KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionGiải thích trụ hạn và Tinh Cung  EmptyGiải thích trụ hạn và Tinh Cung

more_horiz
Giải thích Trụ hạn và Tinh Cung

Trụ hạn tinh cung Lục thân rõ,
Định vị đoán chuyện nghiệm như thần.
Thể Dụng trực phán chuyện nội ngoại,
Chân Giả biện minh tả hữu tình.
Bản thể Ngũ hành luận cát hung,
Thập thần công dụng xem phú quý.
Vạn sự vạn tượng xem ẩn hiện,
Suy vượng chân cơ định nghìn thu.


Nhắc tới Lục Thân tinh cùng cung vị lục thân ở trong tứ trụ bát tự, đối với mệnh học thông thường độc giả mà nói phải hết sức thông thạo, đây là đầu tiên xem nhập môn bát tự cơ sở. Có những người học mệnh học ở lúc luận mệnh phán cát hung, luôn luôn đối với Lục Thân tinh và Lục thân cung tồn tại những khái niệm mơ hồ. Đặc biệt là định chuẩn chính xác Lục Thân tinh là một định vị then chốt nhất, vẫn tồn tại phương pháp không chính xác cùng sai lầm. Như nam mệnh Thiên Tài thấy nhiều ở trong tứ trụ, Chính Ấn rất nhiều, rốt cuộc ai là cha mẹ chân chính của mệnh chủ chứ? Chính Tài là vợ, đồng dạng ở mệnh cục thấy nhiều, hoặc thấu can hoặc tàng ở nhân nguyên, dụng phương pháp nào để phân biệt cái nào Chính Tài mới là vợ của mình chứ? Còn có rất nhiều định vị Lục Thân tinh như ông bà nội, ông bà ngoại, con cái …, bởi vì những chỗ này là tri thức nhập môn khá là thông thường, độc giả hoặc người nghiên cứu luôn luôn rất là sơ sót.

Rất nhiều người ở trên mạng hàng ngày đưa ra nhiều ví dụ, từ đầu đến cuối đều lấy thập nhị địa chi định vị lục thân, nói đơn giản ngay cả cái gì là thập thần lục thân đều không biết, làm trò cười cho thiên hạ, mất hết thể diện của Thánh hiền. Nguyên nhân chủ yếu là bọn họ không dùng Nhân nguyên luận sự, nghĩ lầm bản khí địa chi chính là thay thế lục thân, đem khái niệm thập thần thiên can và ngũ hành thập nhị địa chi vướng mắc cùng một chỗ, thập thần lục thân và thời tự làm lẫn lộn mà nói, đây chính là bi thảm của giới mệnh học, ngụy pháp làm hại người lầm người. Địa chi làm sao có thể suy chuẩn phú quý bần tiện thọ yểu cát hung của lục thân chứ? Ngay cả Lục Thân tinh là thập thần thiên can thay thế cũng không nhận biết và định vị được, như vậy thì chỗ thuật chỗ viết cũng chỉ là nói tầm bậy.

Rốt cuộc Lục Thân tinh và Lục Thân cung cùng trụ hạn làm sao xem chứ?
+ Nam nữ mệnh định vị trụ năm là cung Tổ thượng Phụ mẫu, mệnh cục không có Phụ tinh, lấy can năm làm cha thay thế Phụ tinh luận Thể Dụng. Nếu như bản cung can năm chính là Phụ tinh, thì lấy Phụ tinh chính vị mà luận Thể Dụng. Phụ tinh thấu tàng ở trên những vị trí khác, thì lấy vượt ra ngoài vị trí không chính cùng cung vị hợp lại tham khảo Thể Dụng mà luận. Mệnh cục không có Mẫu tinh, lại lấy chi năm làm cung mẫu vị trí mẫu, bên trong chi năm lấy bản khí nhân nguyên tàng can thay thế Mẫu tinh luận Thể Dụng. Nếu như chi năm tàng can bên trong có Mẫu tinh, thì lấy Mẫu tinh chính vị mà luận Thể Dụng. Mẫu tinh thấu tàng ở trên những vị trí khác, thì lấy vượt ra ngoài vị trí không chính cùng cung vị hợp lại tham khảo mà luận Thể Dụng. Trụ năm đồng thời đại biểu căn cơ hạn vận bản thân lúc thiếu niên còn nhỏ (Trước 18 tuổi) tật yểu cát hung cùng lục thân cát hung.
+ Nam mệnh thiên can trụ tháng đại biểu anh em trai, địa chi trụ tháng đại biểu cung vị chị xem gái. Nữ mệnh can tháng đại biểu chị em gái, chi tháng đại biểu cung vị anh em trai. Nếu như mệnh cục không có các sao anh chị em, thì lấy thần cung vị thay thế chỗ sao anh chị em để luận Thể Dụng. Đồng dạng phân chia vị trí chính cùng vị trí không chính cùng sao anh chị em không ở bản vị cùng tham khảo cung vị mà luận Thể Dụng. Trụ tháng đồng thời đại biểu bản mệnh ở giai đoạn thanh niên (trước 36 tuổi) là hạn vận năng lực của bản thân, thọ yểu tật bệnh cát hung cùng lục thân cát hung.
+ Nam mệnh thiên can trụ ngày là bản thân, chi ngày là Thê cung. Nữ mệnh can ngày là bản thân, chi ngày là Phu cung. Nếu như Thê Phu tinh không hiện, thì lấy chi ngày tàng can bản khí thay thế Thê Phu tinh mà luận Thể Dụng phu thê. Phu Thê tinh tọa bản cung thì lấy vị trí chính mà luận Thể Dụng, ở những cung vị khác thì lấy vị trí không chính, mà luận Tinh là Thể, Cung là Dụng cùng tham khảo. Trụ ngày đồng thời đại biểu giai đoạn trung niên (Trước 54 tuổi) là trụ hạn vận thành tựu sự nghiệp thọ yểu tật bệnh cát hung cùng lục thân cát hung.
+ Nam mệnh thiên can trụ giờ là vị trí con trai, chi giờ là cung con gái. Nữ mệnh can giờ là vị trí con gái, chi giờ là cung con trai. Nếu như Tử tức tinh (sao con cái) ở trụ khác không hiện, thì lấy can giờ và chi giờ tàng can để thay thế Tử tức tinh luận Thể Dụng. Đồng dạng luận vị trí Tử tức tinh chính cùng không chính, phân biệt rõ Thể Dụng Cung và Thể Dụng Tinh ở bản thể tự nhiên của mệnh cục và công dụng xã hội, phép tắc tác dụng hai phía lục thân hợp lại mà xem. Trụ giờ đồng thời đại biểu giai đoạn về già (Sau 54 tuổi) hạn vận của bản thân và lục thân con cái cát hung.
+ Tinh Cung đồng vị, mà còn ở vị trí chính, ở mệnh cục khởi tác dụng tốt, tất là đối ứng với lục thân này là đại cát. Nếu như ở mệnh cục khởi tác dụng xấu, tất là đối ứng với lục thân này là đại hung.
+ Tinh cát Cung hung, Thể tốt Dụng không tốt; Cung cát Tinh hung, Dụng tốt Thể không tốt.
+ Tinh hung Cung hung, Thể Dụng đều hung, mức độ ứng hung lớn.
+ Tinh cát Cung cát, Thể Dụng lục thân toàn cát, mức độ ứng cát lớn.

descriptionGiải thích trụ hạn và Tinh Cung  EmptyRe: Giải thích trụ hạn và Tinh Cung

more_horiz
Càn tạo: Sinh giờ Tuất, ngày 12, tháng 3 năm 1956 âm lịch (22.4.1956 dương lịch)

Bính Thân - Nhâm Thìn - Kỉ Mùi - Giáp Tuất

Đại vận: Khởi vận lúc 4 tuổi. Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/Bính Thân/Đinh Dậu/ Mậu Tuất/Kỷ Hợi/Canh Tý.

Phân tích Thái Cực Cách Cục bát tự Hậu thiên: Nhật can Kỷ thổ sinh tháng Thìn, gặp sau tiết Thanh Minh 17 ngày, lúc này chủ khí Nhân nguyên phân dã của chi tháng là Mậu thổ nắm lệnh giữ quyền. Căn cứ ý hướng của bản thể ngũ hành nhật chủ định cục suy vượng, nhật can Kỷ sinh tháng Thìn khí Mậu nắm lệnh là âm tính, sinh gặp Thiên thời vượng khí mà có thiên thời, Kỷ tọa dưới thông Mùi là đắc thế. Đắc thời, đắc thế, nhật can vượng, có thể phán là Chính Cục thân vượng. Chính Cục thân vượng phải giảm thế mới cát, tăng thế là hung. Bản tạo vừa không có Mão khắc Mùi, lại không có Dần khắc Thìn Tuất, xem biểu tượng là Cục hung. Nhưng nhân nguyên tàng can có tồn Ất khắc Kỷ ở trong Mùi là tiểu cát, thuyết minh ngón cái tay phải tàn tật có thể kéo dài tuổi thọ. Kiếp tài Cách không có chế là hung. Trong Cục không có thủy sinh không thể thành Phản Cục Tòng Vượng. Thiếu Âm Bính hỏa, Thiếu Dương Thực thần. Thực thần chế Sát, tượng làm nghề mộc, vật gia dụng trong nhà. Canh hợp Ất là quân bài, tiêu khiển mạc chược, Tân khắc Ất là điêu khắc.

Từ ngoại tượng bát tự trực quan mà luận, Tài, Quan, Ấn hiển thấu là người phải có công danh phú quý. Phù hợp 【 Cùng Thông bảo giám 】 luận: Thổ noãn mà nhuận, được Giáp mà khai thông, 3 vật Bính Nhâm Giáp đều thấu, tất là quan cư Hoàng các. Nếu như Pháp Năng dụng cách hung cục hung mà luận, cùng lắm cũng chỉ là mệnh phổ thông bình thường mà thôi, cũng không có thể nói là phú quý, còn có chút tiểu tai. Từ góc độ thuộc tính xã hội mà nói tạo này công danh lợi lộc, cũng là sắp xếp tổ hợp không cát. Rõ ràng nhất là Tỉ Kiếp trùng điệp xung khắc Tài, đối với tiền tài là bất lợi lớn. Thân vượng không cần Ấn hộ, tất bất lợi việc học tập. Tài Kiếp kề nhau, như ôm hổ mà ngũ, Tân không sinh Quý, môn hộ bế tắc, Tài khí làm sao nhập môn hộ? Quan không có thông căn, nhược mà thiên khô, còn nhập mộ ở ngày, Tài bị cản trở không thể sinh Quan, Quan tinh làm sao mà quan tâm, lại làm sao chủ quý, chủ phú? Mệnh cục Thiếu Dương tàng trong khố Tỉ Kiếp, Tuất phá Mùi xung Thìn, mệnh tự mình gian khổ xuất lực lao động mà thôi.

Đầu tiên bắt tay từ trụ hạn trụ năm, để phân tích hạn vận lúc thiếu niên. Can năm Ấn mẫu tọa Thương quan, cũng gọi là Thương quan mang mảo Ấn, thuyết minh bản mệnh lúc thiếu niên vẫn là thông minh có năng lực, Ấn khắc Thực Thương, cuộc sống vật chất không đầy đủ hoặc là thiếu khuyết cơm áo, kinh tế đặc biệt khốn khó (trong Thân có tổ hợp Mậu Nhâm Kiếp tài có kế hoạch nhảy vọt thời đại). Bính là Ấn là nhà, lúc nhỏ trong nhà ở bản địa khá xinh đẹp, cao to có khí thế. Không gian phương Nam khá lớn. Can năm là cung cha, trong chi tháng Thìn có Quý thủy là Phụ tinh, can năm là kỵ, vị trí Phụ tinh lại không chính, thuyết minh phụ thân cũng không có thể nói là có công danh phú quý. Quý thủy cư mộ khố, Quan Sát của cha trùng điệp, thổ vượng khắc thủy, anh chị em của cha rất ít, hoặc có chết yểu. (Trả lời: Chỉ còn một mình cha là còn sống, là nông dân). Chi năm Thân là Mẫu cung, năm thấu Bính là Mẫu tinh, sai vị trí âm dương, thuyết minh mẫu thân lúc trẻ là xinh đẹp, Ấn tọa Tài, thì thuyết minh nhà bà ngoại trước đây có điều kiện tốt.

Nhưng Ấn Bính mẫu xung quanh còn có Nhâm thủy quấy nhiễu, mộ huynh ở bên trong, Thìn Mùi khai mộ thì anh chị em của mẹ tất có chết yểu. (Nhà mẹ có mấy anh em trai chết yểu, ch3 còn một em gái). Phụ tinh Thiên Tài cư ở Thìn không thấu ra ở trước, Chính Ấn từ trong cung Tuất đi ra, thấu ở can năm, thuyết minh cha chết trước mẹ.

Từ trụ tháng đoán anh chị em, nhật can Kỷ thổ không thấy ở trong tứ trụ có loại tin tức Trường sinh, Lộc, Nhận, thuyết minh bản thân không phải là lão đại. Chính Ấn Bính hỏa là hỏa khố trong Tuất đi ra, Mậu thổ trong Tuất, trước được Ấn sinh. Chứng minh chỗ mẫu thân sinh ra một thai là chị gái (Bính sinh Mậu là đồng tính), trong Thân có Mậu, trong Thìn có Mậu đều không vượng bị chế tất là có 3 chị gái. Mậu vị trí tàng ở chi tháng là chị em gái ở vị trí chính, hơn nữa bên cạnh Mậu có Quý Tài hợp, thuyết minh điều kiện gia đình chị gái trội hơn bản thân. Ất mộc là Thất Sát của bản thân, lại là chồng của chị gái, phản ánh chồng của cả 3 chị gái đều có lịch sử có người tham gia quân đội, còn có đơn vị (Ất thấy Thìn Mùi là đơn vị). Can tháng là cung anh em trai, tọa Chính Tài, vị trí anh em đều là không chính, thuyết minh hoàn cảnh xã hội kém, rất khó có công danh lợi lộc, cho dù có cũng là tạm bợ. Nhưng Nhâm thủy ở mệnh cục khởi tác dụng tốt, mà còn là tượng Tài, chứng minh anh em trai có tài năng kiếm tiền, tốt hơn bản thân. Lấy Ấn Kiêu Tỉ là anh em trai, ứng là 5 người, trong Mùi có tổ hợp Ất Kỷ tất có chết yểu. (Trả lời: Hiện còn 3 chị 1 anh trai và 3 em trai, chết yểu hết 2 tỏng cộng là 10 người).

Trụ ngày xem bản thân và vợ, nhật can Kỷ thổ, Canh kim cách xa không thấu, rất khó phát huy công dụng, Thương quan vừa đúng cùng nhật chủ là không hợp nhau, chưa nói đến có quan hệ bao nhiêu. Chỉ có Ất mộc Thất Sát có liên quan cùng nhật chủ (Mùi có Ất khắc Kỷ), nhưng cục không có hình Dần Mão, Giáp Ất khai thông thổ bất lực (bản mệnh thực ra là một thợ mộc). Trong cục Kiếp hành quyền, thì có ngại tranh cường háo thắng (loại đọ sức). Kiếp vượng khắc Tài, biểu thị cả đời Tài đến Tài đi không tụ Tài. Thê cung là Mùi, Thê tinh là Nhâm. Vị trí không chính, thuyết minh năng lực của vợ bình thường, Tỉ kiên hành cung, tượng chuyên cần lao khổ. Nhâm thủy thấu mà ở tháng tọa mộ khố, vốn là từ chỗ Thân, biểu thị thời thanh trung niên được lòng em trai em gái nhà vợ (Nhâm Quý là Tài) cùng mẹ vợ trợ giúp (Canh là mẹ vợ). Trong Thân có Mậu Nhâm Canh, đồng thời cũng là chăn nuôi gia súc sinh Tài (Thương Thực là lục súc). Quý hợp Mậu, Quý sinh Ất em trai vợ phải là người quan quý. Quý thủy vốn là cha, tại sao không đoán cha là có quan quý chứ? Đây chính là huyền cơ vì Phụ tinh cư ở cung huynh đệ là vị trí không chính, Quý cạnh bên có Ất hộ, chỉ chứng minh cha có ăn có thọ mà thôi. Mà vợ thì là vị trí chính, xã hội cho phú quý thì không giống nhau. Ngày tọa Tỉ, trụ hạn đối với cha là bất lợi, cha tất ở trong trụ hạn này sẽ tử vong. Cũng biểu thị bản thân ở hạn này tiêu hao tiền tài nhiều.

Tiếp theo là xem trụ giờ cung con cái, nữ chiếm vị trí con trai, Giáp có vị trí mộ, đối với một thai sinh nữ lớn là bất lợi. Lại xem Thê tinh Nhâm thủy, tọa dưới chỉ có Thìn trong có Ất mộc, mà không có Giáp, cũng chứng minh khó tồn có nữ. Cục có 2 Ất là con trai. (Thực ra một thai là Phượng (gái) một thai Long (trai), Phượng sinh trước mà chết. Long sinh sau, cộng có 2 trai). Trụ giờ là Bính Ấn mộ, mẫu thân tất chết ở trong trụ hạn này, chị gái cũng vậy. Can giờ là con trai là hoàn cảnh bên ngoài, là chỗ nhật chủ hỉ, thuyết minh Tử tinh hiếu thuận, xuất ra ở bần hàn nhưng về sau sẽ tốt.

Từ hai ví dụ ở trên, trình bày tính trọng yếu của Tinh Cung và Trụ hạn, hi vọng người mới học lấy một suy ra ba, tử tế tham khảo ngộ ra thiên cơ ở trong đó, là cơ sở dùng đoán Thể Dụng lục thân rất nhanh.
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply