ví dụ trên là lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Giáp Thìn, Tân Mùi, Bính Tuất, Giáp Ngọ.
Sinh giờ Ngọ ngày 15 tháng 6 năm thứ 2 đời vua Ung Chính (niên hiệu vua Thế Tông thời Thanh, Trung Quốc, 1723-1735).
Mệnh Kỷ văn đạt công ( Kỷ Hiểu Lam ): Hỏa thổ Thương quan sinh Tài cách, nguyên mệnh Ấn vượng, Hỏa Thổ Mộc đều là thần của nguyệt lệnh, thể dụng đồng cung, Kim là khí sắp tiến, vận hành Tây Bắc, Quan đến Hiệp Biện Đại Học Sĩ, khi chết được vua ban Thụy hiệu là Văn Đạt.

Giáp Tuất, Tân Mùi, Bính Dần, Ất Mùi.
Sinh giờ Mùi ngày 18 tháng 6 năm thứ 19 đời vua Càn Long.
Mệnh Phúc Khang An: Sinh vào ba ngày trước Lập thu, Kim Thủy tiến khí, nguyên mệnh hỏa thổ Thương quan, Ấn thụ thái vượng, đầu vận Quý Dậu năm Đinh Hợi, năm 14 tuổi được trao chức Thị vệ, không thể so sánh thanh danh mà bề tôi sớm đạt, mà không thể có ai có thể vượt qua được người này, liên tục được đề bạt tiến cử và được sắc phong chức Quận Vương, đến năm Bính vân Bính thì chết, thọ 43 tuổi.

Nhâm Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Đinh Dậu.
Sinh giờ Dậu ngày 5 tháng 6 năm thứ 17 đời vua Gia Khánh (niên hiệu của vua Nhân Tông thời nhà Thanh, Trung Quốc, 1796-1820).
Mệnh Hồ Văn Trung Công Lâm Dực: Ngày Bính Ngọ tọa Dương nhận, thấu Đinh, Kim cung Thân đắc lộc, khởi sinh Nhâm thủy, Sát Nhận tương hợp, chính gọi là Dương nhận hợp Sát, oai phong quang vinh vang xa ngàn dặm, làm đến chức Tuần phủ tỉnh Giang Tây. Đến vận Hợi Nhâm, Sát vượng trở lại hành Sát địa, ở nơi kiến nghiệp lập công, chết dưới đao Nhận, hi sinh vì nhiệm vụ chống nạn hồng thủy.

Đinh Sửu, Đinh Mùi, Bính Tý, Kỷ Sửu
Sinh giờ Sửu ngày 4 tháng 6 năm thứ 22 đời vua Gia Khánh.
Mệnh Mao Sưởng Hi: Hỏa Thổ Thương quan, xuất thân hàn lâm, Quan đến Đại học sĩ.

Đinh Sửu, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Kỷ Sửu.
Sinh giờ Sửu ngày 22 tháng 6 năm thứ 3 đời vua Quang Tự.
Mệnh Tưởng Mạnh Bình: Không có Nhâm, chuyên dụng Kỷ Thổ, phú mà không quý.

Kỷ Mão, Tân Mùi, Bính Ngọ, Nhâm Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 4 tháng 6 năm thứ 5 đời vua Quang Tự
Hồ Tư Nghĩa: Nhâm thủy xuất lộ, chỉ tiếc không có Canh kim tương sinh, Kỷ thổ tiết khí, Tân kim tương hợp, đều là có bệnh. Tuy quý mà không lớn.

Nhâm Ngọ, Đinh Mùi, Bính Thìn, Giáp Ngọ.
Sinh vào giờ Ngọ ngày 2 tháng 6 năm thứ 8 đời vua Quang Tự.
Mệnh Hác Bằng: Sát Nhận tương hợp, chỉ tiếc Canh kim tương sinh, Mậu mà không thành, thì Thủy nhược vô căn, không đủ để quý.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính Hỏa sinh vào 3 tháng mùa Thu

Tháng 7 mặt trời chuyển về Tây, dương khí dần suy, Mặt trời gần Tây sơn(1), gặp Thổ đều mờ tối, duy chỉ có mặt trời chiếu trên biển hồ, mới đủ đốt cháy và thắp sáng ngọn lửa trong buổi chiều hoàng hôn. Cho nên chuyên dụng Nhâm thủy, phụ trợ ánh sáng mặt trời thêm rực rỡ.

Bính hỏa đến Thân làm Bệnh địa, như Thái Dương quá Ngọ, dương khí suy yếu, mặt trời gần Tây sơn, gặp Thổ thì ánh sáng mờ tối, không thể so sánh ánh nắng mặt trời đang lúc giữa buổi trưa hè khó mà có thể bị mờ tối vậy. Cho nên không thể dụng Thực thương, Canh kim cung Thân đắc lộc, Nhâm thủy trường sinh, như Bính hỏa thông căn Dần Tị, thân cường thì dụng Tài sinh Sát, là chính cách của Bính hỏa sinh vào tháng 7. Dụng Nhâm không thể thiếu Ấn Tỷ, cần chú ý điều này.

Nhâm thủy nhiều lấy Mậu thổ chế mới kỳ diệu, trong Thân có Nhâm, lại có Nhâm xuất can, lại thấy Mậu thấu, khoa bảng có chắc, như Thìn Tuất tàng Mậu, chỉ đến tú tài, Nhâm nhiều mà không có Mậu chế, chỉ là thường nhân, hoặc một Nhâm trong Thân, gặp nhiều Mậu chế, cũng thuộc thường nhân, Nhâm nhiều không có Quý, được một Mậu chế, gọi là quần Sát ngang ngược điên cuồng, một lòng nhân từ (Ấn thụ??) có thể hóa, khoa bảng quan chức hiển đạt.

Đoạn văn trên nói Bính hỏa sinh vào tháng 7, không hợp với dụng Mậu thổ, song Nhâm thủy nhiều, thì không thể không lấy Mậu thổ chế Nhâm, thân cường Sát vượng, mà vận hành đến đất chế Sát, thì đương nhiên quý hiển, một Nhâm trong Thân, gặp nhiều Mậu chế, đó là chế Sát thái quá, chỉ có dụng Canh kim trong Thân hóa Thực thần sinh Sát, thì phú mà không quý, gặp Quý hợp Mậu thì cũng là trói buộc dụng thần chỉ có thể giầu có mà thôi.

Hoặc gặp một bầy Canh kim, không thấy Tỉ Ấn và Tân kim, lại làm khí mệnh tòng Tài ( bỏ mệnh theo Tài), đó là những mệnh tạo đặc biệt, tuy không khoa giáp, thì cũng hiển đạt bằng con đường khác biệt nào đó. Tuy nhiên có nhiều chỗ giựa thân thích thì sẽ có bàn đạp để tiến thân.

Bính hỏa đến Thân, khí đã suy tuyệt, gặp một bầy Canh kim, thì bỏ mệnh theo Tài ( khí mệnh tòng Tài), thông thường theo cách cục này thì đa số đạt được sự giầu có. Vì vậy mới nói là người hiển đạt bằng con đường khác biệt nào đó, cung Thân có Canh lộc Nhâm sinh, Tài vượng sinh Quan đó là lý dọ vậỵ. Gặp Tân Bính hợp lại thành Thủy cục, thì trở thành hóa cách, chỉ có hóa mà không gặp thời, cũng chỉ là nhân vật bình thường.

Người dụng Mộc, thì Thủy làm thê, Mộc làm tử (con), thê tất hiền từ mà tài năng.

Bính hỏa sinh vào tháng 7, dương khí đã suy, không rời sinh phù, dụng Nhâm thủy không thể thiếu Ấn, chuyên lấy Sát Ấn tương sinh, gặp Mậu chế Nhâm, cũng phải phòng Hỏa tối, mà không thể thiếu Giáp mộc, gặp Giáp, Bính Nhâm khí thanh trong, mới có thể giành được quý hiển vậy, Thủy (Mộc??) có thể hóa Sát giúp thân, cho nên vợ tất hiền mà giỏi giang.

Tóm lại: Bính hỏa sinh vào tháng 7 chuyên dụng Nhâm thủy sau mới đến Mậu.

   Ất Mùi, Giáp Thân, Bính Thân, Canh Dần
   Tài sinh Thất sát cách. Quan Tham chính.
   Theo mệnh tạo trên, đây là chính cách của Bính hỏa sinh vào tháng 7. Tuy hai Thân xung Dần, Giáp Ất hai can cùng thấu, có Ấn tương sinh, nhật nguyên không nhược, lấy Tài sinh Sát làm dụng. Mệnh tạo trên trích trong sách Tạo hóa nguyên thược.

   Bính Thân, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Thân.
   Sinh giờ Thân ngày 25 tháng 7 năm thứ 16 đời vua Đạo Quang.
   Mệnh Lưu Minh Phó: Sát Nhận cách, (nhập) nhật nguyên có khí, dụng Tài sinh Sát, vị đến Tổng đốc.

   Canh Tuất, Giáp Thân, Bính Thân, Quý Tị.
   Sinh giờ Tỵ ngày 6 tháng 7 năm thứ 30 đời vua Đạo Quang.
   Mệnh Lục Bảo Trung: Tài Quan Ấn cùng thấu, chuyên lấy Sát Ấn tương sinh, năm Đinh Sửu vận Đinh được trao chức Sử quan, Là năm có đại tang, năm Tân Mão vận Mậu trông coi thư phòng phía Nam, năm Đinh Dậu vận Tý học nghiệp vụ quản lý cơ quan nhà nước ở Triết Giang thì chịu tang mẹ, bất ngờ qua đời Thụy hiệu là Văn Thận.

   Mậu Dần, Canh Thân, Bính Dần, Canh Dần.
   Sinh giờ Dần ngày 18 tháng 7 năm thứ 4 đời vua Quang Tự.
   Mệnh Kim Nhuận Tuyền: Dụng Thực thần sinh Tài, phú cách.

   Ất Dậu, Giáp Thân, Bính Thìn, Mậu Tuất.
   Sinh giờ Tuất ngày 20 tháng 7 năm thứ 11 đời vua Quang Tự.
   Mệnh Dương Vũ Đình Tham mưu trưởng quân đội: Giáp mộc xuất can phá Mậu, dụng Nhâm thủy trong Thân, Tài sinh Sát nhược. Năm Mậu Thìn vận Thìn, chết mà phải bỏ mạng. Hoặc nói là giờ Canh Dần.

   Ất Dậu, Giáp Thân, Bính Thìn, Giáp Ngọ.
   Sinh giờ Ngọ ngày 20 tháng 7 năm thứ 11 đời vua Quang Tự.
   Mệnh Tiền Tân Chi: Tứ trụ này nghi ngờ là giờ Quý Tị, Tị Thân tương hợp, Mậu thổ chế Sát, chuyên dụng Canh kim, thân vượng đảm nhiệm được Tài, làm giám đốc Ngân hàng. Nếu giờ Giáp Ngọ, tất dụng Nhâm Sát, thêm vào đó kẹp lộc kẹp Ấn quý, tương xứng với nắm chính quyền, chứ không chỉ đứng đầu trong nghành tài chính vậy.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào tháng 8

Bính hỏa sinh vào tháng 8, mặt trời gần đến hoàng hôn, ánh sáng của Bính còn dư, tích trữ ở biển hồ, vẫn dùng Nhâm thủy bổ trợ thêm ánh chiếu.

Bính hỏa sinh vào tháng 8, như mặt trời lặn xuống Tây Sơn, ánh sáng còn dư chiếu trên biển hồ và ánh sáng phản chiếu cùng nhau nâng đỡ để sinh cho ánh sáng buổi chiều được chiếu sáng thêm rực rỡ ( ý nói: Ánh sáng phản chiếu từ mặt nước biển hồ "Nhâm" kết hợp với ánh sáng mặt trời đã về chiều " Bính", để làm cho anh sáng của mặt trời đã về chiều " Bính" vẫn luôn được tỏa sáng rực rỡ), tuy dụng Nhân thủy, mà không thể không có Ấn Tỷ, nguyên nhân là do khí của Bính hỏa đã suy nhược vậy, dụng Tài tức bênh vực ( sinh ) Sát, dụng Thổ khiến ánh sáng ( Bính ) mờ tối, duy chỉ lấy Nhâm thủy phụ thêm cho ánh sáng mặt trời xế chiều, mà nếu lấy Ấn Tỷ cùng phối hợp mới là Quý cách.

Tứ trụ Bính nhiều, một Nhâm cao thấu là kì diệu, như độc Nhâm tàng chi, chỉ đến tú tài, hoặc thổ nhiều mà vây hãm Thủy, chẳng qua cũng chỉ là nhân sĩ tài năng. Nếu như không có Nhâm thủy, Quý cũng có thể dụng, nhưng phát đạt không dài.

Dụng Nhâm tất nhiên lấy Bính nhiều trong tứ trụ làm điều cốt yếu, tháng 7, tháng 8 đều cùng một lý này vậy. Thân cường gặp Tài vượng sinh Sát, xác định chủ phú quý, đó là lý do Kim Thủy tiến khí vậy, Nhâm thủy tàng chi, Dụng thần lực mỏng, hành vận dẫn xuất, cũng có thể hiển đạt, bằng không thì khốn khổ nghèo túng. Sợ nhất Mậu nhiều vây hãm Thủy, Kỷ nhiều thì hỗn trọc, tức chỉ là người vô dụng mà thôi, Bính hỏa dụng Nhâm, Mặt trời chiếu sáng trên biển hồ, thì ánh sáng có tượng lóng lánh trong suốt, Quý thủy là sự ẩm ướt của mưa móc tuy cũng khả dụng, song vẫn luôn có sự lo ngại về tiết trời u ám với tiết trời trong xanh không được rõ ràng vậy.

Hoặc gặp nhiều Tân xuất can, không thể tòng hóa. chỉ hưởng một chút phúc đức của tổ tông mà thôi, khi phụ thân qua đời thì nghèo khổ túng quẫn đến già, hoặc gặp Đinh chế Tân, gian trá thất thường, nữ mệnh hợp với cách này vậy, phụ nữ thì nắm điều, chủ dâm tiện.

Bính hỏa gặp Tân mà lo sợ, gặp Tân nhiều xuất can, tất cần chi thành Kim cục, theo Tài thành cách, mới là thượng mệnh phú quý. Nếu như trụ có Kiếp Ấn, hoặc gặp căn cực suy, không thể tòng hóa, ( hoặc giả tòng) không thể làm mệnh đẹp được, Bính có căn nhỏ, thì chỉ hưởng một chút phúc đức của tổ tông mà thôi. Như một mệnh tạo sau: Mậu Tý, Tân Dậu, Bính Thân, Kỷ Sửu. Chính xác vậy, Hỏa đến Dậu là ở Tử địa, Kim Thần đương vượng, không phải Ấn Tỷ trong nguyên mệnh trợ giúp thân vượng, không thể dụng Tài Quan, gặp Đinh chế Tân, Bính hỏa vẫn nhược như cũ, tiến thoái đều mất căn, cho nên nam chủ gian trá, nữ chủ dâm tiện.

Hoặc chi thành kim cục, vô Tân xuất can, không làm tòng Tài luận, cho dù có trực tiếp ở trong nhà quyền quý thì cũng chết đói mà thôi. Như chi thành Kim cục, có Tân xuất can, không thấy Tỉ Kiếp, chính ( thuần) tòng Tài cách, phú quý. Hoặc được quý nhân đề bạt, người thân thích nâng đỡ, vợ hiền đảm đang. Nối tiếp đoạn trên nói, can thấu Tân kim, chi không có Kim cục, không thể tòng hóa. Như vậy lại nói chi thành Kim cục, Tân kim không thấu, cũng không lấy tòng Tài luận, chính là Tài đa Thân nhược, tuy ở gác tía lầu son, mà giống như vẫn chết đói. Như Tân kim xuất can, chi thành Kim cục, không thấy Tỉ Ấn, mới là chân tòng, Tài cách chân mà cục chính, tất chủ hiển đạt, tòng cách chủ là do nhân tài mà đạt đến phú quý, tòng Tài cách chủ được vợ khỏe mạnh chăm chỉ.

Tóm lại: Bính hỏa sinh vào tháng 8, chuyên dụng Nhâm sau mới đến Quý, người dụng Thủy thì Kim làm vợ, Thủy làm con, người dụng mộc thì Thủy làm vợ, Mộc làm con. Bính hỏa sinh vào tháng 8, Thân cường dụng Nhâm, tài vượng sinh Sát làm thượng cách, thấy ở tiết đầu. Nếu Nhâm Quý xuất can mà Bính hỏa không vượng, thì không thể không dụng Ấn, cho nên tháng 8 là Tử địa của Hỏa mặt trời gần Tây Sơn, không có Giáp mộc thì không thể hóa Nhâm thủy để sinh Bính hỏa. Giống với cách luận ở tháng 7.

Bính Tý, Đinh Dậu, Bính Ngọ, Giáp Ngọ.
Hai can không tạp, Tài sinh Thất sát cách, xuất chinh là tướng soái, nhập chiều là tể tướng, sinh giờ Tý không quý.
Theo mệnh tạo này, tháng Dậu kim nắm lệnh, Tài vượng sinh Quan, Quan Nhận làm dụng, là người văn võ toàn tài, đang ở trong vận Nhâm Dần Quý Mão vậy. Tháng 8 Bính hỏa thoái khí, do đó trông cậy hoàn toàn vào Ngọ hỏa, tốt là có Tý ở trụ năm, không xung Ngọ Nhận. Như sinh giờ Tý, Tý Ngọ tương xung, thì không có cái chết an lành vậy.

Bính Dần, Đinh Dậu, Bính Thìn, Đinh Dậu.
Hai can không tạp, giữ chức Thượng thư.
Theo mệnh tạo này, chuyên dụng Tài tinh, cũng may nhật nguyên tọa Thìn là đất Quan đới, Bính hỏa có khí, càng mừng gặp trụ năm Bính Dần, Bính hỏa Trường Sinh, hơn nữa hai can không tạp, cách cục thanh thuần, phú mà kiêm quý.

Kỷ Mão, Quý Dậu, Bính Tý, Mậu Tý.
Thương quan sinh Tài cách, tham gia quân đội, nhưng âm hình Sát trọng, vận Mão hi sinh tại mặt trận.
Theo mệnh tạo này Quý thủy Quan tinh, bị Kỷ thổ gây thương tích. Cho nên dụng Thương quan sinh Tài, và không dụng Tài Quan. Nhưng Bính hỏa đều trông cậy vào Mão Ấn tương sinh, Mão Dậu cùng xung, thì Ấn thụ bị thương hại, tái hành vận Mão, Suy thần xung vượng, Tài tinh phá Ấn dễ dàng nhận thấy ( bị tử trận) vậy.

Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Bính Thân, Đinh Dậu
Tài sinh Thất sát, cho nên chuyên dụng Nhâm thủy, chỉ tiếc hai Đinh xuất can, Tài thần không hiện, chỉ là anh học trò nghèo mà thủ cựu, hình mà còn cô độc.
Theo mệnh tạo này, tuy có hai Đinh trợ giúp Bính, mà Bính Lâm ở Thân, chắc chắn không thông căn, Tài vượng thân nhược không có Ấn sinh trợ, thảo nào đã tự hình mà còn cô độc. Kỷ thổ xuất can làm mờ Hỏa vẩn đục Nhâm. Trích Thiên Tủy nói rằng: thanh khí vẫn hiềm Quan không phất, cho nên chỉ là anh học trò thủ cựu mà thôi.

Bính Thân, Đinh Dậu, Bính Tuất, Ất Mùi
Tú tài, đại phú, không Huynh đệ, nhưng có 5 con.
Theo mệnh tạo này, Bính hỏa tọa Tuất, thông căn Hỏa khố, hơn nữa lại được Ấn thụ Ất Mùi sinh, Hỏa vượng dụng Kim. Cho nên đại phú.
Đắc lực ở giờ, cho nên nhiều con, anh em ứng hợp mà không có, hầu như nguyên nhân là bởi tháng 8 Hỏa lâm tuyệt địa. Những ví dụ trên lấy từ Sách tạo hóa nguyên thược.

Đinh Sửu, Kỷ Dậu, Bính Ngọ, Kỷ Sửu.
Sinh giờ Sửu ngày 24 tháng 8 năm thứ 3 đời vua Quang Tự.
Mệnh Đường Tự Bồi: Hỏa vượng dụng Kim, hơn nữa được Kỷ thổ sinh, Thương quan sinh Tài, là cách cự phú.

Kỷ Mão, Quý Dậu, Bính Thìn, Mậu Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 15 tháng 8 năm thứ 5 đời vua Quang Tự.
Mệnh Cấp Kim Thuần: Không có Nhâm, Quý là vật gây cản trở cho Mậu Kỷ, dụng Thương quan sinh Tài, chính là phú mà không quý, lấy Mão Thìn Dậu Tuất, Đông Tây kẹp củng, làm Quan đến chức Quân trưởng ( Quân đoàn trưởng)

Tân Tị, Đinh Dậu, Bính Dần, Kỷ Hợi.
Giờ Hợi ngày 7 tháng 8 năm thứ 7 đời vua Quan Tự.
Mệnh Vương Dao Khanh: Thân vượng dụng Tài mà còn gặp Đinh chế Tân, chuyên dụng Kỷ thổ Thương quan, Bính Dần Hồng Diễm Đào Hoa, Thương quan hợp với Đào hoa, là cuộc đời đào kép.

Mậu Tý, Tân Dậu, Bính Thân, Kỷ Sửu.
Sinh giờ Sửu ngày 17 tháng 8 năm thứ 14 đời vua Quang Tự.
Mệnh Trần XX: Gặp Tân xuất can ( Nam Xương) chi không thành cục, không thể tòng Tài, Bính hỏa vô căn, gọi là tòng mà không thể tòng, mệnh là con thừa tự. Nhưng chỉ được hưởng một chút ít phúc lộc của tổ tiên, cho nên là một tú sĩ có tài mà thôi.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào tháng 9

Bính hỏa sinh vào tháng 9 càng suy yếu, kị Thổ làm cho ánh sáng bị mờ tối, trước dụng Giáp mộc, sau dụng Nhâm thủy.

Bính hỏa đến tháng 9 là đất Hỏa Mộ địa, Hỏa dễ bị Thổ làm cho mờ tối nhất, mà cũng kị nhất là ánh sáng của Hỏa bị mù mịt, không gặp Nhâm thủy, như Thái dượng lặn xuống đường chân trời thì ánh sáng còn dư phản chiếu từ sóng của sông hồ mà lên, đặc biệt rực rỡ. Cho nên trước lấy Giáp mộc chế Thổ, tiếp theo lại dụng Nhâm thủy bổ trợ sức chiếu sáng. Giáp Nhâm cùng thấu, khoa bảng có chắc, phú quý phi phàm. Nếu như không có Nhâm thủy bổ trợ Bính giúp đỡ Giáp, được Quý thấu can, cũng chủ hiển đạt bằng con đường kì lạ nào khác, Nhâm Quý tàng chi, Cống giám mà thôi, Giáp tàng Nhâm thấu, không có Canh phá Giáp, có thể bằng lòng với tú tài vậy, hoặc Canh vây hãm Mộc, Mậu vây hãm Thổ, thì chắc chắn là kẻ tầm thường, trong cục không có Giáp Nhâm Quý là hạ cách.

Mùa thu tháng 9 Thổ táo Mộc khô, dụng Giáp không thể không có Thủy, cách dùng của Nhâm Quý thủy đều như nhau, nhưng Nhâm thủy kiêm có công trợ Bính, Quý thủy chỉ có tác dụng nhuận Mộc, cho nên khi gặp thì có thể chứng nghiệm được, mà không hề có sự giống nhau vậy.

Hoặc một bầy Hỏa thổ, tuy không vượng, thì cũng đương nhiên khô táo, nếu như quá vãng không rời quê cha đất tổ thì cũng chủ lưu đầy đến già, hoặc làm tăng đạo, hơn nữa không có Canh Tân Nhâm Quý xuất can, bần mà yểu.


Cung Tuất là mộ khố của Hỏa, giống với tháng Mùi là khô táo, tiết nhược khí của Bính hỏa, Như mệnh tạo sau: Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Bính Tuất, Ất Mùi. Bính hỏa không vượng mà hanh khô, chính là mệnh thiếu Canh mà xuất thế, tứ trụ không có Canh Tân Nhâm Quý cứu tế, cuối cùng nghèo túng mà chết yểu vậy.

Hoặc chi thành Hỏa cục, viêm thượng thất lệnh, vận nhập Tây phương, nghèo túng dị thường, không để ý tới vợ con.

Tháng 9 Bính hỏa nhập mộ, Viêm thượng không phải mùa của nó, phàm Viêm thượng cách tất hành vận Đông Nam, hợp với thể tính của Viêm thượng, thì tốt lành. ( xem tiết tháng 5 ở trên) Vận hành Tây Bắc, cho dù đắc thời thành cách, cũng khó phát đạt, huống chi lại còn thất lệnh.

Hoặc Kỷ thổ xuất can, Giáp mộc không thấu, tuy có Tỉ Kiên trợ Thân, khó chế được Thổ đương quyền, thì chỉ là người vô dụng vậy.

Tháng 9 Thổ táo mà trọng nặng, phải lấy Thủy nhuận Giáp mộc làm dụng, không có Nhâm Quý Giáp, tuy Bính hỏa gặp nhiều thì cũng không ích lợi gì, người dụng Giáp thì Thủy làm thê Mộc làm tử, người dụng Nhâm thì Kim làm thê Thủy làm tử.

Mậu Kỷ xuất can, phải dụng Giáp, khử Bệnh làm quý, Nhâm Quý tàng chi làm phụ tá, Hỏa nhiều mà thấu, dụng Nhâm Quý chế hỏa nhuận Thổ để sinh Giáp, dùng Nhâm Quý làm chủ, Giáp chế thổ làm phụ trợ.

Kỷ Hợi, Giáp Tuất, Bính Tý, Mậu Tý.
Giáp xuất Thiên can lại gặp sinh địa. Quan Hiếu liêm ( cử nhân).
Theo mệnh tạo này, chuyên dụng Giáp mộc chế Thương hóa Quan Sát.

Kỷ Dậu, Giáp Tuất, Bính Dần, Canh Dần.
Mệnh Cô Bần.
Theo mệnh tạo này, tuy có Giáp mộc xuất can, trụ không có Nhâm Quý, Thổ táo Mộc khô, đúng là người vô dụng vậy.

Bính Thân, Mậu Tuất, Bính Ngọ, Mậu Tuất.
Hai can không tạp, chi thành hỏa cục, chuyên dụng Nhâm thủy, tiên bần hậu phú.
Theo mệnh tạo này, Nhật tọa Dương nhận, năm gặp Nhâm Sát, cách cục đạt Quý, chỉ tiếc Mậu thổ xuất can, trụ vô Giáp mộc, Mậu thổ làm mờ Bính chế Nhâm mà sinh Canh kim trong Thân, trở thành cách cục giàu có thôi.

Canh Tuất, Bính Tuất, Bính Dần, Nhâm Thìn
Phú đại quý nhỏ, do Giáp tàng Nhâm thấu là nguyên nhân vậy, cuối cùng chỉ là một Cống sĩ (2).
Theo mệnh tạo này, Canh Nhâm cùng thấu, chỉ tiếc Canh Nhâm đều không thông căn, cho nên chỉ là một Cống sĩ mà thôi.

Giáp Dần, Giáp Tuất, Bính Tuất, Nhâm Thìn.
Theo mệnh tào này thì Thiên quan không có Tài tương sinh, tuy có Giáp mộc, cũng chỉ là mệnh bậc trung mà thôi. Các ví dụ trên lấy từ sách Tạo hóa nguyên thược.

Bính Dần, Mậu Tuất, Bính Thân, Mậu Tý.
Sinh giờ Tý ngày 3 tháng 9 năm thứ 11 đời vua Càn Long.
Mệnh Hồng Bắc Giang: Tự là Trĩ Tồn, dụng Canh kim cung Thân sinh Nhâm Quý, chỉ tiếc Mậu thổ quá nặng, Giáp mộc tàng Dần, không thể phá Thổ, lấy bằng tiến sĩ và được trao chức quan Biên tu (Quan Sử ngày xưa).

Đinh Sửu, Canh Tuất, Bính Ngọ, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 5 tháng 9 năm thứ 22 đời vua Gia Kháng.
Mệnh Thẩm Quế Phần: Bề ngoài tưởng như dụng thời thượng Thiên tài, chẳng biết rằng Dần Ngọ Tuất hội cục, thực tế Viêm thượng thất thời vậy, vận hành Giáp Dần Ất Mão, xuất thân hàn lâm, được tấn phong đến chức Đại học sĩ.

Tân Tị, Mậu Tuất, Bính Tuất, Nhâm Thìn.
Giờ Thìn ngày 9 tháng 10 năm đầu đời vua Đạo Quang.
Mệnh Mã Tân Di: Tân kim tiết Thổ sinh Nhâm, xuất thân tiến sĩ, làm đến Quan Tổng đốc, chỉ tiếc tứ trụ không có Giáp mộc, hành vận Nhâm Thìn, gặp phải trái ngang mà mất mạng.

Tân Dậu, Mậu Tuất, Bính Ngọ, Canh Dần
Sinh giờ Dần ngày 21 tháng 9 năm thứ 31 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Diêm Tử Minh: Chi thành hỏa cục, thành cách Thực thần sinh Tài, Hỏa nhập Mộ, hỉ hành đất sinh vượng, hành vận Đông Nam, cha được tử Quý, là mệnh đại phú.

Ghi chú
1- Tây Sơn (còn gọi là Bích Kê) là dải núi nằm ở Phía Tây, cách Côn Minh 12 km. Đi theo con đường rải nhựa xuyên qua những cánh rừng nguyên sinh lên núi Tây Sơn, du khách sẽ được tham quan những thắng cảnh nổi tiếng như Hòa Đình Tự, Thái Hòa Tự, Tam Thanh Các, Long Môn. Ở Trung Quốc thường là các phái Tôn giáo chia rất rõ ràng, như núi Võ Đang là núi Đạo giáo, núi Nga My là núi Phật Giáo, nhưng núi Tây Sơn Long Môn ở Côn Minh thì lại là tam giáo hợp nhất. Có nghĩa là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đều thể hiện trên một ngọn núi Tây Sơn là một nét rất độc đáo. Đây là khu phức hợp đình đài của Đạo Giáo, Nho Giáo và Phật giáo và là điểm tham quan chính của du khách khi đến Côn Minh.

2- Cống Sĩ: Tên gọi một cấp trong việc thi khoa cử của Chính quyền trung ương cổ đại Trung Quốc. Nguyên chỉ các nước chư hầu cổ đại tiến cử những bậc nhân sĩ cho Vua. Thời Đường, Tống lấy việc thi khoa cử ở các Châu ( Phủ), huyện người nào đạt yêu cầu gọi là Hương cống. Thời Minh Thanh, người nào đạt yêu cầu trong kì thi hội gọi chung là Cống sĩ. Chế độ nhà Thanh gọi những người vượt qua kì thi hội thì làm Cống sĩ, và sau đó trải qua thi đình được triều đình ban thưởng, và làm tiến sĩ. Nhưng thói quen trên sau mỗi lần vượt qua kì thi hội thì gọi là Tiến sĩ.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính Hỏa sinh vào tháng 10

Bính Hỏa sinh vào tháng 10, Thái dương ( Bính hỏa) thất lệnh, gặp Giáp Mậu Canh cùng thấu, nhất định có khoa bảng, phong thổ bất cập, cuối cũng cũng thuộc nhân tài được đề cử, chủ là người có tính cách tốt đẹp thanh cao, danh nhân văn hóa.

Tháng 10 Hỏa ở Tuyệt địa, cực hưu tù, cần dụng Giáp mộc để sinh, Nhâm thủy cung Hợi nắm lệnh, Giáp mộc tuy Trường Sinh nhưng không vượng, mộc ướt không thể nhóm lửa, được Mậu thổ chế thủy, chính là lý do vun bồi cho mộc, mộc vượng tự nhiên sinh Bính hỏa vậy, Bính hỏa do gặp Nhâm thủy là quý. Mậu thổ chế Nhâm, làm mất đi ý nghĩa phụ giúp sinh cho ánh sáng chiếu thêm rực rỡ, cho nên lại lấy Canh kim làm bổ trợ, Canh kim hóa Mậu thổ để sinh Nhâm thủy, dụng (thần) lấy Sát Ấn tương sinh. Cho nên khi gặp Giáp Mậu Canh cùng thấu, nhất định có phú quý vậy.

Hoặc Bính nhật chủ có Tân thấu, lại gặp chữ Thìn, hóa hợp gặp giờ, là mệnh đại quý.


Trong hóa khí, Bính hỏa thấy Tân, không dễ hóa nhất, khi so sánh với Giáp mộc gặp Kỷ thì (hóa khí Giáp Kỷ) là ưu tú nổi bật nhất, Trích Thiên Tủy nói rằng: Ngũ dương đều dương Bính là nhất, lại lấy ta khắc hóa mà trở thành khắc ta, không phải địa chi toàn gặp kim thủy, khí thế của Bính hỏa đã tử tuyệt, không dễ hóa vậy. Sinh vào mùa của tháng Hợi thủy vượng, chi thành thủy cục, hoặc toàn Bắc phương, lại thấy chữ Thìn, mới là chân hóa, hóa hợp đắc thời, chủ đại phú quý.

Hoặc thủy nhiều nhưng có Giáp vô Mậu, lại khó tòng Sát, cần phải dùng Kỷ thổ hỗn Nhâm Sát mới kì diệu.

Giáp mộc cung Hợi trường sinh, tuy Tứ trụ Nhâm nhiều nguyệt lệnh đắc Lộc, không lấy tòng Sát luận, mà có Giáp mộc tiết khí Sát, Sát Ấn tương sinh, Bính hỏa Tuyệt mà lại không Tuyệt đây là lý do vậy, nên dụng Kỷ thổ làm hỗn Nhâm, hỗn chứ không phải chế vậy, khiến cho Nhâm thủy xung thẳng đến, mà không phải Kỷ thổ có thể chế, đương nhiên thủy được thổ làm cho hài hòa, mà lại có thể sinh Mộc, là căn của Bính hỏa, Giáp mộc xuất can lại càng đẹp, không có Giáp thì lấy Giáp trong cung Hợi làm dụng, mộc có sức sống, cho nên có thể dụng vậy, dưới cách xem Kỷ thổ hỗ Nhâm phần nhiều hiển nhiên có thành tựu. Mộc của tháng 10, gặp Mão Mùi hội cục, vượng cùng với mộc, Hợi và Mùi hội, lý giống Kỷ thổ hỗn Nhâm, hỏa có thể sinh thổ, thổ chế thủy bồi mộc, hỏa dựa vào để sinh, chính là ý nghĩa mà Trích Thiên Tủy nói về phản sinh vậy.

Hoặc Tứ trụ nhiều Nhâm, nhiều Thân ( kim), lấy khí mệnh tòng Sát luận ( bỏ mệnh theo Sát), tuy không phát khoa bảng, cũng không mất đi được giai tầng của một gia đình cán bộ công chức.
Tiếp nối đoạn văn trên thì cung Hợi có Giáp, cung Thân có Canh, Canh kim chế Giáp, sức sống của mộc bị cắt đứt, thì Bính hỏa mới có thể tòng Sát, không có Thân không lấy tòng luận.

Tóm lại: Bính hỏa trong tháng 10, Mộc nhiều dụng Canh, thủy nhiều dụng Mậu, hỏa nhiều dụng Nhâm, tùy nghi đắn đo cân nhắc mà sử dụng. Nếu thủy nhiều mà không có Mậu, mộc thịnh Không có Canh, vậy chỉ là người bình thường mà thôi.

Nói như vậy ứng với cách dụng của bệnh và dược, cùng với Giáp Mậu Canh ở tiết đầu đều thấu thì không giống nhau, mộc vượng cần Canh, dụng Tài tổn Ấn vậy, thủy vượng cần Mậu, lấy Mậu thổ làm đề phòng vậy, song Bính hỏa của nguyên cục nhất định phải được sinh vượng, mới có thể dụng Mậu, bằng không khắc tiết cùng sảy ra. Hỏa vượng dụng Nhâm trợ giúp thêm cho ánh chiếu sáng thêm rực rỡ.

Tóm lại: Bính hỏa sinh vào tháng 10, lấy Giáp mộc làm nhân tố chủ yếu, Canh Mậu Nhâm tùy hoàn cảnh có lợi hoặc không có lợi mà có thể sử dụng.

Tân Tị, Kỷ Hợi, Bính Tý, Nhâm Thìn.
Mệnh này thủy nhiều, lấy Kỷ thổ làm dụng, , đại phú quý cũng thọ đến già, lại sinh quý tử.
Theo mệnh tạo này chính là Kỷ thổ hỗn Nhâm cách, Bính hỏa sinh tháng 10, đất tuyệt phùng sinh, mệnh đại quý vậy, người có mệnh đất tuyệt phùng sinh, tức nhật nguyên gặp tuyệt, Ấn thụ trường sinh, song Nhâm thủy cung Hợi đương vượng, thủy xung thẳng đến, không thể sinh Mộc, lấy Kỷ thổ hỗn hợp Nhâm thủy, khiến chở thành lợi ích của phản sinh, cách cục lấy Kỷ thổ hỗn Nhâm, dụng thần vẫn ở Giáp mộc, với Mậu thổ là dụng pháp đê phòng, tuyệt nhiên không giống nhau. Phàm dụng Nhâm thủy, đều kị Kỷ thổ làm hỗn trọc, duy chỉ có cách này mới lợi dụng sự hỗn trọc của nó (Kỷ thổ), để bồi dưỡng Giáp mộc sinh Bính hỏa, đây là loại cách cục đặc biệt lạ lùng vậy.

Giáp Thân, Ất Hợi, Bính Tuất, Canh Dần.
Canh Giáp lưỡng thấu Mậu thổ đắc vị. Làm quản lý kho lương.
Theo mệnh tạo này Bính tuy sinh vào tháng 10, Ấn vượng Thân cường, lấy Tài tinh Canh kim sinh Quan làm dụng, Mậu thổ vượng ở Tuất, cho nên mới nói Mậu thổ đắc vị vậy.

Nhâm Thìn, Tân Hợi, Bính Tuất, Mậu Tý.
Quan Hiếu liêm.
Theo mệnh tạo này, Bính hỏa thông căn ở thân khố, Nhâm thủy xuất can, được Giáp mộc thì quý, thân Sát không vượng mà dụng Mậu thổ, quý không đáng là bao.

Nhâm Thìn, Tân Hợi, Bính Ngọ, Nhâm Thìn
Hóa hợp gặp thời. Hàn lâm.
Theo mệnh tạo này, nhật nguyên Bính Ngọ tọa Dương nhận, Thìn Ngọ kẹp Tỵ lộc, Bính hỏa ám vượng, không thể tòng hóa, cũng may Đinh Kỷ trong Ngọ với Nhâm Giáp trong Hợi hai hai tương hợp, khí thế đoàn tụ, Đinh Nhâm hóa hợp, Kỷ thổ hỗn Nhâm sinh Giáp mộc, vẫn lấy Giáp Ấn làm dụng, Sát vượng làm Ấn, điều đắc ý này là đương ở vận Giáp Dần Ất Mão vậy. Những ví dụ trên lấy trong sách Tạo hóa nguyên thược.

Tân Mùi, Kỷ Hợi, Bính Thìn, Kỷ Hợi.
Sinh vào giờ Hợi ngày 11 tháng 10 năm thứ 16 đời vua Gia Khánh.
Mệnh Công quốc phiên Tằng Văn Chính : Kỷ thổ hỗn Nhâm cách, xuất chinh làm tướng soái, nhập chiều làm thừa tường. Giải thích tường tận ( như ) mệnh Tân Tỵ ở trên, Hợi Mùi củng Mão, hóa Sát làm Ấn, qủa là thấy xuất sắc tuyệt vời vậy.

Nhâm Thân, Tân Hợi, Bính Ngọ, Canh Dần.
Sinh vào giờ Dần ngày 7 tháng 10 năm thứ 17 đời vua Gia Khánh.
Mệnh Công tông đường, Tả Văn Long: Bính Ngọ nhật nguyên tọa Dương nhận, Nhâm Sát đến sinh đắc lộc, Sát Nhận lưỡng đình, lấy Giáp mộc cung Dần làm dụng, thủa nhỏ hai vận Nhâm Tý Quý Sửu gian nan, nhập Giáp Dần Ất Mão Đông Nam vận, công thành danh tọai, phù hợp thay, Quan đến Tổng đốc, phong cách nhún nhường mà quyền quý.

Nhâm Thân, Tân Hợi, Bính Dần, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 27 tháng 10 năm thứ 17 đời vua Gia Khánh.
Mệnh Từ Tông Doanh: Nhâm thủy đương vượng, lại được Tài sinh, lấy Giáp cung Dần làm dụng, vị đến Tổng đốc.

Bính Tuất, Kỷ Hợi, Bính Tý, Nhâm Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 27 tháng 10 năm thứ 12 đời vua Quang Tự.
Mệnh tướng quân Trần Điều Nguyên: Kỷ thổ hỗn Nhâm cách (gặp ở bên trên).



descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính Hỏa sinh vào tháng 11

Tháng 11 tiết Đông chí dương sinh, trong nhược sinh vượng, trước dụng Nhâm, Mậu làm phò tá.
Bính hỏa ở tháng trọng Đông, trước Đông chí, xem giống với tháng 10, sau Đông chí, nhất dương hồi phục trở lại, trong nhược hồi phục lại cường. Khi Nhâm thủy ở tháng trọng Đông chuyên vượng, cho nên lấy Mậu thổ làm phụ tá, là lúc không phải nhật nguyên sinh vượng thì không thể được.


Nhâm Mậu đều thấu, nhất định có khoa bảng, cho dù phong thổ bất cập, tất nhiên sẽ được tuyển chọn đề bạt, nhiều Mậu gặp Kỷ, không quá tú tài, hoặc hiển đạt bằng con đường khác biệt nào đó. Người dụng Mậu, không thể thiếu Giáp, Nhâm Mậu cần cân nhắc khi dụng. Dụng Mậu không thể thiếu Giáp, là điểm chính yếu nhất. Sau Đông chí, tuy nói rằng nhất dương hồi phục trở lại, nhưng cuối cùng vẫn thuộc khí thế rất suy nhược, Bính hỏa tuy mừng có Nhâm thủy phụ giúp thêm sức chiếu sáng, nhất định phải có Giáp mộc sinh trợ hỏa vượng, mới có thể cùng bổ sung cho nhau thì mới tốt, dụng Nhâm không thể thiểu Giáp, dụng Mậu càng không thể không có Giáp, nhật nguyên sinh vượng, mới khá dụng Thực Thần chế Sát vậy, đến mức Mậu nhiều gặp Kỷ, chế Sát thái quá, do Nhâm thủy thừa vượng, cho nên là sự thanh tú của Nho lâm. Trụ có Giáp Bính, phối hợp được thích hợp, sẽ hiển đạt bằng con đường kì lạ nào đó, nếu không thì, chế quá Thất sát , quá cẩn trọng mà cũng chỉ là bần nho mà thôi, công danh không thể đạt, thân vượng dụng Nhâm, Nhâm nhiều dụng Mậu, cần phải xem sự vượng nhược của nhật nguyên mà cân nhắc khi sử dụng vậy.

Hoặc nhất phái Nhâm thủy, chuyên dụng Mậu thổ, người này tuy không thành danh, văn chương vượt xa nhiều người, nhưng cuộc đời danh lợi hư phù, vì sao vậy? Bời Mậu làm mờ ánh sáng của hỏa, cần phải có Giáp mộc làm thuốc vậy, hoặc thủy nhiều không có Mậu, hỏa nhiều không có Nhâm, phối hợp không được trung hòa, hạ cách.

Hỏa ở tháng 11 thất lệnh, gặp một bầy Nhâm thủy, không thể không dụng Mậu thổ, nhưng Mậu thộ lại trợ giúp ánh sáng của Bính Nhâm, Bính hỏa lại yếu ớt vô khí, tuy tài năng xuất chúng, cũng chỉ là danh lợi hư phù ( Sát vượng có chế, cho nên có tài năng) được Giáp mốc thì trở thành cứu trợ, chính là danh lợi lưỡng toàn.

Tóm lại: Nhật nguyên suy nhược, dụng Tài Sát hoặc dụng Thực thần chế Sát, đều không phải thượng cách, không dụng Ấn thì không thể được. Nếu nguyên cục Ấn Kiếp quá nhiều, lại không dụng Sát thì không thể, không có Sát cũng không phải thượng cách.

Hoặc không có Nhâm thủy, có Quý xuất can, được kim sinh mà không có thương hại, lại có Bính thấu để giải băng hàn, có thể bằng lòng với y khâm vậy.

Nối tiếp đoạn văn trên. Như nguyên mệnh Ấn Kiếp quá nhiều, không có Nhâm Sát thì không quý, không có Nhâm dụng Quý. Nhưng Quý thủy ở tháng trọng Đông giống như sương tuyết, Bính hỏa lại ở vào những ngày đông tháng giá mà không có ánh sáng, không có Tỷ Kiếp xuất ra để giải băng hàn, thì không đủ để cứu giúp, cho nên có Bính thấu, thì chỉ có thể bằng lòng với ykhâmvậy.

Hoặc Tứ trụ nhiều Nhâm mà không Giáp, chính là làm khí mệnh tòng Sát, cũng có con đường thanh vân (quý tộc, quý phái).

Bính lâm tháng Tý, khí thế đã tuyệt, tứ trụ nhiều Nhâm mà không có Giáp, lấy khí mệnh tòng Sát luận, dưới chi lấy hội thủy cục hoặc toàn phương Bắc là đẹp. Đây chính là biến cách vậy.

Hoặc thủy nhiều có Giáp mà không có Mậu, lại không phải tòng sát, thích hợp với dụng Kỷ thổ làm vẩn đục Nhâm, Bính hỏa sinh vào tháng 11 với Bính hỏa sinh vào tháng 10 có phần giống nhau.

Trọc Nhâm tức là hỗn Nhâm, cách dụng giống với tháng 10. Nhưng tháng 10 Giáp mộc cung Hợi có khí, nếu như Giáp mộc không thấu, có thể dụng Giáp trong cung Hợi. Nếu như sinh vào tháng 11, không có Giáp mộc xuất can thì không thể được, lại càng cần có Tỷ Kiên Bính hỏa trợ giúp, thủy thổ băng hàn, không có Bính hỏa, mộc không có sức sống vậy, hoặc gặp chi Dần cũng khả dụng.

Tóm lại: Bính hỏa sinh vào tháng 11, Giáp không thể thiếu, cho nên kị thổ làm mờ ánh sáng, do đó dụng Giáp để phá. Nếu như dụng Nhâm, thủy mùa Đông thành băng đá, không gặp Tỷ Kiên, cần xem xét khi dụng.

Bính hỏa sinh vào tháng 11, ở đất Suy tuyệt, khí thế Hưu tù, không thể không có Giáp để sinh, thủy vượng không thể không có Mậu chế. Mà hỏa Suy tuyệt, gặp thổ làm mờ ánh sáng, không dụng Giáp phá thổ thì không hiển đạt, nói như vậy là dụng thổ chế Nhâm thủy vậy. Giữa mùa Đông trời thì lạnh đất thì đóng băng, Nhâm thủy thành băng, không có chi thành hỏa cục, can gặp Tỷ Kiên, không thể dụng Nhâm thủy. Cho nên hỏa Suy tuyệt, mà gặp thủy đương vượng,phá sự khắc chế của nó thì rễ ràng, mà trở thành cái mà ta dụng được thì khó khăn, vậy phải thận trọng cân nhắc sử dụng sao cho phù hợp.

Tân Hợi, Canh Tý, Bính Dần, Canh Dần
Quan Bố chính.
Theo mệnh tạo này thì khí kim thủy chi năm, chi tháng vượng, mừng được hai Dần ở ngày giờ, trong Dần ám tàng Giáp mộc, lại có Bính hỏa trợ giúp, vận hành phương Nam, thảo nào quý hiển.

Tân Dậu, Canh Tý, Bính Tý, Quý Tị.
Dụng Bính là người đức tài nổi bật, tiểu phú.
Theo mệnh tạo này được, nhật Lộc quy thời, chuyên dụng một điểm Lộc ở chi giờ, sau trung niên, hai vận Ất Mùi Giáp Ngọ mộc hỏa tương sinh, đương nhiên được tốt đẹp đến cuối đời.

Đinh Tị, Nhâm Tý, Bính Tuất, Mậu Tý.
Kim hàn thủy đóng băng, Đinh Nhâm đều mất, Mậu hối hỏa quang, nghèo khó còn thêm bệnh tật mà chết.
Theo mệnh tạo trên, nhật nguyên đắc lộc ở Tỵ, tạo này đắc căn ở Tuất, khí tương đối suy nhược, Đinh Nhâm hợp nhất, cả hai đều mất đi tác dụng của mình, tóm lại là cục thủy vượng hỏa suy, không dụng Giáp mộc thì không thể được, vận hợp với Đông Nam, Tấy Bắc là đất Tử tuyệt của mộc hỏa, nhất định không có ích lợi vậy. Những ví dụ trên trích từ sách Tạo hóa nguyên thược.

Tân Dậu, Canh Tý, Bính Thìn, Kỷ Sửu.
Sinh giờ Sửu ngày 3 tháng 12 năm thứ 11 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Đường Thiệu Nghi: Bính hỏa sinh vào giữa Đông, không thể không có Bính Giáp. Tứ trụ này Tý Dậu kẹp Tuất Hợi, Thìn Sửu kẹp Dần Mão, Mão Tuất, Dần Hợi tương hợp, thành ám Kiếp ám Ấn, lấy mộc hỏa hư thần làm dụng, địa vị đủ hết, cho nên là quý, vận hành phương Nam, vị đến Tổng quản ( tể tướng).

Tân Mùi, Canh Tý, Bính Tuất, Giáp Ngọ
Sinh giờ Ngọ ngày 29 tháng 10 năm thứ 10 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Danh y Hạ Ứng Đường: Ngày hàn trở thành ấm, tuy gặp Ngọ Tuất hội cục, vẫn dùng Giáp mộc, vận hành Ất mộc Giáp mộc, danh trọng một thời, qua đời ở vận Quý.

Canh Thìn, Mậu Tý, Bính Tý, Canh Dần
Sinh giờ Dần ngày 12 tháng 11 năm thứ 6 đời vua Quang Tự.
Mệnh Đàm Đơn Nhai: Chỉ lấy Giáp mộc cung Dần làm dụng, Bính hỏa gặp Mậu thổ thì bị hối mờ ánh sáng, chính là không Quý, Mậu thổ chế thủy sinh Tài, khiến Giáp mộc đắc dụng mà tận lực sinh phù , chính là phú cách, vận hành Đông nam, giữ chức giám đốc Ngân hàng Đại Lục. Bất ngờ mất ở năm Quý Dậu, hưởng thọ 54 tuổi.

Giáp Tý, Bính Tý, Bính Dần, Bính Thân.
Sinh giờ Thân ngày 29 tháng 11 năm thứ 3 đời vua Đồng Trị.
Mệnh thương gia buôn muối Chu Tương Thương: Chỉ dụng Giáp mộc, lại có Bính hỏa để trợ giúp. Song phú trọng quý khinh, là do không có Nhâm thủy để bổ trợ cho ánh chiếu sáng được rực rỡ, khí sáng tỏ không đủ, qua đời ở vận Mùi năm Giáp Tuất.

Kỷ Mão, Bính Tý, Bính Tý, Đinh Dậu.
Sinh giờ Dậu ngày 7 tháng 11 năm thứ 5 đời vua Quang Tự.
Mệnh Hồ Hán Dân: Tý là nơi hoàng đế ngồi (1), năm Mão giờ Dậu, Đông Nam đối vị, Mão Dậu là cửa nhật nguyệt ( ngày tháng) ra vào, Tài Quan Ấn Tam Kỳ đều đầy đủ, tượng đại quý, chỉ tiếc Thương cư trên Ấn, Kiếp lâm Tài địa, sinh ở trước Đông chí, nhất dương cùng hồi phục. Phàm không có vận mộc hỏa tương trợ, chưa thành công mà đã qua đời, tiếc quá!

Quý Mùi, Giáp Tý, Bính Tuất, Tân Mão.
Giờ Mão ngày 9 tháng 11 năm thứ 9 đời vua Quang Tự.
Mệnh Trương Hồng Chí: Không có Nhâm dụng Quý, Quan tinh thừa vượng nắm lệnh, lại được Giáp mộc sinh trợ, chỉ tiếc Bính Tân hợp nhất, Nhật nguyên luyến Tài và không hướng về Quan Ấn, Dụng thần không chuyên trở thành bệnh vậy, vị đến Tổng thư ký viện hành chính. Lại mệnh Uông Lịch Viên: giờ Nhâm Thìn, năm tháng giờ đều giống nhau, Nhâm thủy xuất can, vị đến Trưởng đại lý viện ( Tòa thượng thẩm).

Ghi chú:
1/ Tý là nơi hoàng đế ngồi: Tý là hướng Bắc, Hoàng đế là ám chỉ sao Tử vi hay còn gọi là sao Bắc cực. Ngôi sao này trong Tử vi coi nó là vua của các vì sao. Trong thiên văn học thì nó nằm ở trong chòm sao Tiểu hùng tinh.



descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Bính hỏa sinh vào tháng 12

Tháng 12 khí tiến nhị dương, lấn át tuyết ức hiếp sương, nên trước là lấy Nhâm làm dụng, Kỷ thổ tư lệnh, Kỷ nhiều cần phải dụng Giáp làm phò tá.

Bính hỏa không sợ thủy khắc mà chỉ sợ thổ tiết, mặt trời chiếu xuống sông hồ, ánh sáng của nó đặc biệt lóng lánh, không có Nhâm không thể đạt được phú quý, không có Giáp không thể sinh Bính, thổ dù có hay không dù nhiều hay ít thì cũng vậy. Nhưng Kỷ nhiều thì không thể không có Giáp.

Nhâm Giáp cùng thấu, nhất định khoa bảng, cho dù phong thổ kém, có thể bằng lòng với Cống Giám (1), Giáp tàng, không quá tú tài. Hoặc không có Giáp mà một Nhâm thấu, trong phú có quý, ba tháng mùa xuân đều có lợi.

Nhâm Giáp cùng thấu, nhất định quý ở khoa bảng, Giáp tàng mà vận trình Đông nam, mộc hỏa đắc địa, cũng có thể đạt được quý vậy. Tháng 12 Kỳ thổ nắm lệnh, vô hình trung, hối Bính làm vẩn đục Nhâm, không có Giáp không thể có quý hiển, song gặp Nhâm thấu, tức có tượng ánh sáng óng ánh rực rỡ. Như vậy đó là lý do ba tháng mùa xuân đều có lợi vậy, chỉ phú trọng mà quý khinh mà thôi.

Hoặc một bầy Kỷ thổ, không thấy Giáp Ất, gọi là giả Thương quan cách, tính thông minh kiêu ngạo, ngày Đông không có ôn loãn, cho nên là giả danh giả lợi. Nếu gặp Giáp mộc, chính là cần lấy Thương quan bội Ấn làm dụng, danh lợi kiêm toàn.

Hoặc một bầy Quý thủy, Kỷ thổ xuất can, tất nhiên tự sáng lập cơ nghiệp. Nếu Kỷ thổ chế Quý thái quá, lại lấy Tân kim tiết thổ sinh Quý, chắc chắn thấu Quý mới đẹp, tuy không thành danh, nhưng là con người tao nhã phong độ.


Kỷ Quý Tân trong Sửu đồng cung, Kỷ Quý xuất can, nguyệt lệnh đồng cung đắc dụng, chắc chắn là người sáng lập, được Tân kim cùng xuất, tiết Kỷ sinh Quý, là hỷ dụng đồng cung tụ khí, chứng cớ quý hiển vậy, tức không thành danh, thì cũng là người tao nhã phong độ vậy. Hỷ dụng đồng cung cũng là một trong những cách xem. Nếu như hợp với yêu cầu của nhật nguyên, mà đắc dụng, nhất định mệnh quý hiển. Cho dù không đắc dụng thì cũng là một loại bằng chứng quý hiển đầy đủ vậy.

Quý Mão, Ất Sửu, Bính Ngọ, Nhâm Thìn.
Quan Thống lĩnh.
Theo mệnh tạo này thì nhật nguyên tọa Nhận, Thất sát xuất can, Sát Nhận cách ấy mà, kì diệu là ở hai chữ Ất Mão, Chính Ấn đắc Lộc, Thìn Ngọ kẹp Tị Lộc, Sửu Mão kẹp Trường Sinh ( Dần), nhật nguyên ám vượng, hành kim thủy vận, có Ấn hóa, hợp với làm đại quý cách.

Ất Sửu, Kỷ Sửu, Bính Dần, Canh Dần.
Hai Giáp chế thổ. Quan án sát.
Theo mệnh tạo này có hỏa thổ Thương quan bội Ấn vậy, không có Ấn sao có thể đạt được quý hiển vậy.

Ất Dậu, Kỷ Sửu, Bính Dần, Kỷ Sửu.
Kỷ nhiều thì dụng Giáp phá, Giáp lại Lộc tại Dần, Dụng thần đắc vị. Trạng nguyên.
Theo mệnh tạo này, chuyên dụng Giáp mộc trong Dần Kỷ thổ tiết tú khí của Bính hỏa, thông minh sẵn có, Thương quan thái trọng, tất nhiên lấy Thương quan bội ấn làm dụng.

Kỷ Sửu, Đinh Sửu, Bính Ngọ, Canh Dần.
Dụng Giáp chế Kỷ. Đề danh nhất bảng.
Theo mệnh tạo này thì hỏa thổ Thương quan mà Dần Ngọ hội cục, cũng là Thương quan bội Ấn.

Kỷ Tị, Đinh Sửu, Bính Tuất, Canh Dần.
Cũng dụng Giáp mộc. Nhất bảng đề danh.
Giống với mệnh tạo trên.

Ất Tị, Kỷ Sửu, Bính Thân, Quý Tị.
Dụng Tân đắc kim cục. Tay trắng mà thành danh.
Theo mệnh tạo này thì Bính lâm Thân vị, khí thế quá yếu, may mắn hai Tỵ trụ năm trụ giờ, Bính hỏa đắc lộc, Tị Sửu hội cục, Thương quan dụng Tài, là nhân vật trong giới thương nhân, Quý thủy phá Thương, cho nên không quý vậy. Các ví dụ trên trích ra từ sách Tạo hóa Nguyên thược.

Mậu Tuất, Ất Sửu, Bính Thìn, Mậu Tuất.
Sinh giờ Tuất ngày 30 tháng 11 năm thứ 30 đời vua Càn Long.
Mệnh Đào Chú: Thổ trọng mà chân thực, cách thành Giá sắc, sinh trước Đại hàn 3 ngày, trời lạnh đất đóng băng, mừng ngày Đông ấm áp, lấy Ất mộc làm dụng, trở thành hỏa thổ Thương quan vậy. Trích Thiên Tủy nói rằng: Cục tử vượng mẫu Suy, cần trợ giúp mẫu, vận hành phương Nam, thổ ấm mà nhuận sinh, vận vật tranh đua sinh trưởng. Vận Tỵ năm Nhâm Ngọ nhậm chức hoàn phủ ( tỉnh An Huy). Vận Ngọ năn Canh Dần làm Tổng đốc hai tỉnh Lưỡng Giang (2), thổ ấm áp mà sinh, rõ ràng có thể thấy rõ vậy, bất ngờ vào vận Mùi năm Kỷ Hợi, thọ 62, Thụy hiệu là Văn Nghị.

Tân Dậu, Tân Sửu, Bính Dần, Nhâm Thìn.
Sinh giờ Thìn ngày 13 tháng 12 năm 11 đời vua Hàm Phong.
Mệnh Ấn quang lão pháp sư: Tài vượng Sát cao, chuyên dụng mộc viêm cung Dần, Dần Thìn kẹp Mão, khí tụ phương Đông, Mão là điều quý của Nhâm thủy, Bính quý ở Dậu, Tân quý ở Dần, mãn bàn ( toàn cục) Thiên ất rồi gặp Hoa cái, hợp với con đường Tăng đạo, vận hành Ất Mùi Giáp Ngọ, danh khắp thiên hạ, đến vận Quý bế quan tu dưỡng.

Đinh Mão, Quý Sửu, Bính Thân, Mậu Tý.
Sinh giờ Tý ngày 17 tháng 12 năm thứ 6 đời vua Đồng Trị.
Mệnh Thái Tử Dân: Chuyên lấy Kiếp Ấn trụ năm làm dụng, vãn niên vận hành phương Nam, giữ chức Viện trưởng viện nghiên cứu trung ương.

Bính Tý, Tân Sửu, Bính Thân, Mậu Tý.
Sinh giờ Tý ngày 10 tháng 12 năm thứ 2 đời vua Quang Tự.
Mệnh Tào Nhữ Lâm: Bính Tân tranh hợp, không có Thìn không lấy tòng hóa luận, lấy Tân kim tiết thổ để bảo vệ Quan tinh Tý thủy, tuy gặp nhị dương tiến khí, cuối cùng vẫn hiềm thân nhược, hành vận phương Đông, giữ chức Bộ trưởng tài chính giao thông.

Quý Mùi, Ất Sửu, Bính Dần, Canh Dần.
Sinh giờ Dần ngày 20 tháng 12 năm ( tất) đời vua Quang Tự.
Mệnh Trử Dân Nghị: Hai Dần ở trụ ngày và giờ, nhị dượng tiến khí, Bính hỏa vượng tướng, lấy Canh Dần tiết Kỷ thổ sinh Quý thủy, hỷ Quý thủy xuất can, giữ chức Tổng thư kí viện hành chính.

Mậu Tuất, Ất Sửu, Bính Tuất, Quý Tị
Sinh giờ Tỵ ngày 7 tháng 12 năm 24 đời vua Quang Tự.
Mệnh Thượng Tiểu Vân: Quý thủy xuất can, Mậu thổ thương hại, thổ trọng thương Quý, chỉ là đào kép tiếng tăm.

Ghi chú:
1/ Cống Giám: Trong chế độ khoa cử đây là một trong những danh mục của Giám sinh. Triều đại nhà Minh, Thanh lấy tư cách của Giám sinh vào Quốc tử giám học tập thì gọi là Cống Giám.

2/ Lưỡng Giang: Đầu đời Thanh chỉ hai tỉnh Giang nam và Giang Tây, sau đời Khang Hi, Giang Nam phân thành hai tỉnh GiangTô và An Huy. Nay cả ba tỉnh vẫn gọi là Lưỡng Giang, Trung Quốc.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Trích trong "Cùng Thông Bửu Giám Toàn Tập"
(Dư Xuân Đài, Từ Nhạc Ngô bình chú, Nguyễn Lê biên dịch)


Chính nguyệt Đinh hỏa (tháng Giêng, Dần, Lập Xuân)

(Tháng giêng Đinh hỏa, Giáp mộc nắm quyền, chính là Mẫu vượng, không phải Canh không thể bổ Giáp, làm sao mà dẫn Đinh, trước dụng Canh sau dụng Nhâm)
Đinh hỏa không thể xa rời Giáp mộc, không có Giáp thì Đinh hỏa không có chỗ dựa theo chiếu sáng, Giáp mộc không thể xa rời Canh kim, không phải Canh bổ Giáp, không thể dẫn Đinh, (mộc hỏa không linh hoạt), tháng giêng Dần cung tự có Giáp mộc, cho nên trước dụng Canh, nhưng cũng không thể không có thủy, không có thủy thì mộc hỏa thái viêm, khí không trung hòa, cho nên lấy Canh Nhâm Tài Quan làm dụng.

(Như Nhâm thấu thì hóa mộc, nếu lại sinh vượng, hợp chỗ này là bản thân bầu bạn với đế vương, nhưng mà không cần Canh phá cách, có Canh thì bất quá cũng chỉ là Tú tài mà thôi).
Đinh Nhâm hóa mộc hỉ gặp Dần, để được tháng Dần giờ Dần là tốt, hợp chỗ này thì nhất định chủ đại quý, thấy Canh kim phá cách, vẫn dụng Tài Quan, là nho sĩ mà thôi. Tháng giêng Đinh hỏa, không thể xa rời Giáp Canh, đơn độc có thành cách hóa mộc, hỉ Giáp kỵ Canh, thấy Canh thì không thành hóa cách vậy.

(Hoặc có Canh cùng Nhâm Quý, được Kỷ xuất can chế , dù không là Khoa Giáp, cũng có đường khác phong tước ân huệ)
Tiếp đoạn văn ở trên thấy Canh hóa mộc không thành mà dụng Tài Quan, dụng Tài sinh Quan, kỵ thấy Mậu thổ là Thương quan, nếu thấy Kỷ thổ chưa đủ để chế Nhâm Quý, duy chỉ có Thực thần sinh Tài, được hỗ trợ phú trong lấy quý, không từ con đường chính vậy.

(Hoặc một lúc có Nhâm Quý, không được giờ Dần, lại không có Canh kim, nhất định là khốn cùng)
Tiếp đoạn văn ở trên, tháng giêng Đinh hỏa thấy Nhâm, gặp tháng Dần giờ Dần, thì thành hóa mộc, hóa cách thì lấy Ấn làm dụng, cho nên cùng nói là quý, như thấy Canh kim phá hóa cách, thì dụng Tài Quan, như không thành hóa khí, lại không có Tài Quan làm dụng, nhất định là khốn cùng vậy, tổng kết đoạn văn ở trên.

( Hoặc một lúc có Giáp mộc, không có Canh chế, không bần thì yểu, hoặc chỉ có một Giáp, thấy nhiều Ất mộc, là khách ly hương bôn ba, khỏi nói đến vợ con vậy, hoặc Giáp Ất cùng thấy, sinh giờ Canh Tý, lại chủ sớm có vợ con, mà có thể gặp hái thành công)
Giáp mộc quá nhiều, mộc thịnh hỏa tắc, nhất định cần dụng Tài phá Ấn, không có Canh chế là tượng bần yểu, thấy nhiều Ất mộc thì Kiêu Ấn quá vượng vậy, không có Canh phá Ất, khỏi nói đến vợ con, sinh giờ Canh Tý, Canh kim Tài tinh phá Ấn, lập tức thấy Tý thủy Thiên Quan, cho nên chủ sớm có vợ con, Thiên quan không thấu, là nhà nho thanh tú mà thôi, Trích Thiên Tủy nói: Thanh khí hoàn hiềm quan bất khởi thị dã. (Thanh khí còn sợ Quan không khởi là vậy)

(Hoặc năm Đinh, tháng Nhâm, ngày Đinh, giờ Nhâm, Nam nhất định phú, Nữ nhất định Tốt, cách này lấy hỏa là Thê, thổ là Tử, nhưng con cái gặp khó khăn, nữ mệnh hợp chỗ này, là hình Phu khắc Tử, mà còn dâm tiện)
Chỗ này luận bản thân Nhâm không hóa, thiên can dù có cả hai tương hợp, lại gặp tháng Dần giờ Dần, nếu Nhật nguyên Đinh Dậu, là Tài sinh Quan vượng, không lấy hóa luận, trọng Quan thành Sát, cần có Thực Thương chế, cho nên lấy thổ làm dụng, Nam mệnh trọng Quan không quý, nhưng Tài Quan tương sinh, chủ có sáng kiến sự nghiệp, phụ giúp mà thành phú; Nữ mệnh lấy Quan là Phu tinh, mà thấy trọng Quan, Đinh Nhâm lại thành hợp dâm đãng thân thiết, cho nên chủ hình Phu dâm tiện vậy, cần nên tham khảo lấy Thần Sát, mới có thể quả đoán, cách này lấy thổ làm dụng, giờ gặp Nhâm Dần, mộc vượng thổ sụp đổ, cho nên khó tránh khỏi con cháu gian nan, hoặc thấy hình khắc.

(Chi thành hỏa cục, không có tích thủy để giải viêm, là mệnh tăng đạo, cô bần thoát tục, thấy Giáp xuất ra thì có tốt)
Đinh là hỏa suy kiệt, không thành Viêm Thượng, duy chỉ lấy Canh Nhâm phối hợp thủ dụng, thấy Thân rõ là can, trợ kỳ sinh vượng, vận hành Đông Nam, cũng có thể lấy quý, chính là Giả Viêm Thượng cách vậy.

Tóm lại, Đinh không thể xa rời Giáp, thấy Giáp như Tử gặp đích Mẫu, có thể Thu, có thể là Đông, nhưng cũng không thể thiếu thủy, nhưng không nên nhiều.

Tổng kết đoạn văn ở trên, Đinh là hướng hỏa suy, không phải có mộc trợ giúp sinh vượng thì không thể hiển dụng, cho nên Đinh không thể xa rời Giáp, nếu thấy Ất mộc, thì cùg là khí suy kiệt, không thể sinh phù Đinh hỏa mà thành tượng thông minh vậy, thấy Giáp mộc, thì dù có sinh ở Thu Đông, không sợ suy nhược, Đinh hỏa lưu thông rõ ràng, không có so với Bính hỏa tính Viêm liệt, nhưng dụng cũng không thể không có thủy, nhưng không cần thấy nhiều vậy, Thủy Hỏa lấy ký tế là tốt, cho nên Bính không thể xa rời Nhâm, Đinh hỏa có Giáp mộc vốn là chỗ dựa, thì cũng lấy dụng Nhâm thành quý vậy.

Các ví dụ:

(1) Giáp Ngọ, Bính Dần, Đinh Tị, Tân Hợi.
Thái giám.
Ghi chú: Chi thành hỏa cục, dụng Hợi cung Nhâm thủy, dù có quý cũng không lớn, Tị Hợi tương xung, về già khó khăn vây khốn.

(2) Canh Thìn, Mậu Dần, Đinh Mùi, Nhâm Dần.
Thư sinh, Dậu vận chết.
Tạo này Đinh Nhâm hóa mộc, được tháng Dần giờ Dần, lại thấy Thìn, thành tượng hóa mộc, tiếc là có Canh kim xuất can phá cách, hóa mộc không thành, vẫn dụng Tài Quan, Mộc là chủ nhân thọ, hành vận tới Dậu, tuổi 70 hiếm thấy vậy.

(3) Nhâm Tuất, Nhâm Dần, Đinh Mão, Mậu Thân.
Thân nhược Sát cường, hung mệnh.
Ghi chú: Hóa mộc bị phá cách, chỉ có thể dụng Nhâm thủy, Dần Mão Ấn là do chỗ Thân cung Canh kim phá hư, cho nên thân nhược, dụng Mậu thổ Thương quan chế Sát, là khắc tiết giao nhau tập hợp, sao có thể không có họa.

(4) Tân Mão, Canh Dần, Đinh Dậu, Quý Mão.
Nữ mệnh, bần tiện.
Ghi chú: Nữ mệnh tài vượng sinh Sát mà Sát không có chế, mệnh bần tiện.

(5) Quý Mùi, Giáp Dần, Đinh Tị, Tân Sửu.
Khang Hi năm thứ 42, tháng giêng, ngày 11, giờ Sửu.
Mệnh Tề Triệu Nam: Dụng Quý thủy, Tài sinh Sát nhược, làm quan đến chức Thị Lang.

(6) Mậu Thìn, Giáp Dần, Đinh Mão, Kỷ Dậu.
Đồng Trị, năm thứ 7, tháng giêng, ngày 18, giờ Dậu.
Mệnh Chủ tịch Lâm Sâm: Dần Mão Thìn một khí Đông phương, Giáp mộc xuất can, Ấn thụ thái vượng, lấy Tài tổn Ấn làm dụng, tới Canh Thân, Tân Dậu vận, địa vị là nguyên thủ, hoặc nói giờ Mậu Thân thì dụng cũng giống nhau.

(7) Quý Mùi, Giáp Dần, Đinh Hợi, Kỷ Dậu.
Quang Tự năm thứ 9, tháng giêng, ngày 5, giờ Dậu.
Thay quyền nhà Thanh, Mệnh Vương Tái Phong: là vua Tuyên Thống (niên hiệu của vua Phổ Nghi thời Thanh, Trung Quốc, 1909-1911) vậy. Mộc vượng dụng kim, mà Tân kim vô lực, Tân vận năm Mậu Thân, Kỷ Dậu lên nhiếp chính, Hợi vận năm Tân Hợi mất nước, Nhâm thủy Loan tinh gặp Thiên ất, Phụ theo Tử quý.

(8 ) Bính Tuất, Canh Dần, Đinh Mùi, Kỷ Dậu.
Quang Tự năm thứ 12, tháng giêng, ngày 13, giờ Dậu.
Mệnh Chu Trí Tường: Chuyên lấy thời thượng Kỷ Dậu, Thực thần sinh Tài làm dụng.

(9) Mậu Tý, Giáp Dần, Đinh Mão, Giáp Thìn.
Quang Tự năm thứ 14, tháng giêng, ngày 15, giờ Thìn.
Mệnh Trương Anh Hoa: Giả Viêm Thượng cách, Tý thủy là bệnh, tới vận Ngọ, xung khứ Tý thủy, một lúc phát như sấm, tiếc là vinh hoa không lâu vậy, Trích Thiên Tủy nói: Cường chúng địch quả, (lấy mạnh nhiều mà đối đầu cái ít) là loại này vậy.

(10) Canh Dần, Mậu Dần, Đinh Tị, Ất Tị.
Quang Tự năm thứ 16, tháng giêng, ngày 16, giờ Tị.
Mệnh Bệ Đốc Bật: Canh kim bổ Giáp làm dụng, tiếc là không có thủy nhuận trạch, phú quý không đủ.

(11) Giáp Ngọ, Bính Dần, Đinh Dậu, Bính Ngọ.
Quang Tự năm thứ 12, tháng giêng, ngày 19, giờ Ngọ.
Mệnh Lâm Đại Lư: Bính đoạt Đinh quang, Dần Ngọ hội cục, dù không phải Viêm Thượng, lý lẽ chắc chắn tương thông, Trích Thiên Tủy nói: Cường chúng địch quả, thế tại khứ quả ( hiều mạnh đối địch cái ít, thế lực để khứ ít). Lấy Dậu kim là bệnh, vận gặp khứ Dậu, phát là tất nhiên vậy, giống như ở trên mệnh của Trương Anh Hoa.

(12) Bính Ngọ, Canh Dần, Đinh Dậu, Nhâm Dần.
Quang Tự năm thứ 32, tháng giêng, ngày 29, giờ Dần.
Hóa mộc không thành, chuyên dụng Nhâm thủy, Canh kim làm phụ tá.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Nhị nguyệt Đinh hỏa - Tháng Hai, Mão, Kinh Trập

Tháng hai do Ất ẩm ướt mà tổn thương Đinh, không phải Canh không thể tiêu diệt Ất, không phải Giáp không thể dẫn Đinh, trước dụng Canh sau là Giáp.

Tháng hai mộc vượng hỏa bế tắc, nhất định cần dụng Tài phá Ấn, Đinh hỏa nhất định cần Giáp mộc, mới thành có hỏa chiếu sáng, Ất mộc là cây cỏ, dẫn hỏa không cháy, cho nên nói là Thấp ất, dụng Canh khứ Ất, dụng Giáp dẫn Đinh, Canh Giáp cùng dụng để lấy quý.

Canh Giáp cùng thấu, khoa giáp chắc chắn có, Canh thấu Giáp tàng, là được tiến cử làm giám sát sinh viên, Giáp thấu Canh tàng, khác lộ trình công danh, có Canh không có Giáp là kẻ sĩ thanh nhã tài năng, có Giáp không có Canh thì là thường nhân vậy, Ấn vượng Sát cao thì chủ đại quý.

Tháng hai là mùa khí mộc rất vượng, khí dù suy kiệt mà không suy, Thiên Ấn thái vượng, cần có Tài để tổn bớt, như Giáp Canh không đủ, thà rằng đồng ý không có Giáp, không thể không có Canh vậy. Ấn vượng Sát cao là do tháng hai Ất mộc nắm lệnh, nguyệt lệnh Chính Ấn đang vượng, Giáp Canh cùng thấu, lại thấy Thất Sát xuất can, chính là Thân cường Sát yếu, là Giả Sát vi quyền, là Tài Quan Ấn tam kỳ thành cách, nhất định chủ đại quý.

Hoặc Canh Ất đều thấu, Canh nhất định thua tình ở Ất muội, không khỏi tham hợp, vận hành đất kim thủy, cả đời bần cùng thấu xương, hoặc Canh thấu Ất tàng, thì không thể tham hợp, Canh có hại thế lực Ất, Ất mộc không tổn thương Đinh, trái lại dẫn Đinh chiếu sáng hỏa, tức là, dụng Ất cũng không có hại, vận nhập đất mộc hỏa, tự nhiên phú quý thanh nhã, như không nghiệm, là do phong thổ mỏng vậy, dụng Ất thì thủy là Thê, mộc là Tử.

Ở trên nói Giáp Canh lưỡng thấu, phú quý có chắc chắn, nếu không có Giáp mà thấu Ất, Ất nhất định nộp tình tương hợp, Đinh hỏa tan ra rõ ràng, không thể khắc Canh, trái lại mà Tham Tài phôi Ấn, Tài vượng Thân nhược, lại tiếp hành vận Tài Sát, thế nhất định cả đời bần hàn thấu xương, như Canh thấu Ất tàng, Tài Ấn không ngại nhau, dù không phương lấy Ất làm dụng, vận vào đất mộc hỏa, tự nhiên phú quý, chỗ này ý là giải thích Tài vượng dụng Ấn, Đinh hỏa nhất định cần Giáp mộc dẫn trợ, là mộc hỏa thông minh, mới có thể khắc chế Canh kim, không có Giáp, lực Đinh hỏa chưa đủ, như Ất tàng Canh thấu, tức là không nhất định có Giáp, cũng có thể dẫn sinh Đinh hỏa, cho nên lấy Ất là dụng, cũng không có hại vậy.

Như một lúc đều là Ất mộc, không thấy một Giáp, chỗ này là người phú quý không lâu dài, do tham mà gây họa, tìm cách xảo trá trái lại là vụng về, mà không có thể kế thừa tổ nghiệp của tiền nhân, có Ất không có Canh, chủ bần khổ không có áo cơm.

Tiếp đoạn văn ở trên, Ất cũng có thể dụng ý, Ất mộc chất là âm nhu, ví là cây cỏ yếu ớt, thấy hỏa tự đốt, trong chớp mắt bị tiêu diệt. Không có tượng chiếu sáng lâu dài, Đinh hỏa nhất định có phụ trợ ở Giáp mộc, phương là có lửa chiếu sáng, để có thể lâu dài vậy, bắt đầu là Giáp Dần địa vị không lâu, không có Canh diệt Ất, là bần khổ vô y, khí Ất Đinh đều suy kiệt, cần có ở chỗ này là tượng chứng cứ.

Hoặc một lúc có Quý thủy, không có Mậu Kỷ chế, là cách bần hàn, hoặc Ất thiếu Quý nhiều, có thổ xuất ra chế, là đặc biệt đường hiển đạt, dụng Thổ thì hỏa là Thê, thổ là Tử, đồng nhất Quý thủy, là Sát vượng vậy, Nguyệt lệnh Thiên Ấn, Đinh hỏa có ỷ lại mà không sợ, cho nên có thể dụng Mậu Kỷ chế Sát, Thất Sát không có chế, là cách bần hàn, thấy Nhâm hợp Đinh, giống ở trên tháng giêng, cho nên chuyên nói Quý thủy.

Hoặc chi thành hỏa cục, có Canh thấu, trái lại thành thanh quý, hòa nhã hiển đạt, không thấy Canh là thường nhân, lười biếng, gian trá, thường ở người thấp hèn. Chỗ này nói thân vượng dụng Tài vậy, cần có Thực Thương xuất can tiết khí hỏa để sinh Tài, trái lại thành cách thanh quý, không thấy Canh kim, lại không thành Giả Viêm Thượng là hạ cách.

Tóm lại, tháng hai Đinh hỏa, Ất mộc nắm quyền, không thể không có Canh, có Ất không có Canh, chủ bần khổ vô y, dụng Canh thì thổ là Thê, kim là Tử.

Tháng hai Đinh hỏa, Ất mộc nắm lệnh, Thiên Ấn đang vượng, lấy Tài tổn Ấn là chính dụng, Chính Ấn Thiên Ấn, phép dụng khác nhau, cho nên đoạn văn ở trên phân ra hai tiết Canh Giáp, Canh Ất, giải thích kĩ càng ý nghĩa vậy.

(1)
Mậu Tý, Ất Mão, Đinh Tị, Đinh Mùi
Dụng Tị trong chi Canh chế mộc, Canh vận liên tục thắng lợi, địa vị tới Thượng Thư.
Ghi chú: Đinh hỏa sinh mùa Xuân, Ấn vượng dụng Tài, mệnh đại quý, quý cách vậy, mà cũng phát ở về già trong vận Canh Thân, Tân Dậu, xem hai tạo Mậu Tý, và hai tạo họ Tát và họ Mạnh, và tháng giêng tạo của Lâm Sâm, đều có thể chứng minh. Tị cung Canh kim, vốn không thể dụng, lấy thành chân thần quan trọng, dù tứ trụ không thấy, cũng nhất định được mà phát. Tý thủy là bệnh, có Mậu thổ chế, như thấy Quý thủy xuất can, thì không phải cách này vậy. Tị Mùi kẹp Ngọ, Tý xung Ngọ lộc, ám tụ quý Tam Thai (Tam thai là sao Tam thai. Sách thiên văn nói sao ấy như ngôi Tam công), địa vị tới Thượng thư là đúng vậy.

(2)
Mậu Tý, Ất Mão, Đinh Mão, Đinh Mùi
Địa vị tới Các Lão.
Ghi chú: Tạo này cùng ở trên tạo Mậu Tý, giống là mộc thịnh hỏa tắc, hỉ vận hành Canh Thân, Tân Dậu mà quý, trong Tý Quý thủy bị chỗ Mậu chế, chỗ này là thành cách.

(3)
Đinh Mão, Quý Mão, Đinh Mão, Canh Tý
Bảng Nhãn.
Ghi chú: Tạo này Canh kim Tài thấu, tiếc là Quý thủy xuất can, tiết kim sinh mộc là bệnh, cần vận hành Mậu Kỷ khứ bệnh, mới có thể đạt ở trên vậy.

(4)
Canh Thìn, Kỷ Mão, Đinh Sửu, Giáp Thìn
Thượng thư.
Ghi chú: Tạo này Canh Giáp cùng thấu, thủ Tài phá Ấn, địa vị tới Thượng Thư, nhờ vận trợ giúp vậy.

(5)
Kỷ Mùi, Đinh Mão, Đinh Mão, Ất Tị
Hàm Phong năm thứ 9, tháng hai, ngày 26, giờ Tị.
Mệnh Tát Trấn Băng: Mộc thịnh hỏa bế tắc, thủ Tị cung Canh kim, lão niên hành Tây phương vận, cũng thăng chức đạt được áo vàng ( Hoàng thất), địa vị tới Tổng trưởng Hải Quân, tuổi đã 60 vậy, thọ vượt Quốc Trượng.

(6)
Kỷ Mùi, Đinh Mão, Đinh Tị, Bính Ngọ
Hàm Phong năm thứ 9, tháng 2, ngày 16, giờ Ngọ.
Mệnh Mạnh Ấn Viễn: Chi tụ Mão Tị, năm là tam kỳ, cũng dụng Tị cung Canh kim, tuổi già hành Tân Dậu, Canh Thân vận, địa vị tới Đô Đốc Hắc Long giang.

(7)
Canh Thân, Kỷ Mão, Đinh Mão, Quý Mão
Hàm Phong năm thứ 10, tháng 3, ngày mùng 3, giờ Mão.
Mệnh Trương Nguyên Kỳ: Quý thủy xuất can, được Kỷ thổ chế, Ấn vượng Tài thấu, ý là cũng Canh kim tiêu trừ Ất vậy.

(8 )
Giáp Tuất, Đinh Mão, Đinh Mão, Quý Mão
Đồng Trị năm thứ 13, tháng giêng, ngày 23, giờ Mão.
Mệnh Chu Khánh Lan: Ấn vượng Sát thấu, tiếc là không có kim sinh, thủy không có gốc, khí tiết ở mộc, chỗ hỉ là Giáp mộc xuất can, ngọn lửa ánh đèn sáng lâu dài vậy, khí tiết Sát, địa vị tới Tỉnh trưởng, lấy từ thiện làm sự nghiệp chung.

(9)
Ất Hợi, Kỷ Mão, Đinh Sửu, Kỷ Dậu
Quang Tự năm thứ nhất, tháng 2, ngày mùng 9, giờ Dậu.
Mệnh Nữu Phó Thiện: Thân vượng dụng Tài, Dậu Sửu hội cục, hỉ Kỷ thổ thấu, Thực thần sinh Tài là dụng.

(10)
Mậu Dần, Ất Mão, Đinh Mùi, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 4, tháng 2, ngày 27, giờ Dần.
Mệnh Tôn Nhạc: Đinh Nhâm hóa mộc hỉ gặp Dần, Mão Mùi hội cục, hóa mộc đắc thời, vận hành Đông Nam thành quý.

(11)
Quý Mùi, Ất Mão, Đinh Tị, Giáp Thìn
Quang Tự năm thứ 9, tháng 2, ngày mùng 6, giờ Thìn.
Mệnh Khuất Ánh Quang: Quý thủy Thất Sát, khí tiết ở mộc, cùng tạo Chu Khánh Lan không có khác biệt, tốt ở Mão Thìn Tị Mùi kẹp Ngọ lộc, ám được Tam Kỳ, Tý này xung khởi Ngọ lộc, địa vị tới Tỉnh trưởng, lấy từ thiện làm sự nghiệp chung.

(12)
Giáp Ngọ, Đinh Mão, Đinh Mão, Đinh Mùi
Quang Tự năm thứ 20, tháng 2, ngày 20, giờ Mùi.
Giả Viêm Thượng cách, vận hành Đông Nam, địa vị tới Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Cảnh bị, kỵ Tây Bắc kim thủy vận.

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
Tam nguyệt Đinh hỏa - Tháng 3, Thìn, Thanh Minh


Tháng 3 Mậu thổ nắm lệnh, tiết nhược khí Đinh, trước dụng Giáp mộc dẫn Đinh chế Mậu, sau dụng Canh kim.

Tháng 3 trước tiết Cốc Vũ, cùng tháng 2 hợp lại thành một lý suy ra, sau Cốc Vũ, thổ vượng dụng sự, cần lấy Giáp mộc phá thổ là trước tiên, sau dụng Canh kim bổ Giáp dẫn Đinh làm phù tá, lại có thể tiết khí vượng thổ vậy.

Giáp Canh lưỡng thấu, Khoa Giáp chắc chắn có, hợp chỗ này không nghiệm, là do phong thổ mỏng vậy, hoặc một tàng một thấu, cũng chủ là nhà nho, thiếu một thì là thường nhân, Giáp Canh cùng dụng. Nguyệt lệnh Thương quan sinh Tài là cách, Giáp mộc phá thổ dẫn Đinh là dụng, không có Giáp, Đinh không sinh vượng, không có Canh, thế cục không linh, do đó cả hai đều không thể thiếu một vậy.

Chi thành mộc cục, Ấn vượng dụng Tài, thủ Canh kim là trước tiên, cùng tháng 2 là xem giống nhau, dụng Tài kỵ thấy Tỉ kiên, cho nên kỵ Đinh hỏa chế Canh, kỵ Quan Sát tiết khí Tài, cho nên lại kỵ Quý thủy tiết Canh, cả hai đều là phá cách vậy, Tài tinh đắc dụng, trong phú có quý, nạp túc tần danh, cho nên nói hiển đạt bằng con đường khác.

Hoặc chi thành Thủy cục, lại thêm Nhâm thấu, gọi là Sát trọng Thân khinh, cuối cùng thân có tổn hại, không chết yểu cũng gặp hung mà chết, nếu được Mậu Kỷ cùng thấu, xác định là nhân tài của triều đình, dù cho phong thổ chưa đủ, cũng không thiếu là giám sát sinh viên, Giáp xuất ra phá thổ, tức là thường nhân.

Tháng 3 hỏa đang tiến khí, mộc có dư khí, không thể Tòng Sát, chi thấy Tý Thân hội cục, lại thêm Nhâm thủy xuất can, thủy nhiều hỏa diệt, là Sát trọng Thân khinh, nhất định chủ chết yểu, nếu có Thực Thương chế thì trái lại là chủ đại quý, cái Đinh hỏa âm can không sợ nhược, lại ở vị trí Quan Đái, cho nên có thể dụng Thực Thương chế Sát vậy, thấy Giáp mộc khứ vật chế Sát, gây tổn thương dụng thần, khó mà phát đạt.

Dụng Giáp thì thủy là Thê, mộc là Tử, dụng kim thì thổ là Thê, kim là Tử.

Tháng 3 Đinh hỏa, không thể cách ly Canh Giáp là dụng, thổ thịnh dụng Canh dụng Giáp đều có thể, cùng dụng thì càng tốt, chi thành thủy cục thì lấy Mậu làm dụng, cần lấy hỏa là Thê, thổ là Tử.

(1)
Tân Mùi, Nhâm Thìn, Đinh Dậu, Giáp Thìn
Cô quả, hơi phú.
Ghi chú: Tạo này có Giáp không có Canh thì không thể quý.

(2)
Canh Thân, Canh Thìn, Đinh Mùi, Tân Sửu
Hàm Phong (niên hiệu của vua Văn Tông thời Thanh ở Trung Quốc, 1851-1861) năm thứ 10 nhuận, tháng 3, ngày 13, giờ Sửu.
Mệnh Triệu Duy Hi: Sinh ở trước tiết Lập Hạ 3 ngày, hỏa thổ đang tiến, thủ Canh kim tiết khí thổ, tuy Đinh hỏa là âm can, không sợ nhược, lấy cứu thổ trọng kim vượng, vận hành Nam phương là tốt.

(3)
Kỷ Mão, Mậu Thìn, Đinh Mão, Mậu Thân
Quang Tự năm thứ 5, tháng 3, ngày 23, giờ Thân.
Mệnh Quan Đan: Thổ trọng hối hỏa, lấy Giáp khứ bệnh là trước tiên, dụng Canh kim tiết thổ là sau, cả đời chỉ lấy Giáp vận là tốt nhất vậy.

(4)
Quý Mùi, Bính Thìn, Đinh Dậu, Ất Tị
Quang Tự năm thứ 9, tháng 3, ngày 17, giờ Tị.
Mệnh Quách Kiền Khanh: Tài tinh Sát làm dụng, Bính hỏa xuất can, đắc lộc ở Tị, Đinh hỏa khí phụ sinh vượng, có thể dụng Tài Sát, nhưng dụng thần không chân, phú mà không quý vậy.

(5)
Quý Mùi, Bính Thìn, Đinh Mùi, Mậu Thân
Quang Tự năm thứ 9, tháng 3, ngày 27, giờ Thân.
Mệnh Trần Công Hiệp: Thân Thìn hội cục, Quý thủy xuất can, lấy Mậu thổ chế Sát làm dụng, Quý Mậu đều thông căn Thìn khố, hỉ dụng cùng một cung, địa tới Chủ tịch tỉnh.

(6)
Bính Tuất, Nhâm Thìn, Đinh Mùi, Nhâm Dần
Quang Tự năm thứ 12, tháng 3, ngày 14, giờ Dần.
Mệnh Cố Trúc Hiên: Đinh Nhâm đố hợp, lại thuộc trọng Quan, tứ trụ không có kim, chỉ có thể dụng Nhâm, là đàn ông cô đơn không có vợ.

(7)
Kỷ Sửu, Mậu Thìn, Đinh Tị, Canh Tuất
Quang Tự năm thứ 15, tháng 3, ngày 12, giờ Tuất.
Mệnh La Văn Kiền: Thổ trọng hối quang, dụng Canh kim tiết khí thổ, cả đời không có kim vận, tiếc quá!

descriptionLuận HỎA EmptyRe: Luận HỎA

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết