-letung73, 2014-
Trong mệnh cục của bát tự lấy Chính Quan làm dụng thần, Quan tinh là thành phần chủ yếu trong mệnh cục,
1. Khái niệm
【 Tên gọi 】 Chính quan cách
【 Giải thích 】
Chính quan cách là danh từ đặc biệt trong mệnh lý tứ trụ, đây là mối qua hệ giữa nhật chủ với nguyệt lệnh mà xác định ra, tức là nói nguyệt lệnh với nhật chủ là mối quan hệ tương khắc, mà lại còn là mối quan hệ âm dương không đồng tính, đây chính là Chính quan cách, nếu như là mối quan hệ tương (quan) khác đồng tính thì chính là Thiên quan cách.
2. Không thể bị thương
Nhật chủ quá mạnh mẽ, trong bát tự Tỉ Kiếp trùng trùng, mà Tài tinh không nhiều lắm, phù hợp là lấy Chính quan chế khử Tỉ Kiếp, làm cho mệnh cục được trung hòa. Nếu tuy dụng Chính quan chế khử Tỉ Kiếp, nhưng vẫn chưa trung hòa, đại vận lưu niên cần hành đến vận Chính quan để gia tăng thêm lực lượng của Quan tinh, hoặc hành đến vận Tài để Chính quan trong trụ được sinh vượng, làm cho Chính quan có lực, mà cuối cùng đạt được công dụng cân bằng toàn bộ mệnh cục, cho nên vai trò của Chính quan này có thể gọi là to lớn, Chính quan ở đây đã là mỹ vật rồi, há có thể bị thương, nếu trong trụ có Thương quan, tất muốn khắc chế Chính Quan, họa sâu đã ẩn phục, đại vận hành đến vận Thương quan, dẫn động Thương quan trong trụ, tất họa lớn khó tránh. Dù trong bát tự đồng thời không có Thương quan,đã lấy Chính quan làm cách, hành vận cũng kị Thương quan khắc Quan. Như:
Đinh Giáp Tân Mậu
Mão Dần Dậu Tý
Tạo này dụng Chính quan, bị Đinh Mão xung khắc mà phá ( bị đinh mão thiên khắc địa xung tân dậu), không cát. Thơ nói rằng: “Quan tinh trong lệnh tháng của bát tự được chính danh, trong cục đại sợ Mão và Đinh" là đúng vậy.
3. Tài làm phúc lợi
Nhật can cường, Tỉ Kiếp trọng tìm sự phối hợp của bát tự, thì đương nhiên lấy Chính quan làm dụng, mà trong trụ Chính quan tuy có, nhưng lực lượng không đủ để chế Kiếp, chỗ này gọi là " Quan khinh", tất cần lấy Tài tinh sinh khởi Chính quan thì tuyệt vời, đây chính là tăng thêm sự cường lực cho Chính quan. Nếu trong trụ Tài nhiều, đương nhiên sự đẹp đó không thể nói, đại vận hoặc lưu niên hành đến Tài hương, nhất định thuộc vận đại cát. Như:
Đinh Canh Giáp Ất
Sửu Thân Thân Hợi
Mệnh này Chính quan nhược, được Giáp Ất thấu can sinh, chính là Quan khinh gặp Tài là phúc lợi.
4. Là trụ cột quốc gia
Nhật can nhược, Tỉ Kiếp thiểu, Quan tinh vượng, nếu có Ấn tinh, thì Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, tuy có Quan tinh vượng thì cũng không luận là hung, bởi Ấn có thể tiết (tú) Quan sinh thân vậy. Đây gọi là Quan Ấn tương sinh, nếu không có Tài phá Ấn, không có Thương quan tổn hại Quan, chắc chắn là mỹ cách vậy. Như:
Canh Đinh Đinh Ất
Tuất Mùi Hợi Mão
Mệnh này có Quan có Ấn không bị phá, là trụ cột quốc gia, là mệnh trạng nguyên.
5. Chỉ nên chế phục
Nhật can quá yếu, trong bát tự Quan tinh thấy trùng điệp, mà tứ trụ vô Ấn thụ, bất đắc dĩ mà lấy Thương quan Thực thần dồn sức chế Quan tinh, khiến nhật chủ không đến nỗi bị Quan tinh khắc phạt gần như không còn. Gống như phải chịu sự cai trị của một thể chế chính trị bạo ngược chuyên quyền, khiến cho nhân dân không có đường sống, dân muốn sinh tồn, thì phải đứng lên khởi nghĩa vũ trang để chống lại triều đình.
Mậu Bính Quý Quý
Tuất Tý Hợi Dậu
Mệnh này Quan tinh trùng điệp, khắc thân quá nặng, đều nhờ vào Mậu thổ cao thấu chế phục.
6. Phân ra đề luận
1, Phàm Chính quan thành cách, trong trụ có một vị Quan tinh cường tráng, lại cần nhật chủ cường, được Tài Ấn tương phù, trong trụ không gặp Thương quan, Thất sát, hành vận dẫn đến đất Quan, nhất định phú quý.
2, Kết câu Quan tinh trong trụ lại có Tài tinh sinh trợ, thì cần phải hành thân vượng ( Tỉ Kiếp, Ấn tinh) mới có thể phát đạt. Cho nên Tài Quan trùng trùng, nhật chủ suy nhược, không thể đản nhiệm trọng trách, thì uổng công vô dụng, vận đến đất Tài Sát vượng, nhất định mắc bệnh nặng. Trong trụ Quan Sát trọng nặng, nhật chủ nhược, Thất sát lại vượng, lại hành Sát vận, e rằng có họa lao ngục. Quan là cai quản vậy, Quan Sát quá thậm, lại hành Quan Sát, thì không sinh bệnh tật, thì cũng bị tai họa phải dính đến cơ quan pháp luật.
3, Ngũ hành Chính quan, kị cung hình xung khắc phá. Chỗ này chẳng những nói đến Chính quan, trong trụ có vật hữu dụng, thì đại đa số đều kị hình xung khắc phá.
4, Nếu là thân suy Quan Sát vượng, nhất định sẽ biết mệnh này là bần hàn.
5, Chính quan gặp Sát và Thương quan, hình xung khắc hại, tuế vận gặp nhau tất chết.
6, Có Quan cần có Ấn, không bị hình thì đầy đủ mà có thể nổi danh, không phải là khách của kim vàng điện ngọc thì cũng là nhà phú hào.
7, Chính quan thấy trọng nặng, thì chỉ lấy Sát để suy đoán, lại đến đất Quan, thì họa khó tránh khỏi, nếu là quá nhiều, mà chế phục được nó là phúc.
8, Chính khí Quan tinh dụng nguyệt chi, hỉ phùng Tài Ấn ở năm giờ, phá hại hình xung đều không phạm, phú quý song toàn báo biết ngay.
9, Quan tinh không thể bị hình xung, Quan Sát cùng đến cát biến hung, hóa Sát làm Quan mới là cát, hóa Quan làm Sát họa trùng trùng.
10, Quan tinh đại để cần thân cường, thân nhược cần cầu phương vận vượng, tuế vận liền gặp đất thân vượng, không xung thương phá tất vinh xương.
11, Ấn nhiều Quan nhiều là phúc mệnh, Quan vượng thân suy phản thành bệnh, Quan nhiều thân vượng hóa làm Tài, Tài vượng thân suy gồm cả nghèo hèn và bệnh tật.
12, Chính quan tất cầu trong nguyệt lệnh, vô phá vô thượng quý không dứt, dây ngọc yên vàng thật phú quý, hai hàng cờ xí tiến hoàng châu ( làm vua).
13, Chính quan nhị đức tính tình thuần, Từ Quán văn chương khả lập thân, Quan Ấn tương sinh gặp tuế vận, Ngọc đường kim mã tọa triều thần.
14, Nói chung Quan tinh họa phúc thật, Chính thiên hỗn tạp rất vô tình, lộ Quan tàng Sát phần đa phúc, lộ Sát tàng Quan đại họa sinh.
Chính Quan Cách
Trong mệnh cục của bát tự lấy Chính Quan làm dụng thần, Quan tinh là thành phần chủ yếu trong mệnh cục,
1. Khái niệm
【 Tên gọi 】 Chính quan cách
【 Giải thích 】
Chính quan cách là danh từ đặc biệt trong mệnh lý tứ trụ, đây là mối qua hệ giữa nhật chủ với nguyệt lệnh mà xác định ra, tức là nói nguyệt lệnh với nhật chủ là mối quan hệ tương khắc, mà lại còn là mối quan hệ âm dương không đồng tính, đây chính là Chính quan cách, nếu như là mối quan hệ tương (quan) khác đồng tính thì chính là Thiên quan cách.
2. Không thể bị thương
Nhật chủ quá mạnh mẽ, trong bát tự Tỉ Kiếp trùng trùng, mà Tài tinh không nhiều lắm, phù hợp là lấy Chính quan chế khử Tỉ Kiếp, làm cho mệnh cục được trung hòa. Nếu tuy dụng Chính quan chế khử Tỉ Kiếp, nhưng vẫn chưa trung hòa, đại vận lưu niên cần hành đến vận Chính quan để gia tăng thêm lực lượng của Quan tinh, hoặc hành đến vận Tài để Chính quan trong trụ được sinh vượng, làm cho Chính quan có lực, mà cuối cùng đạt được công dụng cân bằng toàn bộ mệnh cục, cho nên vai trò của Chính quan này có thể gọi là to lớn, Chính quan ở đây đã là mỹ vật rồi, há có thể bị thương, nếu trong trụ có Thương quan, tất muốn khắc chế Chính Quan, họa sâu đã ẩn phục, đại vận hành đến vận Thương quan, dẫn động Thương quan trong trụ, tất họa lớn khó tránh. Dù trong bát tự đồng thời không có Thương quan,đã lấy Chính quan làm cách, hành vận cũng kị Thương quan khắc Quan. Như:
Đinh Giáp Tân Mậu
Mão Dần Dậu Tý
Tạo này dụng Chính quan, bị Đinh Mão xung khắc mà phá ( bị đinh mão thiên khắc địa xung tân dậu), không cát. Thơ nói rằng: “Quan tinh trong lệnh tháng của bát tự được chính danh, trong cục đại sợ Mão và Đinh" là đúng vậy.
3. Tài làm phúc lợi
Nhật can cường, Tỉ Kiếp trọng tìm sự phối hợp của bát tự, thì đương nhiên lấy Chính quan làm dụng, mà trong trụ Chính quan tuy có, nhưng lực lượng không đủ để chế Kiếp, chỗ này gọi là " Quan khinh", tất cần lấy Tài tinh sinh khởi Chính quan thì tuyệt vời, đây chính là tăng thêm sự cường lực cho Chính quan. Nếu trong trụ Tài nhiều, đương nhiên sự đẹp đó không thể nói, đại vận hoặc lưu niên hành đến Tài hương, nhất định thuộc vận đại cát. Như:
Đinh Canh Giáp Ất
Sửu Thân Thân Hợi
Mệnh này Chính quan nhược, được Giáp Ất thấu can sinh, chính là Quan khinh gặp Tài là phúc lợi.
4. Là trụ cột quốc gia
Nhật can nhược, Tỉ Kiếp thiểu, Quan tinh vượng, nếu có Ấn tinh, thì Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, tuy có Quan tinh vượng thì cũng không luận là hung, bởi Ấn có thể tiết (tú) Quan sinh thân vậy. Đây gọi là Quan Ấn tương sinh, nếu không có Tài phá Ấn, không có Thương quan tổn hại Quan, chắc chắn là mỹ cách vậy. Như:
Canh Đinh Đinh Ất
Tuất Mùi Hợi Mão
Mệnh này có Quan có Ấn không bị phá, là trụ cột quốc gia, là mệnh trạng nguyên.
5. Chỉ nên chế phục
Nhật can quá yếu, trong bát tự Quan tinh thấy trùng điệp, mà tứ trụ vô Ấn thụ, bất đắc dĩ mà lấy Thương quan Thực thần dồn sức chế Quan tinh, khiến nhật chủ không đến nỗi bị Quan tinh khắc phạt gần như không còn. Gống như phải chịu sự cai trị của một thể chế chính trị bạo ngược chuyên quyền, khiến cho nhân dân không có đường sống, dân muốn sinh tồn, thì phải đứng lên khởi nghĩa vũ trang để chống lại triều đình.
Mậu Bính Quý Quý
Tuất Tý Hợi Dậu
Mệnh này Quan tinh trùng điệp, khắc thân quá nặng, đều nhờ vào Mậu thổ cao thấu chế phục.
6. Phân ra đề luận
1, Phàm Chính quan thành cách, trong trụ có một vị Quan tinh cường tráng, lại cần nhật chủ cường, được Tài Ấn tương phù, trong trụ không gặp Thương quan, Thất sát, hành vận dẫn đến đất Quan, nhất định phú quý.
2, Kết câu Quan tinh trong trụ lại có Tài tinh sinh trợ, thì cần phải hành thân vượng ( Tỉ Kiếp, Ấn tinh) mới có thể phát đạt. Cho nên Tài Quan trùng trùng, nhật chủ suy nhược, không thể đản nhiệm trọng trách, thì uổng công vô dụng, vận đến đất Tài Sát vượng, nhất định mắc bệnh nặng. Trong trụ Quan Sát trọng nặng, nhật chủ nhược, Thất sát lại vượng, lại hành Sát vận, e rằng có họa lao ngục. Quan là cai quản vậy, Quan Sát quá thậm, lại hành Quan Sát, thì không sinh bệnh tật, thì cũng bị tai họa phải dính đến cơ quan pháp luật.
3, Ngũ hành Chính quan, kị cung hình xung khắc phá. Chỗ này chẳng những nói đến Chính quan, trong trụ có vật hữu dụng, thì đại đa số đều kị hình xung khắc phá.
4, Nếu là thân suy Quan Sát vượng, nhất định sẽ biết mệnh này là bần hàn.
5, Chính quan gặp Sát và Thương quan, hình xung khắc hại, tuế vận gặp nhau tất chết.
6, Có Quan cần có Ấn, không bị hình thì đầy đủ mà có thể nổi danh, không phải là khách của kim vàng điện ngọc thì cũng là nhà phú hào.
7, Chính quan thấy trọng nặng, thì chỉ lấy Sát để suy đoán, lại đến đất Quan, thì họa khó tránh khỏi, nếu là quá nhiều, mà chế phục được nó là phúc.
8, Chính khí Quan tinh dụng nguyệt chi, hỉ phùng Tài Ấn ở năm giờ, phá hại hình xung đều không phạm, phú quý song toàn báo biết ngay.
9, Quan tinh không thể bị hình xung, Quan Sát cùng đến cát biến hung, hóa Sát làm Quan mới là cát, hóa Quan làm Sát họa trùng trùng.
10, Quan tinh đại để cần thân cường, thân nhược cần cầu phương vận vượng, tuế vận liền gặp đất thân vượng, không xung thương phá tất vinh xương.
11, Ấn nhiều Quan nhiều là phúc mệnh, Quan vượng thân suy phản thành bệnh, Quan nhiều thân vượng hóa làm Tài, Tài vượng thân suy gồm cả nghèo hèn và bệnh tật.
12, Chính quan tất cầu trong nguyệt lệnh, vô phá vô thượng quý không dứt, dây ngọc yên vàng thật phú quý, hai hàng cờ xí tiến hoàng châu ( làm vua).
13, Chính quan nhị đức tính tình thuần, Từ Quán văn chương khả lập thân, Quan Ấn tương sinh gặp tuế vận, Ngọc đường kim mã tọa triều thần.
14, Nói chung Quan tinh họa phúc thật, Chính thiên hỗn tạp rất vô tình, lộ Quan tàng Sát phần đa phúc, lộ Sát tàng Quan đại họa sinh.