KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionĐịnh luận Cục chính xác cùng quan hệ tác dụng  EmptyĐịnh luận Cục chính xác cùng quan hệ tác dụng

more_horiz
Cách là Cách hề Cục là Cục,
Rõ Thể lập Dụng lý tối kỳ.


Chọn định Cục chính xác e rằng là chuyện người học mệnh tổn thương tới trí não, Pháp Năng tổng quan tất cả sách mệnh từ xưa đến nay, không có một định luận chính xác. Có duyên gặp gỡ ân sư "Giản đồ quả lắc của Ân sư Khưu Bình Sách" tiết lộ ra hết thiên cơ của Nhị Cục, mới vạch ra mây mù che phủ cả nghìn năm ở giới mệnh học định Cục bát tự.

Ở trong【 Trích Thiên Tủy 】 trình bày suy vượng viết: 【 Có thể biết chân cơ suy vượng, huyền diệu là ở Tam Mệnh, là biết quá bán vậy. 】! ! !

Tam Cục đồ:

〈Một 〉 Dương Cục: Hoặc xưng là【 Thuận cục, (Chính Cục)】, bao hàm cả thân vượng và thân nhược.
Các vị độc giả, quả con lắc (Nhật nguyên) từ trong đồ thị không ngừng chuyển động lặp đi lặp lại, bạn có thể lĩnh hội ra cái gì chứ?
【 Thân vượng thuận sinh tăng thế là hung 】! Như trong đồ thị: Từ O đến A1 là hung, lúc Nhật nguyên (quả lắc) chuyển động theo đường cong từ điểm O hướng về điểm A1, lực tăng dần, xu thế vượng dần, mà có thế tiếp tục tăng vượng, cho nên gọi là "Thân vượng" . Bởi vì xu thế vượng dần mà không thể nghịch chuyển, thí dụ như trong bát tự nhật nguyên vượng mà không có tiết chế hoặc thân nặng mà chế nhẹ, cho nên thân vượng tăng thế là hung.
【 Thân vượng thuận sinh giảm thế là cát 】! Như trong đồ thị: Từ A1 đến điểm O là cát, lúc nhật nguyên (quả lắc) chuyển động theo đường cong từ điểm A1 hướng về điểm O, lực giảm dần, xu thế suy nhược dần, cũng có xu thế không thể nghịch chuyển, bởi vì quả lắc ở trục X đang vận động ở trong góc vuông + ∞, cho nên nhật nguyên vẫn thuộc về "Thân vượng" . Nhưng bởi vì xu thế đang suy nhược dần, giống như nhật nguyên trong bát tự vượng mà có tiết chế, cho nên thân vượng giảm thế là cát.
【 Thân nhược thuận sinh tăng thế là cát 】! Như đồ thị: Từ điểm A2 đến điểm O là cát ... . . . .
【 Thân nhược thuận sinh giảm thế là hung 】! Như đồ thị: Từ điểm O đến điểm A2 là hung... . . .

〈 Hai 〉 Âm Cục: Hoặc xưng là【 Nghịch cục, (Phản cục) 】. Bao gồm cả tòng cường và tòng nhược.
【 Tòng Cường thuận sinh tăng thế là cát 】! Như đồ thị: Từ điểm A1 đến điểm B1 là cát... . . . .
【 Tòng Cường thuận sinh giảm thế là hung 】! Như đồ thị: Từ điểm B1 đến điểm A1 là hung... . . .
【 Tòng Nhược thuận sinh tăng thế là hung 】! Như đồ thị: Từ điểm B2 đến điểm A2 là hung... . . .
【 Tòng Nhược thuận sinh giảm thế là cát 】! Như đồ thị: Từ điểm A2 đến điểm B2 là cát... . . . .

〈 Ba 〉 Âm Dương hợp cục hầu như không tồn tại, là điểm chuyển hóa âm dương tiêu trưởng.
Thế gian toàn bộ thuộc tính âm dương ngũ hành mệnh cục đều bao hàm hết ở trong đó, mà bởi vì hình tượng trực quan mà định cục phán đúng cát hung. Rốt cuộc làm sao ở trong bát tự ranh giới tiêu chuẩn quyết định nhị cục, có phương pháp nào định ra số lượng ngũ hành suy vượng, ngoại trừ có truyền thụ chính là bản thân tự tìm tòi mà hiểu ra, chớ chỗ này là không có hai phương pháp.

Quyển Trung【 Thanh Nang Tự 】viết: Nhận biết lý lẽ âm dương huyền diệu, biết suy vượng sinh và tử. Không hỏi tọa sơn cùng lai thủy, nhưng phùng tử khí đều không lấy. Bất luận là mệnh lý hoặc là phong thủy, đều phải quan sát âm dương ngũ hành suy vượng tự nhiên. Đặc biệt là biện biệt chính xác ngũ hành âm dương bát tự, bản thể cơ sở lục thân suy vượng, cũng giống như là cửa ải mệnh học. Phán đoán vượng suy chính xác hay không, là quyết định suy đoán thành công cao hay thấp.

Phán đoán "Chân cơ" suy vượng là ở đâu?
Đầu tiên độc giả phải hiểu rõ, lấy 〈Biểu Lịch trình Thập Thiên can sinh vượng tử tuyệt 〉 trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng để định nhật nguyên suy vượng? Hay là lấy ngũ hành thập can ở bốn mùa〈 Nắm lệnh là Vượng, lệnh sinh là Tướng, sinh lệnh là Hưu, khắc lệnh là Tù, lệnh khắc là Tử 〉để xác định vượng suy? Cổ hiền ở lúc trình bày suy vượng lưu lại bí quyết nào, thập can suy vượng lại là lấy cái gì để phán đoán chứ? Lấy địa chi nguyệt lệnh, hay là ngũ hành thiên can? Mỗi một vị độc giả chân chính lĩnh ngộ 【 Chân cơ Suy Vượng 】 chứ?

Tác giả【 Trích Thiên Tủy 】 mới là một người "Duy nhất" biết rõ chân cơ suy vượng! ! ! Nó vừa không sử dụng 〈 Biểu sinh vượng tử tuyệt, lại không dùng ngũ hành bốn mùa của thập nhị địa chi, mà là sử dụng khí Nhân nguyên 〉, tác giả thông minh tuyệt đỉnh, nhận biết đến luận mệnh là lấy nhật can làm trung tâm luận để suy đoán vượng suy, mà không phải là chi ngày để bình luận vượng suy. Hình và Khí, địa chi và thiên can là hai loại vật, không thể có quan hệ phát sinh tác dụng, cho nên không thể lấy chi để suy đoán vượng suy.

Thiên theo Hình, Địa theo Khí, lấy Địa xét Khí, lấy Khí định cát hung. Trong chương luận〈 Nguyệt lệnh, Giờ sinh, Suy Vượng 〉của 【 Trích Thiên Tủy 】, lộ ra hết chân cơ vượng suy, chỉ đáng tiếc là tàng ẩn ở thâm sơn không có người đến, không có người nhận biết nó. Trong đó chương 〈 Nguyệt lệnh cùng Giờ sinh 〉 có câu nói: "Nhân nguyên là thần dụng sự", chính là "Chân cơ" đoán suy vượng. Cục theo Cách thần bắt đầu luận ngũ hành suy vượng, Cách luận Thập Thần nhân sự cùng công dụng xã hội, Cục luận bản thể tự nhiên cát hung! ! !

Lấy vật hữu hình để khảo sát khí vô hình, lấy khí vô hình để xem vật hữu hình. Khí nhân nguyên trong địa chi mới là bảo pháp thiên cơ bình phán nhật can cùng lục thân suy vượng! ! !

descriptionĐịnh luận Cục chính xác cùng quan hệ tác dụng  EmptyRe: Định luận Cục chính xác cùng quan hệ tác dụng

more_horiz
-kimcuong, 2021-

Trở về bài "Nguyệt lệnh" trong Tích Thiên Tủy, chương này luận nhân nguyên trong tháng sinh là quan trọng. Chúng ta phải tính rõ 3 can tàng chiếm lĩnh bao nhiêu ngày trong tháng. Nếu can đó thấu ra thì lấy đó là dụng sự, tức gọi là hữu dụng. Thí dụ như tháng Dần, sau tiết Lập Xuân, Mậu chiếm 7 ngày, Bính chiếm 7 ngày, Giáp chiếm 16 ngày (chót)

"Dụng thần" có ý nghĩa chính xác khi nhân nguyên thấu lộ. Như nguyên chú viết: "Lệnh tinh là phần trọng yếu của Tam mệnh, khí tượng đắc lệnh là cát, hỉ thần đắc lệnh là cát, lệnh có thể không chú ý đến sao? Nguyệt lệnh giống như con người trong gia đình, tam nguyên là ở trong chi, định đường hướng ở trong nhà, không thể không suy đoán. Như người sinh tháng Dần, sau Lập Xuân trước 7 ngày, đều là Mậu thổ dụng sự; sau 8 ngày trước 14 ngày, Bính hỏa dụng sự ; sau 15 ngày, Giáp mộc dụng sự. Hiểu chỗ này thì có thể thủ cách, có thể thủ dụng vậy."

Nhâm Tiết Thiều giải thích thêm: "Nhân nguyên dụng sự, tức là thần điều khiển tháng này ngày này vậy, giống như đường hướng ở trong nhà, không thể không suy đoán."

Còn Địa lý huyền cơ nói rõ hơn, nếu ta sinh tháng Dần vào thời điểm Mậu thổ nắm lệnh thì Giáp tuy là bản khí của Dần lại không đúng thời. Mậu thổ và Bính hỏa mà thấu, thủy nhược thì được cách "môn địa lưỡng vượng", có phúc lợi; ngược lại, gặp Thủy sinh Mộc thì môn địa đều suy, không cát tường. Nhưng viết như thế vẫn chưa rõ luận suy luận vượng nhật chủ hay luận can tàng cần thấu?

Một điều khá minh bạch chỉ là Dần tàng Giáp Bính mậu, nếu sinh 7 ngày đầu Lập Xuân thì Mậu thổ là LỆNH tháng, nếu thiên can không có hỏa thổ mà lại thấu thủy mộc thì luận nhật chủ SUY, bất kể nhật chủ là thiên can gì.

Chúng ta đọc Tích Thiên Tủy đã khá lâu rồi, có ai nhận ra điều này?
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply