KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionCơ sở luận mệnh  EmptyCơ sở luận mệnh

more_horiz
kimcuong, 2021

Bài này xin được bổ sung/tiếp nối bài đầu tiên của tôi về nguyên tắc thiết yếu để luận tứ trụ.

Chúng ta đã biết rõ nguyên tắc hình thành môn Tử Bình dựa vào ngũ hành âm dương là chính. Có nhiều phương pháp lý luận bao quanh điểm này, rất phong phú và phức tạp đến nỗi càng đọc lý thuyết lại càng như bị dây quấn rối nhiều vòng hơn. Tôi nhắc lại những điểm chính yếu để các bạn suy nghiệm lại, từ từ có thể gỡ vòng mắc xích đấy.

Luận Tử Bình không quá đơn giản mà cũng không nên suy tưởng thiên bá vạn trạng vì các lý thuyết có khi đối kháng nhau đã in vào tâm khảm. Đầu tiên chúng ta thấy 1 điểm chung ở tất cả các trường phái: đó là NGŨ HÀNH, Mộc Hỏa Thủy Kim Thổ. Từ ngũ hành mà phân ra các loại để tượng hình, "nhìn" thấy được chúng như thế nào, như nói Giáp Ất là cây, là bàn ghế, đầu, mắt...v.v...

Những loại tượng hình đó suy ra cũng được, không suy cũng được, nhưng trước hết, để hiểu bát tự, theo tôi là tìm hiểu:

1. Tiết khí trong tháng là ngũ hành tạo nênsự việc mà ta hay gọi là "dụng thần". Chữ này chính là "cách cục". Nguyên thủy của chữ này xuất hiện đầu tiên, theo vài tài liệu của Trung Hoa, là do Hàn Phi viết trong "Giải Lão Thiên" (chương giải lý luận của Lão Tử, như "bình chú" vậy): "Chúng nhân chi dụng thần dã táo, táo tắc đa phí, đa phí chi vị xỉ. Thánh nhân chi dụng thần dã tĩnh, tĩnh tắc thiểu phí, thiểu phí chi vị sắc." Dịch nghĩa: " Người thường dùng đến tinh thần thì nôn nóng. Nôn nóng cho nên xài phí nhiều. Xài phí nhiều gọi là xa xỉ. Bậc thánh nhân dùng tinh thần thì bình tĩnh. Bình tĩnh cho nên xài phí ít, xài phí ít gọi là tiết kiệm."

Tôi đọc trong sách dịch như thế. Các bạn cũng thấy là đoạn văn trên không ăn nhập gì đến môn Tử Bình, chỉ là theo thuyết nói ngọn nguồn của chữ "dụng thần" thôi. Từ chữ "tinh thần" (dụng thần) đó, các nhà tân học Tử Bình gọi là "tâm tính". Tôi thì gọi đó là "năng lực". Và cũng nhận ra rằng, dụng thần không gì xa lạ, chính là các năng lực, khả năng tạo dựng hành vi của chính mình trong cuộc sống. Vậy ta phải loại trừ suy nghĩ "dụng thần là thần lực ở ngoài ta".

2. Một bát tự tốt, trước nhất là nên trung hòa. Tại sao? Vì chúng ta sẽ có đủ khả năng xoay chuyển trong các tình huống đời sống phức tạp vô số kể của chúng ta. Các bạn hãy xem lại bát tự của chính mình và người thân, xem cho kỹ, sẽ thấy rõ khả năng hành động của mình và họ như thế nào. Dĩ nhiên, các bạn sẽ nghĩ trung hòa là cách cục bình thường, chả có gì nổi bật thì không thể thành phú ông hay làm quan được. Trong các sách cổ, các bạn đã thấy các thí dụ về quan, tướng là chính, ít có bát tự nào mà nếu vẽ ngũ hành ra thì giống như chiếc bánh chia 5. Không như thế! Phải có điểm thiên lệch, và rồi có chế hóa, hoặc có tương sinh tương thích (hữu bệnh vi quý).

Nhưng đó cũng là số mệnh và còn tùy bạn thích số mệnh tốt như thế nào. Người ta nói "luận tứ trụ như bóc một củ hành", tức là, càng lột vỏ ra càng cay mắt. Theo bạn thì nhìn tứ trụ tổng thể hay càng đi vào chi tiết càng hay?

3. Luận tứ trụ nên luận tập trung chính yếu vào bát tự của người đó. Các phương pháp, lý luận chung chung như một mẫu hình cho vạn người không nên áp dụng vào đây. Vì có khi đúng, khi sai, hoàn toàn là không chắc chắn. Như luận hôn nhân, tuổi này hợp với tuổi khác (trụ năm), phương pháp này không hợp với lý thuyết Tử Bình, vì không nói rõ cá nhân nào. Tử Bình có lợi thế hơn ở điểm này khi so sánh 2 bát tự với nhau, nghĩa là có đủ 8 trụ. Từ các tương tác, phối hợp của Can Chi với nhau của 2 người, sẽ hình thành nên tính cách của một nhân thế thứ 3: chính là sự kết hợp hôn nhân, xem như là một người mới được sinh ra vậy. Nếu bát tự 2 người không sai lệch thì luận hôn nhân khả dĩ gần đúng nhất.

Các tương tác của CAN và CHI: Phần này là quyết định tính tình/năng lực của người, của bản thân và giữa người với nhau. Can, Chi quy ra thập thần. Các năng lực gọi là Thực, Tài, Quan, Ấn, thật tế lại phải nhìn ngũ hành của chúng. Đừng để các từ ngữ này khống chế mình, có khi lệch lạc, như chữ "Tài" hay "Quan". Nhắc lại đôi chút, Tài chính là năng lực ta đối phó sự việc, còn Quan chỉ là năng lực khống chế ta.

Thí dụ như Giáp hợp Kỉ hóa Thổ, nhật chủ là Giáp hợp Tài tinh hóa ra năng lực của Tài vượng hơn các ngũ hành khác; nhật chủ đắc được Tài, tức nhật chủ chuyên tâm đối phó sự việc, hành động chứ không luôn an tĩnh. Dĩ nhiên, thành công hay không là còn phải luận các tương tác khác. Tính cách của Tài tinh thường hay bị hiểu lầm là "tiền". Giáp mộc với Kỉ thổ, tức là Mộc đối đầu với Thổ, Mộc khắc Thổ, là hành vi của mình với tất cả sự việc, không phải chỉ là "làm ra tiền". Chính vì năng lực của ta tốt thì ta sẽ thành đạt như ý, và trở thành phú ông chỉ là 1 trong ngàn việc thành công.

descriptionCơ sở luận mệnh  EmptyRe: Cơ sở luận mệnh

more_horiz
4. Mỗi địa chi trong tứ trụ đều gặp tương tác tại ngay bát tự, đại vận và lưu niên. Điều này đơn giản dễ hiểu là ai trong chúng ta không gặp chuyện cát lành hay hung dữ trong suốt cuộc đời? Qua bát tự ta biết trạng thái cố hữu, qua đại vận và lưu niên, ta có cơ hội để đoán được khi nào và chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên việc xảy ra khả năng nhiều ít đều cũng đã như an bài sẵn.

Nhắc lại các tương tác: lục hợp, xung, hình, hại, phá

Nếu trong bát tự có sẵn những loại trên, ta có thể nói là số mệnh đã định, thật khó mà loại trừ. Đó là tính cách phân biệt, đối xử của ta hình thành như mọc rễ sâu. Nhưng có thể nghĩ rằng, nếu như ta hiểu về mình thật rõ ràng, thì tính cách quan trọng nhất lại chính là tâm kiên nhẫn tự thay đổi của ta. Những loại hợp, xung, hình, hại, phá như vậy giống như là bài toán đố đặt ra cho mình giải vậy.

Bài giải toán đố có khi nằm trong bát tự (có bịnh có thuốc), có khi gặp ở đại vận và lưu niên. Vậy mức độ, nhắc lại, là bát tự-đại vận-lưu niên. Bạn có thấy đại vận ở giữa không? Nó chính là thời điểm thách đố xảy ra.

Vậy luận bát tự không dừng ở 4 trụ là đủ. Chúng ta cần phải xét đại vận và lưu niên kỹ càng hơn. Các thí dụ trong sách không thể nói hết các khúc mắc này. Chúng ta chỉ học được cách luận mệnh qua bát tự một cách chung nhất thôi. Mệnh quý, tiện ra sao, thế thôi. Nếu chúng ta muốn biết thêm về tương lai đôi chút, cần nên xét đại vận, lưu niên kỹ càng hơn.

5. Trong các tương tác Hợp, Xung, Hình, Hại, Phá, chúng ta thấy ít nói đến 2 vấn đề sau. Nhưng Hại và Phá cũng là những ưu tư, phiền não xảy ra thường ngày mà chúng ta không biết đến từ đâu.

Nói chung, 2 hình thái này thuộc loại "âm thầm" và "kéo dài". Có nghĩa như chúng ta bị "trộm" một thứ gì mà mãi về sau mới khám phá ra thì đã mất đồ lâu rồi và không tìm lại được.

Nhắc lại Lục Hại: Tí#Mùi, Dần#Tị, Thân#Hợi, Sửu#Ngọ, Mão#Thìn, Tuất#Dậu

Từ Lục Hợp và Lục Xung sinh ra Lục Hại.

Như Thân với Tị là quan hệ Hợp.
Tị với Hợi là quan hệ Xung.
Hợi như thế là ngăn không cho Tị Thân hợp, vì thế Hợi gọi là hại Thân.

Trong quan hệ hàng ngày, ta thấy rất nhiều, từ gia đình, trong công ty, cửa hàng... Có khi chỉ thoáng qua như ta đi chợ, nhưng cũng có thể dài lâu như trong hãng xưởng, nơi chúng ta làm việc bị đồng nghiệp phá rối, tẩy chay, chèn ép, trong công ty là những quan hệ phản trắc gây họa, hoặc trong gia đình chồng/vợ ngoại tình, giữa con cái cũng có sự bất bình với nhau.

Trong tứ trụ, như các tương tác khác, quan hệ Hại chỉ luận khi chúng kề nhau, như trụ năm với trụ tháng, tháng-ngày, ngày-giờ. Theo quan niệm về thời gian của bát tự, 2 trụ đầu nếu xảy ra các tương tác này, ta tính khoảng thời gian đến 30 năm. Nếu có lục hại ở trụ năm-trụ tháng-trụ ngày, tôi gọi đó là cặp đôi, chứ không phải là 2 không hại 1. Nghĩa là thời gian chúng ta luôn đối đầu với các quan hệ này kéo dài thêm 15 năm.

Đối với các quan hệ thầm kín này, một trong những địa chi bị Hại là chủ khí/dụng thần/cách cục của ta, thì quan hệ/năng lực của ta bị xâm phạm nặng. Với đại vận, lưu niên thì cũng tính theo thời gian, tức là chịu đựng trong 10 năm đại vận, hoặc chỉ 1 năm lưu niên.

Suy ra thập thần, có thể thấy thí dụ như Ấn hại Kiếp, thường lại bị hại do đồng môn, đồng nghiệp, đối tác kinh doanh. Như bát tự: Giáp Thân , Ất Hợi, Nhâm Ngọ, Đinh Mùi. Nhâm sinh tháng Hợi, Kiếp là Quý trong Hợi, có quan hệ Hại với Thân kim trụ năm. Canh là thiên ấn. Quan hệ này dẫn đến sự phản bội của đồng sự và bị hao tài tốn của vì kiện tụng.

descriptionCơ sở luận mệnh  EmptyRe: Cơ sở luận mệnh

more_horiz
Bài dưới đây viết năm 2012

Tí phá Dậu
Thân phá Tị
Thìn phá Sửu
Ngọ phá Mão
Dần phá Hợi
Tuất phá Mùi

Loại "Phá" ít được luận, nhưng cũng là 1 trong những cản trở nói về tính tình, sức khỏe của nhật chủ, tùy theo đó là thập thần gì.

Điều quan trọng là trong mệnh cục có sẵn cặp Phá, như Tí phá Dậu, phải có Tí và Dậu trong tứ trụ. Nếu chúng gần nhau thì nghiêm trọng hơn là cách trụ. Thứ yếu nhất, cũng có thể là trong trụ có 1 Tí, đến đại vận Dậu thì xảy ra Tí phá Dậu. Hoàn cảnh này có thể ảnh hưởng rất nhẹ đến nhật chủ, vì nhìn chung, hễ có tương tác là có động.

"Phá" cũng giống như mọi tương tác khác, cơ bản là động để nảy ra 1 điều gì mới. Tùy vào trường hợp mà xét, như kết bạn mới, dọn nhà, cảm cúm, nảy ra 1 ý định nào đó, v.v... Nói về tiêu cực, có vài kinh nghiệm cho thấy loại Phá thường biểu hiện ở thói quen ăn uống của ta bị thay đổi phần lớn là có hại cho sức khỏe, như hút thuốc lá, uống rượu nhiều hơn bình thường, hoặc dùng các chất kích thích. Như thế là nói đến tâm lý bị chi phối, do bi quan, thất vọng, hoặc có khi là vì mơ mộng hão huyền, dễ bị nhiễm ảnh hưởng từ bên ngoài, v.v... Kết cục của loại Phá mà bị nặng thì dễ cô đơn, quay lưng với gia đình và bạn bè thân vì chỉ biết chăm lo vào sự tự mãn của mình. Người tự kỷ thường có Phá trong trụ.

Tí phá Dậu, Mão phá Ngọ là thuần Phá. Loại này nặng hơn loại Tị phá Thân, Dần phá Hợi, vì 2 loại này gọi là vừa hợp vừa phá. Thông thường 2 loại Tị-Thân, Dần-Hợi đặc biệt là cần phải có Thủy và Mộc rõ rệt trong trụ, thì luận Hợp hơn là luận Phá. Nghĩa là Tị-Thân có Nhâm Quí, Dần-Hợi có Giáp Ất, không còn tính cách Phá nặng nề nữa.

Thí dụ như trụ Bính Dần và trụ Kỉ Hợi: luận Phá, không luận Hợp. Bính Dần và Ất Hợi: luận Hợp, không luận Phá.

Đấy là căn bản, còn rất nhiều biểu hiện không thể kể hết ra được, tùy trường hợp mà luận.

Bình thường có thể chú ý cặp Phá này ở trụ nào để đoán thời gian ảnh hưởng của chúng. Như trụ năm với trụ tháng thì ảnh hưởng thấy rõ ở thời thanh thiếu niên, vì thế nếu Tí phá Dậu ở trụ năm, tháng thì cần thận trọng hơn vì tuổi thiếu niên rất dễ vướng vào thói quen xấu mà không kiểm soát được.

descriptionCơ sở luận mệnh  EmptyRe: Cơ sở luận mệnh

more_horiz
6. Tứ trụ không chỉ đơn thuần là kết hợp của 8 chữ thiên can địa chi, nếu ai chú ý thêm cung mệnh là 10 chữ. Những số liệu này từ ngày sinh đã hình thành MỆNH của một người. Đây là duyên đã sinh. Đại vận và lưu niên tiếp theo giống như kết quả sẽ được nhận hay phải nhận, rất khó thay đổi. Tại sao có người mệnh bình thường, có người mệnh quí hơn, mệnh tiện hơn, và cũng có người mệnh phi thường, phải chăng đều là đã định?

Tử Bình phân loại các mệnh tạo trên rất kỹ. Nếu chúng ta phân tích đúng thì gần như đã nắm được số mệnh rõ ràng. Tại sao "gần như"? Vì sau khi luận được mệnh, phần ngoại cảnh là 1 chi tiết hoặc bổ cứu hoặc phá hại ít nhiều vào mệnh, mà chúng ta cần luận đoán thêm (môi trường sinh sống của gia đình và sau này của chính ta).

Bài viết về các Cách (mẫu hình, loại tượng) của tứ trụ đã rất nhiều trong các sách. Nay đúc kết lại như sau:

- Cách thông dụng: Thực, Thương, Thiên Tài, Chính Tài, Chính Quan, Thiên Quan, Chính Ấn và Thiên Ấn
- Cách đặc biệt: Kiến Lộc, Dương Nhận, Tỉ Kiếp vượng, Kiêu Ấn cường
- Cách tòng thân nhược: Tòng Tài, Tòng Sát, Tòng Thương
- Cách hóa khí theo thiên can hợp: Giáp-Kỉ, Ất-Canh, Mậu-Quí, Bính-Tân
- Cách tòng theo ngũ hành cường vượng: Tòng Cách Cách (Kim), Khúc Trực (Mộc), Nhuận Hạ (Thủy), Viêm Thượng (Hỏa), Giá Sắc (Thổ)

descriptionCơ sở luận mệnh  EmptyRe: Cơ sở luận mệnh

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply