KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionChương Bổ sung EmptyChương Bổ sung

more_horiz
1. Thiên Can

Thập Can âm dương có khác biệt, chẳng qua là dương cương âm nhu, dương mạnh, âm theo. Dương không mạnh, chịu âm khắc; âm không mạnh, sợ dương khắc. Âm dễ tòng theo hành khác, dương ngược lại thì khó tòng. Khí Can dương Can thì vượng, còn chất Can âm thì bền chặt mà thôi. Các Mệnh gia bèn lấy sáng tác thành những bài ca phú, ví von thất thường. Như xưng danh: Giáp là Đống Lương, Ất là La Đằng, Bính là Thái Dương, Đinh là Chúc Đăng , Mậu là Tường thành, Kỷ là Điền Viên, Canh là Thiết Ngoan , Tân là Châu Ngọc, Nhâm là Hà Giang , Quý là Vũ Lộ, không có thể tin vậy.

Dương can chủ Cương, uy vũ bất khuất , mà tâm tư có trắc ẩn, xử thế không cẩu thả . Âm can chủ Nhu , thấy thế mạnh thì vong nghĩa , mà tư tưởng thì keo kiệt, bủn xỉn, kỳ xử thế nhiều kiêu căng, nịnh hót, đại đa số theo lợi mà quên nghĩa, đều là do âm khí thôi . Con người hào hiệp, khảng khái, chung quy đều là dương khí mà ra. Song, âm dương đình quân, không có thiên lệch, không có dựa dẫm, mệnh tốt nhất là chính thuận, bản thân không làm mất phẩm chất, không có vụ lợi riêng tư vậy.

Giáp là khí của Ất, Ất là chất của Giáp. Ở trên trời làm nên sinh khí mà lưu hành ở vạn vật, là Giáp vậy. Ở dưới đất là vạn vật mà nhận được sinh khí, chính là Ất vậy. Đồng thời phân ra nhỏ, sinh khí phân tán ra thì Giáp là ngôi thứ nhất; tiếp theo sinh khí được ngưng thành thì Giáp là ngôi thứ 2; Cho nên vạn vật hình thành ra lá, cánh hoa thì Ất là ngôi thứ nhất; tiếp theo là cây cỏ phát triển ra cành lá xum xuê thì Ất là ngôi thứ 2. Phương là Giáp mà khí Ất lấy đủ, cùng kỳ là Ất mà chất của Giáp chính là bền chặt. Giáp Ất đều có, thì mộc có đủ âm dương vậy. Lấy mộc mà suy ra, các hành khác cũng biết. Giáp cũng là dương mộc, mà mộc cũng là sanh khí; Ất là âm mộc, mộc này chính là hình dạng và thể chất vậy. Canh là dương kim, khí trời mùa Thu thì thu liễm lại vậy; Tân là âm kim, tính chất cứng cỏi như kim khí vậy. Sinh khí mộc là nương nhờ ở mộc, mà lưu thông ở trên trời, cho nên gặp khí trời mùa Thu bị thu liễm lại mà bị tiêu tan, khắc chế đến hết; mà kim là sắt, đao, búa trái lại không thể gây tổn thương. Hình chất của Mộc, gặp kim là đao búa chém chặt không chừa, mà khí túc sát thì chỉ làm rơi rụng quét sạch lá cây bên ngoài, mà gốc rễ cây càng kiên cố. Cho nên Giáp lấy Canh là Sát, lấy Tân là Quan; còn Ất thì không phải vậy, Canh làm Quan mà Tân làm Sát vậy. Bính là dương hỏa, là khí ấm áp vậy, Đinh là âm hỏa vậy, là củi giúp cho hỏa vậy. Mùa Thu, khí trời túc sát , gặp dương hòa thuận mà khắc khứ, mà kim thì tính chất cứng cỏi, không sợ dương hòa , cho nên Canh lấy Bính làm Sát, mà Tân lấy Bính làm Quan vậy; do tính chất cứng cỏi của kim, gặp Tân là bám vào hỏa mà lập tức hóa , mà khí túc sát thì không sợ Tân bám vào hỏa , cho nên Tân lấy Đinh làm Sát , mà Canh lấy Đinh là Quan vậy . Tức là lấy cách này suy ra, còn lại các loại tương khắc khác cũng có thể biết vậy .

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
2. Địa chi
Địa chi tàng chứa không chỉ có 1 Can. Cho nên, sinh khắc chế hóa, lý lẽ đa đoan, song chỉ lấy bản khí là chủ yếu. Dần tất nhiên trước tiên là Giáp mà tiếp sau là Bính, Thân tất nhiên trước tiên là Canh mà tiếp sau là Nhâm, còn lại là dư khí . Dương thì tính động mà mạnh mẽ, cát hung ứng nghiệm rất nhanh; âm thì tính tĩnh mà yếu đuối, phúc họa thì ứng nghiệm chậm hơn. Ở cục và ở vận, đều lấy ý này mà xác định gia tăng hay giảm đi.

Dần Mão lại vừa chuyển tải Giáp Ất phân ra âm dương thiên địa mà nói vậy . Lấy Giáp Ất mà phân ra âm dương , thì Giáp là dương, Ất là âm. Mộc lưu hành ở thiên mà có âm dương vậy. Lấy Dần Mão âm dương, thì Dần là dương, Mão là âm . Mộc lưu tồn ở đất mà có âm dương vậy. Lấy Giáp Ất Dần Mão hợp lại mà phân ra âm dương, thì Giáp Ất là dương, Dần Mão là âm. Mộc ở thiên thì thành tượng, mà ở địa thì thành hình vậy. Giáp Ất lưu hành ở thiên, mà Dần Mão thu nhận. Dần Mão tồn tại ở địa, mà Giáp Ất biến đổi vậy.

Tý Ngọ Mão Dậu, nắm khí tối chuyên ; Dần Thân Tị Hợi, dung nạp tích trữ mà mở rộng; Thìn Tuất Sửu Mùi, là nơi thu tàng co lại thích hợp nhất.

Tý, Ngọ không thuộc dương là căn cứ ở trong Tý tàng chứa Quý thủy, Ngọ bên trong tàng chứa Đinh hỏa, do đó hình thể là dương mà có âm, cho nên lấy âm để luận. Tị Hợi vốn thuộc âm, mà Tị bên trong tàng chứa Bính hỏa, Hợi trong tàng chứa Nhâm thủy, làm nên hình mà phép dụng dương, cho nên lấy dương để luận .

3. Âm dương sinh tử
Can động mà không ngừng, Chi tĩnh mà không đổi. Lấy mỗi Can lưu chuyển ở 12 địa chi của tháng, mà thành hệ thống Sinh Vượng Mộ Tuyệt. Dương chủ tụ họp, lấy tiến làm tiến, cho nên chủ Thuận. Âm chủ tán, lấy thoái làm tiến, cho nên chủ Nghịch. Trường sinh Mộc dục các loại, cho nên có Dương Thuận Âm Nghịch mà khác biệt vậy. Bốn mùa vận hành, loại trừ thành công, dẫn đến sử dụng như nhau . Cho nên mỗi Can lưu động ở Thập nhị Chi 12 tháng mà có Sanh Vượng Mộ Tuyệt. Lại vừa có quy định, dương sinh, thì âm tử, hỗ hoán cho nhau, vận hành tự nhiên vậy. Tức là lấy Giáp Ất luận, Giáp là dương mộc, sinh khí trên trời lưu hành cây cỏ, nguyên nhân đều là sinh ở Hợi mà tử ở Ngọ. Ất là âm mộc, mộc là cành nhánh lá thụ khí trời sanh cho, vốn là sinh ở Ngọ mà tử ở Hợi. Mộc đang ở tháng Hợi, chính là cành lá đang lột da, mà bên trong khí đang được sinh, lấy cất dấu để đủ ăn. Chờ đợi đến mùa Xuân là nảy mầm, cho nên thời kỳ này sinh tại Hợi vậy. Mộc đang ở tháng Ngọ, chính là thời gian cành là xum xuê tươi tốt, mà Giáp sao lại Tử, không biết rằng bên ngoài tuy là phồn thịnh, mà bên trong thì sinh khí đã phát tiết ra hết rồi. Cho nên thời kỳ này tử ở Ngọ vậy, Trái với Ất mộc, tháng Ngọ thì cành lá phồn thịnh tức là ở vị trí Sinh. Tháng Hợi cành lá đang lột da tức là ở vị trí Tử , lấy chất mà luận, thì Chất và Khí có khác biệt vậy. Lấy Giáp Ất làm ví dụ, còn các hành khác tự suy ra vậy.

Chi có 12 tháng, cho nên mỗi Can từ Trường sinh đến Thai Dưỡng , cũng phân biệt 12 vị trí. Khí do thịnh mà suy, suy mà phục thịnh, mà phân phối theo từng tiết khí thành lập ra 12 cung Mà Trường sinh Mộc dục cùng các chủng loại, chẳng qua là dùng lời văn để đặt tên vậy. Trường Sinh là khi con người mới sinh ra vậy; Mộc Dục là sau khi vừa sinh ra, mà Mộc Dục là lấy đi chất dơ bẩn vậy, như quả hạch vừa nảy mầm, thì trước đó võ có màu đen, rữa mà mất đi vậy. Quan Đái là hình dạng dần dần lớn lên, giống như con người trưởng thành mà đội nón mũ áo quan vậy; Lâm Quan là đã trưởng thành mà con người có thể đảm nhiệm chức vụ; Đế Vượng là cực tráng thịnh, giống như con người có thể làm quan mà giúp quá nhiều cho vua vậy; Suy, vật thịnh cực mà suy , tức bắt đầu biến đồi vậy ; Bệnh là đã quá suy vậy ; Tử là khí đã tận mà không có dư vậy; Mộ tức là tạo hóa đã thu tàng, giống như con người đã chôn vào lòng đất vậy; Tuyệt là trước khi khí tuyệt mà chuẩn bị tiếp tục vậy; Thai là sau khi khí tiếp tục mà kết tụ thành bào thai vậy; Dưỡng giống như con người mang thai trong bụng mẹ vậy. Hiển nhiên, rồi sau đó lại đến Trường sinh mà tuần hoàn không dứt vậy.

Đế vượng là cực thịnh, cực thịnh thì suy, không bằng Trường sinh, Mộc dục Quan đái là vị trí phương hưng thịnh chưa dứt. Tuyệt là cực suy, suy cực thì đến thịnh, Suy Bệnh Tử hoàn toàn là vô khí .

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
4. Can khắc
Thập can đại biểu cho ngũ hành, phân ra là lưỡng kim, lưỡng mộc, lưỡng thủy , lưỡng hỏa, lưỡng thổ. Kim khắc mộc, cho nên Canh Tân khắc Giáp Ất; mộc khắc thổ, cho nên phân ra Giáp Ất khắc Mậu Kỷ; thổ khắc thủy , cho nên Mậu Kỷ khắc Nhâm Quý ; thủy khắc hỏa , cho nên Nhâm Quý khắc Bính Đinh ; hỏa khắc kim , cho nên Bính Đinh khắc Canh Tân. Vốn là lấy Can Chi tương khắc, tức là đại biểu ngũ hành đánh nhau vậy.

a. Ảnh hưởng Can khắc
(1) Như Canh gặp Giáp. Canh là chủ khắc, Giáp là bị khắc. Bị khắc là đỗ nát hết mà không còn dư thừa nữa, Chủ khắc tuy là thắng nhưng cũng mất bớt lực, gọi là Lưỡng bại Câu thương vậy.
(2) Nhật Can là bản thân, gặp khắc TA hoặc TA khắc, không thể luận là Lưỡng bại Câu thương vậy. Cái khắc TA là Quan, TA khắc là Tài. Tài Quan vốn là của TA, làm sao mà lưỡng bại được .
(3) Như năm Canh, tháng Giáp tương khắc. Đã là Lưỡng bại Câu thương, tựa như trong cục không phải Hỉ. nhưng mà hoặc Canh hoặc Giáp, nếu là Hỉ thần trong cục, tương khắc cho nên hung; nếu là Kỵ thần trong cục, thì dựa vào khắc mà trái lại hóa giải hung vậy.

b. Phân biệt Can khắc
(1) Như năm Canh, tháng Giáp. Vị trí gần nhau nhất, khắc là tối quan trọng.
(2) Như Canh lại gặp Thân. Giáp lại gặp Dần, hoặc 2 Canh 2 Giáp, thế lực ngang nhau, lực khắc cũng nặng.
(3) Như 2 Canh 1 Giáp, lấy 1 Giáp không thể địch 1 Canh, gặp 2 Canh cũng giống như bẻ gãy cành khô không đủ cứng mạnh để chiến đấu với địch, trái lại khắc chiến nhẹ.
(4) Như 2 Giáp 1 Canh, 1 Giáp không thể địch 1 Canh, 2 Giáp thì lực lượng gah đua cứng mạnh, mà khắc chiến trái lại nặng.
(5) Như 1 Canh 1 Giáp. Giáp thì chịu khắc, song Giáp mộc đắc thời hoặc đắc thế thì Canh khó có thể thủ thắng, mà Giáp chưa chịu tổn thương Việc này tất nhiên nếu dùng 2 Canh nhược mà 1Giáp cường, thì phương trở thành Chiến cục vậy .
(6) Như năm Canh ngày Giáp, có trụ tháng xa cách, lực khắc rõ ràng nhẹ.
(7) Như năm Canh, giờ là Giáp. Có trụ tháng, trụ ngày xa cách, vị trí quá xa , lực khắc càng nhẹ.
(8 ) Như năm Canh tháng Nhâm ngày Giáp. Nhâm thủy tiết Canh kim mà sinh Giáp mộc, thì Canh cùng với Giáp, có Nhâm hòa giải, tự khắc mà không phải khắc .
(9) Như năm Canh tháng Bính ngày Giáp. Canh Giáp vốn khắc, kim gặp Bính hỏa khắc Canh, thì Canh Giáp không có khắc, mà chuyển làm người đồng hành với Canh tương khắc vậy.
(10) Như năm Canh, tháng Giáp, giờ Nhâm. Tuy Nhâm thủy tiết Canh kim mà sinh Giáp mộc, nhưng mà Nhâm thủy xa cách. Canh Giáp vị trí tiếp cận, vẫn lấy khắc để luận .
(11) Như năm Canh, tháng Giáp, Giờ Bính. Bính ở trụ giờ, Canh ở trụ năm, vị trí quá xa cách, không thể nói tương khắc. Canh cùng Giáp thì vị trí tiếp cận, cho nên vẫn lấy Canh kim khắc mộc luận vậy .
(12) Như năm Canh, tháng Giáp, ngày Mậu. Nếu Canh kim quá mạnh, thì lấy Canh khắc Giáp, không có nói Giáp khắc Mậu vậy. Nếu Giáp mộc quá mạnh, thì lấy Giáp khắc Mậu, không lấy Canh khắc Giáp vậy. Nếu Mậu thổ rất mạnh, thì chỉ có Canh khắc Giáp, mà Giáp không thể khắc Mậu .
(13) Dương can khắc Dương can, Âm can khắc Âm can, lực khắc rất nặng . Âm can khắc Dương can, là thứ yếu. Dương can thường hay không khắc Âm can, mà luận là can hợp.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
5. Can hợp
Canh gặp Giáp, 2 dương đối nhau mà thành khắc; Tân gặp Ất, 2 âm bất túc mà thành khắc. Ất gặp Canh, hoặc Canh gặp Ất, thì âm dương cùng gặp mà hợp, như nam nữ cùng gặp, mà thành vợ chồng, mà thành đạo vậy. Căn cứ vào Dịch Kinh gọi là Nhất âm Nhất dương chi vị đạo, nghiêng về âm hay nghiêng về dương gọi là bệnh tật vậy.

a. Ảnh hưởng Can hợp
(1) Như ngày Giáp gặp Tân, Tân là Quan của Giáp. Nếu thấu Bính hợp Tân, thì Tân không còn là Quan của Giáp nữa. Bính là Thực của Giáp, song đã tác hợp cũng không còn là Thực vậy. Cho nên Hợp là đều mất đi mà cả 2 có sự trói buộc vậy.
(2) Nhật can là bản thân mà hợp thì không bị ảnh hưởng hợp khứ. Lục Dương mà gặp Tài, Lục Âm mà gặp Quan, đều là tác hợp; với ngày Ất gặp Canh, Ất Canh tác hợp, Canh là Quan của Ta, vốn là hợp với ta, sao là hợp khứ vậy!
(3) Như năm Bính, tháng Tân tác hợp. Cả 2 Bính Tân đã có sự trói buộc, giống như mệnh cục không được vậy. Song , hoặc là Bính hoặc là Tân, nếu là hỉ với Nhật can, hợp khứ thì gặp hung; nếu với Nhật can là kỵ, thì hợp khứ trái lại là giải hung vậy.

b. Phân biệt Can hợp
(1) Như năm Giáp, tháng Kỷ. Giáp Kỷ ở vị trí kề gần trói chặt, lực hợp đứng đầu.
(2) Như Giáp là can năm, Kỷ là can giờ. Vị trí ngăn cách rất xa, hợp mà không thể hợp vậy, gọi là Hợp Bán vậy. Nếu đến kỳ gặp phúc thì chỉ được 2,3 phần 10 mà thôi.
(3) Như Bính Tân tương hợp. Nếu Bính hỏa đắc thời đắc thế, thao túng làm nên trói buộc, vẫn có 6, 7 phần năng lực. Tân kim mất thời, thất thế, lại vừa bị kiềm chế trói buộc, lực càng mỏng vậy.
(4) Như 2 Tân 1 Bính, 2 Bính 1 Tân, 2 Đinh 1 Nhâm, 2 Nhâm 1 Đinh. Giống như 2 nữ 1 chồng, 1 nữ 2 chồng, khó tránh tranh giành đố kỵ, cho nên là Hợp Đố. Tuy có hợp ý, mà tình thì không chỉ có một. Là họa là phúc, được 10 phần thì chỉ có 5,6 phần mà thôi.
(5) Như năm Canh, tháng Ất , ngày Giáp, giờ Ất. Tuy có 2 Ất hợp 1 Canh, dựa vào ngày Giáp ngăn cách mà hoàn toàn không có tranh giành đố kỵ vậy, năm Canh tháng Ất vẫn là hợp thuần túy vậy.
(6) Như năm Ất, tháng Canh, ngày Ất, Canh kim bên trái phải đều có thể hợp Ất, là Đố Hợp vậy. Năm Ất, tháng Ất, Ngày Canh thì tháng Ất cùng ngày Canh cùng nắm chặt nhau hơn so với năm Ất ở cách xa vị trí mặc dù vẫn có ý hợp với Canh mà không thể lấy luận hợp vậy. Năm Canh, tháng Ất, ngày Ất, thì năm Canh hợp với tháng Ất, ngày Ất lấy vị trí cách xa, tuy cũng có ý hợp cũng không thể luận hợp vậy.

c. Can khắc, Can hợp cùng gặp
Mệnh có Thiên can khắc hợp đều gặp. Nếu dụng thần ở tại địa chi, đương nhiên không luận khắc, nhất định là luận hợp. Chỉ có điều nếu dụng thần cần giúp ở can thượng, thì tất nhiên đầu tiên lấy lực của khắc hợp, cân đo nặng nhẹ, song sau đó lấy dụng thần là thỏa đáng.

Đặc biệt phép lập ra theo 5 nguyên tắc như sau:
(1) Như năm Canh, tháng Ất, ngày Giáp. Lấy vị trí mà luận, Canh Ất gần kề, Canh Giáp xa cách, đương nhiên lấy hợp mà không lấy khắc vậy.
(2) Như năm Canh, tháng Tân, ngày Ất. Lấy vị trí mà luận, Tân khắc gần Ất. Canh Ất cách xa, đương nhiên lấy khắc mà không lấy hợp vậy.
(3) Như năm Giáp, tháng Canh, ngày Ất. Khắc hợp đều gặp, mà đều là gần kề cả, lấy chủ khắc, chịu khắc mà luận. Canh có thể thắng Giáp, Giáp không thể thắng Canh, thì Canh Ất tương hợp, Giáp không xâm phạm, đương nhiên lấy hợp để luận.
(4) Như năm Bính, tháng Canh, ngày Ất. Khắc hợp cùng gặp, cũng đều gần sát nhau. Lấy chủ khắc, chịu khắc để luận. Bính có thể thắng Canh, Canh không thể thắng Bính, thì Ất Canh không tương hợp. Bính được đánh Canh, đương nhiên lấy khắc mà luận.
(5) Như năm Bính, tháng Canh, ngày Ất. Khắc hợp đều gặp, mà đều gần nhau, lấy thế lực mà luận. Nếu Bính hỏa đắc thời, đắc thế, thì Bính hỏa có thể khắc Canh, Canh không thể hợp Ất. Nếu Canh kim đắc thời, đắc thế, thì Canh có thể hợp Ất, Bính không thể khắc Canh. Tiếp tục nếu 3 chữ Bính Canh Ất thế lực ngang nhau, thì lấy khắc mà không lấy hợp, cái khắc lực lớn hơn ở hợp lực vậy.

d. Can hợp mà hóa
Vạn vật sinh ra ở thổ, Giáp Kỷ tương hợp là sớm nhất, cho nên hóa là thổ. Thổ thì sinh kim, cho nên thứ đến là Ất Canh hóa kim; kim sinh thủy, cho nên Bính Tân hợp hóa thủy là thứ nữa; thủy thì sinh mộc, cho nên Đinh Nhâm hóa mộc; mộc thì sinh hỏa cho nên Mậu Quý hợp mà hóa hỏa. Mà ngũ hành thì có khắp nơi, thập can hóa hợp, ý nghĩa gần như thế này mà thôi. Tục thư giải thích, nhiều chủng loại quanh co, chưa có thể tin. Nói thêm lại có thời lệnh, khách chủ, minh ám, vị trí, năm tuế vận.

(1) Mùa nắm lệnh:
Tháng Thìn Tuất Sửu Mùi có thể hóa thổ, tháng Hợi Mão Mùi có thể hóa mộc, tháng Tị Dậu Sửu có thể hóa kim, tháng Dần Ngọ Tuất có thể hóa hỏa, tháng Thân Tý Thìn có thể hóa thủy. Kiêm Tháng Dần có thể hóa mộc, kiêm tháng Tị có thể hóa hỏa, kiêm tháng Hợi có thể hóa thủy, kiêm tháng Thân có thể hóa kim.

(2) Khách, Chủ.
Nhật can gặp hợp thì có thể hóa, cái Nhật can làm mệnh lệnh, là Chủ vậy. Can khác gặp hợp thì không thể hóa, can khác làm mệnh lệnh, là Khách vậy. Cho nên ngày Giáp hợp tháng Kỷ, hoặc giờ Kỷ thì có thể hóa thổ. Nếu năm Giáp tháng Kỷ thì có hợp mà không thể hóa vậy ( Cách này thì không nói là Hóa cách. Nếu bản thân hóa cách thành công, thì can khác gặp hợp cũng được hóa vậy).

(3) Minh, Ám.
Thấu can là Minh, tàng ẩn là Ám. Minh cùng Ám cũng chỉ có hợp không hóa. Như Kỷ thổ thấu can cùng bên trong Hợi tàng Giáp, chỉ có hợp mà không thể hóa.

(4) Vị trí
Như ngày Giáp năm Kỷ, vị trí bị trụ tháng ngăn cách, hợp mà miễn cưỡng, huống hồ so sánh ư.

(5) Tuế Vận
Như ngày Giáp gặp vận Kỷ hoặc năm Kỷ, luận là Chính Tài không thể luận là hóa thổ. Nếu Nhật can không phải là Giáp, can khác có một Giáp, gặp một vận Kỷ, năm Kỷ càng không thể hóa ( Cách này thì không nói là Hóa cách. Nếu bản thân hóa thành cách, can khác gặp hợp Vận hoặc hợp Tuế được hóa vậy).

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
6. Chi Xung
Chi xung, là Địa chi tương cách 6 vị trí mà xung kích, như Tý Ngọ tương xung, trong Tý tàng chứa Quý thủy, khắc Ngọ trong tàng chứa Đinh hỏa, trong Ngọ lại tàng Kỷ thổ lại khắc Tý trong chứa Quý thủy, cùng tấn công đánh lẫn nhau vậy.

a. Ảnh hưởng của Biến Xung
(1) Trong Địa chi có tàng chứa nhiều can, ảnh hưởng tương xung rõ ràng là thiên can tương khắc làm trở nên lẫn tạp. Trước tiên là từ bản khí, thời lệnh cùng nhiều ít, cùng tham gia.

- Bản khí: ( Khí gốc)
2 chi tương xung, tấn công đánh nhau không dứt, đang lấy bản khí làm trọng. Như Tý thì bản khí là thủy, Ngọ bản khí là hỏa, kết cục thuộc thủy khắc hỏa, cho nên Tý thắng mà Ngọ bại, Phép Tý Ngọ tương xung, Ngọ chính là chịu bị thương, Tý thì hao lực. Thời lệnh lấy bản khí luận, mặc dù Tý có thể thắng Ngọ, song, như tháng Ngọ thì hỏa vượng, gặp Tý thủy, Tý Ngọ tương xung, Ngọ thuộc đắc lệnh, Tý thì mất lệnh, thì Ngọ thắng mà Tý bại, đắc lệnh cho nên Ngọ không bị thương, thất lệnh cho nên Tý bị xung khử mất.

- Đa quả: ( nhiều, ít)
Như năm Ngọ, tháng Tý, ngày Ngọ, giờ Ngọ, lấy bản khí mà luận. Lấy thời lệnh nói thì Tý thắng Ngọ. Song, 3 Ngọ 1 Tý, Ngọ nhiều Tý ít, ứng với Ngọ thắng. Nhưng mà Tý bại mà không chết. Rõ ràng là Tý không có lực mà thôi.

(2) Trong cục Hỉ thần xung bại thì hung, Hung thần xung bại thì tốt.

b. Phân biệt Chi xung
(1) Dần Thân Tị Hợi xung, Lưỡng bại câu thương. Giả như Dần Thân gặp xung, trong Thân Canh kim khắc trong Dần chứa Giáp mộc, trong Dần chứa Bính hỏa lại khắc Canh kim trong Thân. Trong Thân có Nhâm thủy khắc Bính hỏa chứa trong Dần; Dần chứa Mậu thổ khắc Nhâm thủy chứa trong Thân, khắc chiến không có yên tĩnh vậy. Hoặc là chủ khắc, hoặc đắc lệnh, hoặc ít nhiều, có thể chiếm ưu thế. Trái lại là phép Tỏa bại ( giảm bớt bại).

(2) Thìn Tuất Sửu Mùi xung, bản khí đều là thổ, đều thuộc đồng loại, chẳng qua chỉ là Xung động mà thôi, không có ý khắc chiến vậy. Cho nên xung động, thì thổ chẳng qua bị kích động mà càng thêm vượng. Nói đến chi tàng, Thìn trong chứa Quý thủy, khắc Tuất trong chứa Đinh hỏa; Tuất trong có chứa Tân kim, khắc Thìn trong có chứa Ất mộc, đương nhiên lấy đắc lệnh hoặc nhiều ít mà chiếm ưu thế, trái lại là bại vậy. Sửu trong tàng chứa Tân kim Quý thủy, có thể khắc Mùi trong có tàng chứa Ất mộc Đinh hỏa; vị trí thì Sửu dễ dàng chiến thắng. Song, cũng cần coi thêm Thời lệnh cùng có nhiều hay ít, mà quyết định thắng bại.

(3)Tý Ngọ Mão Dậu xung, lấy Can tàng mà quyết định, thắng bại cũng dễ dàng phân biệt. Tý tàng chứa Quý thủy, khắc Ngọ trong chứa Đinh hỏa. Ngọ chứa Kỷ thổ khắc Tý chứa Quý thủy. Dậu trong chứa Tân kim, thuần khắc Mão trong tàng chứa Ất mộc. Lấy mộc khí mà nói, Tý có thể thắng Ngọ, Dậu có thể thắng Mão. Tiếp tục xem Thời lệnh cùng với nhiều hay ít, không khó khăn khi quyết định vậy.

(4) Lưỡng Chi tương xung, một là năm, một là tháng, tục danh là Hải để xung. Thực ra thì vị trí cách xa, ý nghĩa là hoàn toàn không xung, cũng như con người đi xa khỏi 2 địa điểm khác nhau thì làm sao tiếp xúc mà gây chiến để đánh nhau.

(5), Lưỡng Chi tương xung, một là năm, một là ngày; hoặc một tại tháng, một tại giờ. Xa cách một vị trí, lực xung giảm mỏng.

(6), Lưỡng Chi tương xung, một là nhật chủ bị Tuần Không, lực xung cũng giảm ( Tuần Không sẽ tường thuật sau)

(7), Như năm Ngọ, tháng Ngọ, ngày Tý, chỉ lấy tháng Ngọ ngày Tý là tương xung, không lấy năm Ngọ tương xung ngày Tý.

(8 ), Như năm Ngọ, tháng Tý, ngày Ngọ, nếu Ngọ lực mạnh, thì Tý Ngọ xung kích nhau ngay cực điểm trong chốc lát. 2 Ngọ mạnh mà 1 Tý yếu, thắng bại cần được phân biệt, nếu Tý lực mạnh thì lực xung kịch liệt vậy. Còn 2 Ngọ yếu mà 1 Tý mạnh thì thế lực quân bình vậy.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
7. Chi hợp

a. Các loại Chi hợp
(1) Lục hợp
Tý cùng Sửu, Dần cùng Hợi, Mão cùng Tuất, Thìn cùng Dậu, Tì cùng Thân, Ngọ cùng Mùi đều là Lục hợp. Lục hợp, lý lẽ là do Nhật Nguyệt hợp lại vào ngày mùng một âm lịch hàng tháng mà ra ( gọi là Hợp Sóc). Tháng 11 thấy Tý, Hợp Sóc tại Sửu; tháng 12 thấy Sửu, Hợp Sóc tại Tý, cho nên Tý Sửu là Lục Hợp. Tháng 1 thấy Dần, Hợp Sóc tại Hợi; Tháng 10 thấy Hợi, Hợp Tượng tại Dần. Cho nên Dần Hợi là Lục Hợp.

(2), Hợp cục
Hợi Mão Mùi hợp thành Mộc cục; Dần Ngọ Tuất hợp thành Hỏa cục; Tị Dậu Sửu hợp thành Kim cục; Thân Tý Thìn hợp thành Thủy cục, đều là Hợp Cục. Lý lẽ Hợp Cục là, lấy Sinh Vượng Mộ là một khí từ đầu đến cuối vậy ( Như Hợi Mão Mùi thì Hợi là mộc ở Sinh địa, Mão là mộc ở Vượng địa, Mùi là mộc ở Mộ địa vậy)

(3), Phương hợp
Dần Mão Thìn là phương Đông; Tị Ngọ Mùi là phương Nam; Thân Dậu Tuất là phương Tây; Hợi Tý Sửu là phương Bắc, đều là phương hợp lại. Lý lẽ phương hợp lại là lấy 3 Chi một khí liên quan vậy.

b. Ảnh hưởng Chi hợp
(1), Lục hợp: là 2 chi tương hợp, giống như bị buộc chân vậy. Hung thần gặp hợp thì giảm hung, Cát thần gặp hợp thì giảm cát.
(2), Hợp cục: là Hợi Mão Mùi hợp thành Mộc cục, trong mệnh hỉ mộc thì tốt, kị mộc thì hung. Dần Ngọ Tuất hợp thành hỏa cục, trong mệnh Hỉ hỏa thì tốt, Kỵ hỏa thì hung. Các loại khác cũng vậy.
(3), Phương hợp: Cũng giống như Hợp cục.

c. Phân biệt Chi hợp
(1) Hợp cục: ứng lấy Chi vượng là tối quan trọng. Hợi Mão Mùi, Mão là chi vượng. Tị Dậu Sửu, Dậu là chi vượng. Dần Ngọ Tuất, Ngọ là chi vượng. Thân Tý Thìn, Tý là Chi vượng. Nếu Hợi Mão, Mão Mùi, Tị Dậu, Dậu Sửu, Dần Ngọ, Ngọ Tuất, Thân Tý, Tý Thìn, mặc dù chỉ có 2 chi tương hợp, dựa vào có Chi vượng, lực không phải nhẹ, nhưng kém hơn 3 chi hợp toàn bộ vậy. Nếu Hợi Mùi, Dần Tuất, Thân Thìn, Tị Sửu, cũng có 2 Chi tương hợp nhưng không có Chi vượng thì lực yếu nhất, ý nghĩa là chỗ dựa không có hợp vậy.
(2) Phương hợp: lấy 3 chi đầy đủ mà có thể hợp, nếu chỉ có 2 chi, cũng luận hợp.
(3) Lục Hợp: lấy gần kề nhau thì hợp, xa cách 1 vị trí hoặc 3 vị trí, tức là không thể hợp.
(4) Phương hợp: Cục hợp mà đầy đủ 3 chi, có 1 chữ Nhàn ( nhàn rỗi, vô sư) Gián cách (khoảng cách ngăn chặn), vẫn lấy hợp mà luận, chỉ có 2 chi mà gián cách thì không thể luận hợp được.
(5), Lục Hợp: mà có 1 Chi bị Tuần Không, lực hợp giảm nhẹ.
(6) Như ngày Mậu tháng Dần, đầy đủ trở thành Đông phương, đều lấy Sát mà luận. Ngày Mậu, tháng Mão, đầy đủ thành phương Đông, thì lấy Quan để luận. Ngày Mậu, tháng Thìn, đầy đủ thành phương Đông, so sánh Dần Mão hướng về thế lực nào trọng, lấy phân ra Quan hay Sát. Còn lại đều luận giống như vậy.
(7) Như có 2 Mão 1 Tuất, hoặc 2 Dần 1 Hợi, đều là Lục hợp mà Đố hợp vậy. Nhưng mà, Địa chi tàng chứa nhiều Can, Thiên Canganh đua nhau mà gây nên ẩn tàng lẫn tạp; mà Lục Hợp đã thành, không phải do âm dương sinh khắc, cho nên lực lượng đố kỵ, xa không bằng Thiên can đố hợp mới quan trọng vậy.
(8 ), Như Dần Mão Thìn hội phương Đông, nếu trong trụ có 2 Dần, hoặc 2 Mão, hoặc 2 Thìn. Như Hợi Mão Mùi Mộc cục, trong trụ có 2 Hợi, hoặc 2 Mão, hoặc 2 Mùi, đều không lấy Đố hợp mà luận. Mà đầy đủ thì lực hợp gia tăng lên vậy.
(9), Như Dần Mão Thìn hội phương Đông, thấy chữ Hợi là phương Sinh của thần đó, thấy chữ Mùi vốn là phương khắc là Tài, đều không phải là phương Hỗn cục vậy.
(10), Như Hợi Mão Mùi Mộc cục, thấy chữ Dần vốn là đồng khí, thấy chữ Thìn vốn là Tài thần, đều không phải là phương Hỗn cục vậy.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
8. Chi Hình
Địa chi tương hình, là lấy hợp Cục cộng thêm phương hợp lại. Như Hợi Mão Mùi là Mộc cục, cộng thêm phương Hợi Tý Sửu, cho nên Hợi hình Hợi, Mão hình Tý , Mùi hình Sửu . Thân Tý Thìn Thủy cục, cộng thêm phương Dần Mão Thìn, cho nên Thân hình Dần , Tý hình Mão , Thìn hình Thìn . Dần Ngọ Tuất là Hỏa cục, cộng thêm phương Tị Ngọ Mùi, cho nên Dần hình Tị , Ngọ hình Ngọ , Tuất hình Mùi . Tị Dậu Sửu là Kim cục, cộng thêm phương Thân Dậu Tuất, cho nên Tị hình Thân , Dậu hình Dậu , Sửu hình Tuất. Ở trong trừ ra Mùi hình Sửu, Thân hình Dần, gắn liền tương xung ở ngoài, cho nên lấy Dần hình Tị , Tị hình Thân cùng Sửu hình Tuất , Tuất hình Mùi làm Tam hình, Tý Mão là tương hình, Thìn Ngọ Dậu Hợi là tự hình .

a. Phân biệt Chi Hình
(1) Dần hình Tỵ , Tỵ hình Thân , Sửu hình Tuất , Tuất hình Mùi là Tam Hình .
(2) Tý Mão là Tương hình .
(3) Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi là Tự Hình .

b. Ảnh hưởng Chi Hình
Dần hình Tỵ , chính là mộc hỏa tương sinh. Tỵ hình Thân, Tỵ Thân bản chất là Hợp. Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi, đều thuộc đồng loại là thổ. Tý Mão tương hình, lại vừa là thủy tương sinh. Thìn hình Thìn , Ngọ hình Ngọ, Dậu hình Dậu, Hợi hình Hợi, bản Thân là Tự Hình. Ý nghĩa không phải là gây chiến tranh với nhau, cho nên hình cùng xung là khác nhau. Hai chi tương hình, chẳng qua là động mà thôi, không có phân ra thắng bại vậy. Lực họa phúc thì rất nhẹ, một khi gián cách ( có ngăn cách) thì cũng bình thản . Sinh mệnh mà gặp hình thì nắm uy quyền vậy. Tứ trụ vốn là tốt, có gặp phải hình mà nhiều hung họa, tứ trụ vốn là hung, không phải nhất định đều là nguyên nhân gặp phải hình. Phép khảo sát tương hình, hoặc là 3, hoặc là 2, hoặc là 1, các ví dụ đều thiên về lẫn lộn, tạp loạn, mà vừa lại không có lý lẽ chính xác, việc xây dựng nên hệ thống Mệnh học này thì rất là không đủ để mà tin tưởng vậy. Hoặc có đầy đủ các địa chi Sửu Tuất Mùi, Dần Tị Thân mà liền gặp tranh chấp, trong Chi tàng chứa các thần sinh khắc, gây nên quá ở tạp loạn, không phải do tương Hình gây ra mà thôi .

9. Chi Hại

a. Ảnh hưởng của Chi Hại
Địa chi tương hại là do tương hợp mà ra, xung ta hợp thần cho nên gọi là Hại. Như Tí hợp Sửu mà Mùi xung Sửu, cho nên Mùi hại Tí; Sửu hợp Tí mà Ngọ xung Tí, cho nên Ngọ hại Sửu; Dần hợp Hợi mà Tỵ xung Hợi, cho nên Tỵ hại Dần; Mão hợp Tuất mà Thìn xung Tuất, cho nên Thìn hại Mão; Thìn hợp Dậu mà Mão xung Dậu, cho nên Mão hại Thìn; Tỵ hợp Thân mà Dần xung Thân, cho nên Dần hại Tỵ; Ngọ hợp Mùi mà Sửu xung Mùi, cho nên Sửu hại Ngọ; Mùi hợp Ngọ mà Tí xung Ngọ, cho nên Tí hại Mùi; Thân hợp Tỵ mà Hợi xung Tỵ , cho nên Hợi hại Thân , Dậu hợp Thìn mà Tuất xung Thìn, cho nên Tuất hại Dậu; Tuất hợp Mão mà Dậu xung Mão, cho nên Dậu hại Tuất; Hợi hợp Dần mà Thân xung Dần, cho nên Thân hại Hợi. Gộp lại mà tính thì lấy 6 Chi hại 6 Chi, xung thần hợp ta, nhất định hợp thần xung ta vậy .

b. Phân biệt Chi Hại
Mệnh người mà gặp Hại, thì phân ra thành 4 loại ảnh hưởng:
(1) Như Tý Ngọ tương xung , Tý thắng Ngọ bại. Có Sửu hợp Tý hại Ngọ, nếu Tý là Cát thần, Ngọ là Hung thần, thì Sửu hợp Tý vốn làm giảm lực cát. Tuy hại cát , không thể so với xung Ngọ mạnh, vốn là giảm nhẹ lực để trừng trị hung, chính là không có lợi cho Mệnh Cục vậy. Nếu Tý là hung thần, Ngọ là cát thần, thì Sửu hợp Tý, vốn làm giảm lực hung. Tuy là hại Ngọ, không thể so với xung Ngọ mạnh, lực giảm nhẹ gây tổn hại cát, chính là có lợi cho Mệnh Cục vậy. Cho nên, Hại chẳng khác gì là Xung Hợp đều gặp vậy.
(2) Chỉ có 2 Chi tương hại, mà không có xung, thì mệnh cục không có ảnh hưởng nặng.
(3) Hai Chi tương hại, gặp một hợp, lấy hợp luận cát hung.
(4) Hai Chi tương hại, vị trí xa cách, không luận Hại.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
10. Địa chi xung, hợp, hình, hại cùng gặp
Mệnh có địa chi xung hợp hình hại, là lẫn lộn hợp lại cùng gặp. Nếu dụng thần ở tại Thiên can, không cần bàn nhiều. Nếu dụng thần ở tại Địa chi, thì tất nhiên trước tiên lấy lực xung hợp hình hại, cân đo khinh trọng rõ ràng, song sau đó lấy dụng thần cho thỏa đáng, đặc biệt phép lập theo 6 nguyên tắc như sau :

(1) Hình xung hợp hại đều gặp, lấy gần kề là có lực. Như năm Sửu, tháng Tý, ngày Dần, giờ Ngọ; Tý Sửu gần, Tý Ngọ cách xa, lấy Hợp mà không lấy Xung.

(2) Phương hợp lực lớn hơn Cục hợp, thông thường có phương hợp, cục hợp đều gặp, thì lấy phương hợp mà luận; Hợp cục lực lớn hơn Lục Xung, khi Hợp cục, Lục Xung đều gặp thì lấy Hợp cục luận; Lục Xung lực lớn hơn Lục Hợp, khi Lục Hợp và Lục Xung đều gặp, lấy Lục Xung luận; Lục Hợp lực lớn hơn Hình Hại, khi Lục Hợp cùng Hình Hại đêù gặp, lấy Lục Hợp luận.

(3), Hợp cục mà đầy đủ cả 3 chi, vượng mà gặp xung gần kề, lấy Xung luận. vượng mà gặp xung cách xa, lấy Hợp cục luận. Cục hợp mà chỉ có 2 Chi, thì cũng như vậy.

(4) Hợp cục mà đủ 3 Chi, không phải Chi vượng gặp xung, tuy gần kề cũng không lấy Xung luận. Hợp cục mà chỉ có 2 Chi, thì cũng vậy.

(5) Phương hợp gặp xung, lấy Hợp không lấy xung.

(6) Chú trọng lực lượng bản thân, như năm Sửu, tháng Tý, ngày Ngọ, ở lý lẽ thì lấy lực Lục Xung lớn hơn lực Lục Hợp, ứng với lấy Tí Ngọ xung, không lấy Tí Sửu hợp. Song, nếu trong mệnh cục Sửu thổ có lực, đã chiếm ưu thế thì lấy Hợp mà không lấy xung vậy.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
11. Ví dụ Hình, Xung, Khắc, Hại
Hình, xung khắc, hợp, hại, biến hóa rất nhiều, một số ví dụ điển hình như sau:

Ất Sửu /Canh Thìn/ Ất Hợi /Mậu Dần
(Thiên can) Tháng Canh hợp năm Ất, lại vừa hợp ngày Ất. Tình cảm không chỉ có một. (Địa chi) Dần Hợp là Lục hợp.

Ất Sửu /Ất Dậu /Canh Ngọ/ Mậu Dần
(Thiên can) tháng Ất hợp ngày Canh. (Địa chi) Dậu Sửu kim cục, Dần Ngọ hỏa cục.

Canh Thân/ Ất Dậu/ Ất Mão/ Đinh Sửu
( Thiên can ) năm Canh hợp tháng Ất . ( Địa chi ) Mão Dậu xung , Dậu Sửu xa cách vị trí mà không hợp .

Canh Ngọ/ Ất Dậu/ Canh Thìn /Kỷ Mão
( Thiên can ) tháng Ất hợp năm Canh, lại vừa hợp ngày Canh, kỳ tình không chỉ có một (bất chuyên). ( Địa chi ) Thìn Dậu hợp, Mão Thìn khuyết Dần, cho nên không lấy phương hợp. Mão Dậu ngăn cách bởi Thìn, cho nên không có khả năng xung .

Bính Ngọ/ Canh Dần/ Kỷ Mão/ Đinh Sửu
( Thiên can ) Bính Canh tương khắc mà Canh bại , lấy khắc không lấy hợp để luận. ( Địa chi ) Dần Ngọ hợp, thành bán hỏa cục. Dần Mão khuyết Thìn, không lấy phương hợp để luận.

Giáp Ngọ/ Canh Ngọ/ Ất Sửu/ Đinh Sửu
( Thiên can ) Canh Giáp tương khắc mà Giáp bại , lấy hợp mà không lấy khắc . ( Địa chi ) 2 Ngọ tự hình, tháng Ngọ ngày Sửu biến thành tương hại, song tất cả ở mệnh cục không ảnh hưởng .

Canh Ngọ/ Nhâm Ngọ/ Giáp Thân/ Giáp Tý
(Thiên can) Canh Nhâm kề nhau, Canh Giáp ngăn cách, lấy sinh để luận, không lấy khắc luận. (Địa chi) nhị Ngọ tự hình, Thân Tý hợp thành bán thủy cục .

Bính Ngọ/ Canh Dần /Giáp Thân/ Ất Sửu
(Thiên can) Bính Canh đầu tiên là khắc, Canh Giáp không khắc. (Địa chi) Dần mộc đắc lệnh, Dần lại nghiêng về hợp với Ngọ bán hợp hỏa cục, cho nên Thân không có khả năng xung Dần .

Ất Mùi /Canh Thìn/ Giáp Dần/ Ất Sửu
(Thiên can) Ất Canh đầu tiên hợp , Canh Giáp không có khắc. (Địa chi) Sửu Mùi xa cách mà không có xung, Dần Thìn khuyết Mão mà không phải phương hợp .

Ất Hợi/ Kỷ Mão /Tân Mùi/ Đinh Dậu
(Thiên can) Ất Kỷ tương khắc. Đinh Tân tương khắc. (Địa chi) Hợi Mão Mùi tam hợp. Dậu tuy xung Mão, do không gần nhau mà không lấy xung luận .

Ất Hợi/ Quý Mùi/ Kỷ Mão/ Quý Dậu
(Thiên can) Kỷ Quý tương khắc, Ất Kỷ xa cách mà không khắc. (Địa chi) Mão Dậu xung mà cận kề nhau nên lực xung mạnh, cho nên Hợi Mão Mùi là tam hợp Mộc cục, do xung mà lực lượng giảm nhẹ .

Giáp Tý /Đinh Sửu /Nhâm Ngọ/ Giáp Thìn
(Thiên can) Đinh Nhâm tương hợp. (Địa chi) Tý Sửu hợp gần kề nhau, Tý Ngọ ngăn cách bởi Sửu, lấy hợp để luận mà không lấy xung, Sửu Ngọ tuy Hại, nhưng không ảnh hưởng lớn.

Bính Thìn/ Canh Tý /Nhâm Thân/ Kỷ Dậu
(Thiên can) Bính Canh tương khắc. (Địa chi) Thân Tý Thìn tam hợp thủy cục , Thân Dậu khuyết Tuất, không lấy phương hợp để luận.

Bính Thìn/ Bính Thân/ Nhâm Tý/ Tân Sửu
(Thiên can) Bính Nhâm tương khắc, Bính Tân ngăn cách xa không có hợp. (Địa chi) Thân Tý Thìn tam hợp Thủy cục. Tý Sửu tuy hợp, nhưng bởi vì lực không bằng tam hợp, cho nên không thành lập.

Bính Tý/ Tân Sửu/ Ất Mùi /Nhâm Ngọ
(Thiên can) Bính Tân tương hợp. (Địa chi) Lực lục xung lớn hơn lục hợp cho nên lấy Sửu Mùi xung luận, không lấy Tý Sửu cùng Ngọ Mùi hợp để luận .

Bính Tý/ Tân Sửu/ Giáp Ngọ/ Tân Mùi
(Thiên can) Bính Tân tương hợp. (Địa Chi) lực Lục Hại nhỏ hơn Lục Hợp, cho nên lấy Tý Sửu hợp, Ngọ Mùi hợp, không lấy Sửu Ngọ hại để luận.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
12. Các Thần Sát

(1) Thiên Nguyệt Đức
* Cấu thành Thiên Nguyệt Đức
(1) Thiên Đức : Tháng 1 ngày Đinh, tháng 3 ngày Nhâm, tháng 4 ngày Tân, tháng 6 ngày Giáp, tháng 7 ngày Quý, tháng 9 ngày Bính, tháng 10 ngày Ất, tháng 12 ngày Canh. Tháng 2,5,8,11 không có Thiên Đức .
(2) Nguyệt Đức: Tháng Hợi, tháng Mão, tháng Mùi gặp ngày Giáp; Tháng Dần, Ngọ Tuất gặp ngày Bính; Tháng Tị, Dậu, Sửu gặp ngày Canh; Tháng Thân, Tý, Thìn gặp ngày Nhâm.
* Thiên Nguyệt Đức là Cát Thần
(1) Nhân mệnh Nhật can gặp Thiên Đức hoặc Nguyệt Đức. Mệnh tốt thì tăng thêm tốt; Mệnh hung thì giảm hung.
(2) Nhân mệnh Nhật can gặp Thiên Nguyệt nhị Đức ( như ngày Nhâm gặp tháng Thìn), càng tăng thêm tốt mà giảm hung.
(3) Nhân mệnh Nhật can vừa gặp Thiên Đức hoặc Nguyệt Đức, nếu có Can khác tiếp tục gặp Thiên Nguyệt Đức, là Cát thần thì lực phúc ở vị trí thịnh vượng, là Hung thần thì hung bạo tăng thêm, như:
Mậu Thìn/ Bính Thìn/ Nhâm Ngọ/ Nhâm Dần
Nhâm sinh tháng Thìn, Thiên Nguyệt Đức đều có, hỏa thổ như rừng, chủ nhược quá mức, may mắn có giờ Nhâm bang phù. Mà Can giờ là Nhâm, đã là Cát thần, lại vừa có Thiên Nguyệt Đức, thì mệnh này phúc lực bội dày đương nhiên vậy.
Tân Mùi/ Bính Dần/ Đinh Tị /Canh Tý
Đinh sinh tháng Dần là gặp Thiên Đức, Mộc Hỏa thái vượng là bệnh, tuy có Bính hỏa khắc Canh mà thắng, Hung thần, may mắn Bính ở tháng Dần là Thiên Nguyệt Đức đều gặp, cũng có thể làm giảm kỳ hung vậy .
(4) Thiên Nguyệt Đức mà bản thân bị khắc, không lấy Cát luận.

(2) Dịch Mã
* Cấu thành Dịch mả
Năm Hợi Mão Mùi gặp Tị; năm Dần Ngọ Tuất gặp Thân; năm Thân Tý Thìn gặp Dần; Năm Tị Dậu Sửu gặp Hợi .
* Ảnh hưởng của sao Dịch Mã
(1) Trong mệnh Cát thần là Mã, lớn thì mừng gặp nhiều thay đổi, nhỏ thì thuận theo hướng có lợi.
(2) Trong Mệnh Mã là Hung thần, lớn thì bôn tẩu gặp nhiều tai nạn, nhỏ thì gặp nhiều lao lực vất vã.
(3) Dịch Mã gặp Xung, giống như Ngựa gia tăng thêm roi vọt, Cát thì càng Cát, Hung thì càng Hung.
(4) Dịch Mã gặp Hợp, chẳng khác gì bị trói buộc chân cẳng, Cát Hung đều là bị trói buộc chặc mà việc phát đạt bị đình thệ, chậm chạp.
(5) Nhật can tọa Mã, lật đật mà nhiều động.

(3) Quý nhân
* Cấu thành Quý Nhân
Ngày Giáp gặp Sửu hoặc Mùi , ngày Ất gặp Tý hoặc Thân, ngày Bính gặp Dậu hoặc Hợi, ngày Đinh gặp Dậu hoặc Hợi, ngày Mậu gặp Sửu hoặc Mùi, ngày Kỷ gặp Tý Thân, ngày Canh gặp Sửu hoặc Mùi, ngày Tân gặp Dần hoặc Ngọ, ngày Nhâm gặp Mão hoặc Tị, ngày Quý gặp Mão hoặc Tị .
* Quý Nhân là Cát Thần
(1) Trợ giúp Tốt giải Hung.
(2) Thông minh.
(3) Dễ dàng được người tin tưởng cùng hỗ trợ giúp đỡ.
* Quý Nhân là Kỵ
(1) Kỵ xung hoặc hợp.
(2) Kỵ lạc vào Không Vong.

(4) Văn xương
* Cấu thành Văn Xương
Ngày Giáp gặp Tị , ngày Ất gặp Ngọ , ngày Bính gặp Thân , ngày Đinh gặp Dậu , ngày Mậu gặp Thân ,ngày Kỷ gặp Dậu , ngày Canh gặp Hợi , ngày Tân gặp Tý , ngày Nhâm gặp Dần , ngày Quý gặp Mão .
* Văn Xương Cát thần
(1) Gặp hung hóa cát.
(2) Trí tuệ thông minh hơn người.
(3) Là người có tài về Văn chương.
* Văn Xương là Kỵ
(1) Kỵ bị xung, bị hợp.
(2) Kỵ không vong.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
(5) Tuần Không

* Cấu thành Tuần Không
+ Giáp Tý , Ất Sửu , Bính Dần , Đinh Mão , Mậu Thìn , Kỷ Tị , Canh Ngọ , Tân Mùi , Nhâm Thân , Quý Dậu , 10 ngày này là thuộc tuần Giáp Tý. Phàm sinh ra trong 10 ngày này , nếu gặp Tuất hoặc Hợi , Tuất Hợi đều thuộc Tuần Không .
+ Giáp Tuất , Ất Hợi , Bính Tý , Đinh Sửu , Mậu Dần , Kỷ Mão , Canh Thìn , Tân Tị , Nhâm Ngọ , Quý Mùi , 10 ngày này thuộc tuần Giáp Tuất. Phàm sinh 10 ngày này, địa chi gặp Thân hoặc Dậu , Thân Dậu đều thuộc Tuần Không .
+ Giáp Thân , Ất Dậu , Bính Tuất , Đinh Hợi , Mậu Tý , Kỷ Sửu , Canh Dần , Tân Mão , Nhâm Thìn , Quý Tị , 10 ngày này đều thuộc Tuần Giáp Thân. Phàm sinh 10 ngày này, địa chi gặp Ngọ hoặc gặp Mùi , Ngọ Mùi đều thuộc Tuần Không .
+ Giáp Ngọ , Ất Mùi , Bính Thân , Đinh Dậu , Mậu Tuất , Kỷ Hợi , Canh Tý , Tân Sửu , Nhâm Dần , Quý Mão , 10 ngày này đều thuộc Tuần Giáp Ngọ. Phàm sinh trong 10 ngày này , địa chi gặp Thìn hoặc gặp Tị , Thìn Tị đều thuộc Tuần Không.
+ Giáp Thìn , Ất Tị , Bính Ngọ , Đinh Mùi , Mậu Thân , Kỷ Dậu , Canh Tuất , Tân Hợi , Nhâm Tý , Quý Sửu , 10 ngày này đều thuộc Tuần Giáp Thìn. Phàm sinh 10 ngày này, địa chi gặp Dần hoặc gặp Mão , Dần Mão đều thuộc Tuần Không .
+ Giáp Dần , Ất Mão , Bính Thìn , Đinh Tị , Mậu Ngọ , Kỷ Mùi , Canh Thân , Tân Dậu , Nhâm Tuất , Quý Hợi , 10 ngày này là Tuần Giáp Dần. Phàm sinh trong 10 ngày này, địa chi gặp Tý hoặc Sửu , Tý Sửu đều thuộc Tuần Không.

* Nguyên nhân tạo ra Tuần Không
10 Thiên can phối 12 Địa Chi, thông thường trong 10 ngày thì có 2 địa chi bị bỏ sót. Như ngày Giáp Tý đến ngày Quý Dậu, 2 chi Tuất Hợi không tồn tại bên trong. Cho nên trong tuần Giáp Tý thì Tuất Hợi là Tuần Không . Thừa nhưng bị khước từ.

* Ảnh hưởng của Tuần Không
(1) Tuần Không gặp xung thì lực xung giảm nhẹ.
(2) Tuần Không gặp Hình, thì lực Hình giảm nhẹ.
(3) Tuần Không gặp hợp , thì lực hợp giảm nhẹ .
(4) Tuần Không gặp Hại , thì lực Hại giảm nhẹ .
(5) Cát thần là Tuần Không , kỳ Cát hư mà không có thật .
(6) Hung thần là Tuần Không , kỳ Hung hư mà không có thật .
(7) Vận tốt hay năm tốt là Tuần Không thì lực tốt sẽ giảm đi.
(8 ) Vận hung hay năm hung là Tuần Không thì lực hung sẽ giảm đi.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
13. Nữ mệnh dâm tiện
- Nhật chủ vượng, Quan tinh ít, không có Tài tinh, Nhật chủ đủ để đối địch Quan tinh.
- Nhật chủ vượng , Quan tinh ít , Thương Thực nặng , không có Tài tinh , nhật chủ đủ để bắt nạt Quan tinh.
- Nhật chủ vượng , Quan tinh yếu , khí nhật chủ sinh trợ thần khác mà khử Quan tinh.
- Nhật chủ vượng, Quan tinh yếu, khí Quan tinh dựa vào thế lực của Nhật chủ.
- Nhật chủ vượng, không có Tài tinh, Quan tinh khinh, Thực Thương nặng, Quan tinh không có chỗ dựa.
- Nhật chủ vượng, Quan không có gốc, Nhật chủ không quan tâm đến Quan tinh, hợp Tài tinh mà khử mất Quan tinh.
- Nhật chủ yếu, Thực Thương nặng, Ấn thụ nhẹ .
- Nhật chủ yếu, Thực Thương nặng, không có Ấn thụ, có Tài tinh.
- Thực Thương nắm quyền, Tài Quan thất thế.
- Không có Quan Tài sinh, Tỉ Kiếp sinh Thực Thương.
- Cục đầy Thương Quan mà không có Tài tinh.
- Cục đầy Quan tinh mà không có Ấn.
- Cục đầy Tỷ Kiếp mà không có Thực Thương.
- Cục đầy Ấn thụ mà không có Tài.

14. Tật bệnh
Hành mệnh luận Tật Bệnh phù hợp lấy ngũ hành phối hợp với ngũ tạng . Mộc là Can, kim là Phế, thủy là Thận, hỏa là Tim, thổ là Tì. Trong Mệnh mộc thái quá hoặc bất cập ( nhiều quá hoặc không đủ) Can tất có bệnh. Kim thái quá hoặc bất cập , Phế tất có bệnh. Thủy thái quá hoặc bất cập, Thận tất có bệnh. Hỏa thái quá hoặc bất cập, Tim tất có bệnh. Thổ thái quá hoặc bất cập, Tì tất có bệnh. Cho nên ngũ hành quý trung hòa, trung hòa thì không có bệnh tật. Gọi là ngũ hành trung hòa, trái lại sinh mà không có khắc, đầy đủ mà vị trí không có khuyết, chính là quý ở kỳ tiết khí vượng thần, tả và hữu dư thừa vậy. Chính có dư thừa mà vượng thần gây ra bệnh, bất túc không đủ thì thân suy nhược mà được ích lợi vậy. Nếu cưỡng chế Vượng thần, ít không thể địch nổi đông, gây ra tính khí phẫn nộ, vượng thần không thể tổn hại, nếu trái lại thì vượng thần bị tổn thương. Phàm là Vượng thần thái quá thì phù hợp được tiết, không có thái quá thì phương phù hợp khắc chế vậy.

15. Thê Tài
Tài tức là vợ, có thể thông luận. Song, giàu có mà vợ xấu, hoặc vợ hiền mà nghèo, tại sao vậy? Là do hoặc là Tài đắc dụng mà Nhật Chi là Kỵ thần; hoặc Tài không đủ mà Nhật chi là Hỉ thần. Sao vợ cùng cung vợ, khó có thể lấy cả 2 cùng tốt được vậy.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
16. Tính tình
- Mộc chủ Nhân, Hỏa chủ Lễ, Kim chủ Nghĩa, Thủy chủ Trí, Thổ chủ Tín . Trong Bát tự ngũ hành không định hẳn, trung hòa thuần túy thì có trắc ẩn khiêm nhượng tình cảm cân nhắc. Nếu thiên khô hỗn trọc, thái quá bất cập, thì có chuyện lôi thôi, quậy phá, tính tình kiêu ngạo vậy.
- Hỏa nhiều không có chế, nóng tính mà không có kiềm chế, bao dung. Thủy nhiều không có chế, thông minh mà ý chí không kiên định, cũng có thể gây ra hiếu động. Mộc nhiều mà không có chế, tình nặng mà nhân hậu. Kim nhiều mà không có chế, có năng lực cao mà nhạy cảm. Thổ nhiều mà không có chế, có hậu mà thích yên tĩnh.

1. Nhật can là kim: Trong bát tự có 3 loại Vượng tướng, Thái quá, Bất cập. Và kim nhiều, mộc nhiều, hỏa nhiều, thổ nhiều, tất cả lại vừa không đồng nhất. Tính tình cộng lại kể ra có 8 loại, phân ra như ở dưới đây:
(1 ) Vượng tướng: là người thanh cao, nghĩa trọng, thân thể cường tráng, uy nghiêm, cương quyết mãnh liệt, khi vào sự việc thì tính quyết đoán.
(2) Thái quá: Dũng cảm nhưng không có nhiều mưu mô, nhiều dục vọng, mất tính bền vững, khắt khe, bên trong thâm độc, thích dâm dục, hiếu sát.
(3) Bất cập: Tâm tư sâu sắc, ít quyết đoán, sự việc bị nhiều áp chế, tuy có tình nghĩa song sự việc không có chung thủy trước sau.
(4) Kim nhiều: Cương trực, dũng cảm , gặp nghĩa thì làm quá không biết lễ nghĩa, hiếu thắng.
(5) Mộc nhiều: Là người biết phân rõ trắng đen, phải trái, ngay thẳng chính trực, bao gồm cả trí đức, dễ ngã lòng trước bạn bè.
(6) Hỏa nhiều: Có tài hùng biện, lợi hại, nhiều lễ nghi nhưng ít nghĩa khí, ngoài mặt thì khoan hào nhưng tâm thì bỉ lận ( bủn xỉn, keo kiệt, gian trá)
(7) Thủy nhiều: Mưu kế tính toán, không thắng thì là người không có ân huệ, khi lâmj sự thì ba phải ( bên nào mạnh thì theo).
(8 ) Thổ nhiều: Không có trọng tâm trở thành không có tài ăn nói, tâm hiền lành, hay giả vờ ngu ngốc, nhưng bên trong thì lại đa nghi.

2. Nhật can là mộc: Trong bát tự có 3 loại Vượng tướng, Thái quá, Bất cập. Và kim nhiều, mộc nhiều, hỏa nhiều, thổ nhiều, tất cả lại vừa không đồng nhất. Tính tình cộng lại kể ra có 8 loại, phân ra như ở dưới đây:
(1) Vượng tướng: Người nhân từ, minh mẫn, hiền hậu, tâm có nhiều trắc ẩn, trí tuệ sáng suốt thông minh, hình dáng khảng khái hào hiệp.
(2) Thái quá: Tính tình ngoan cố khó lay chuyển, tâm hay thiên lệch, ghen ghét, không có đức, hay tính kế phá hoại, ôm ấp những hoài bảo vụn vặt, phá phách.
(3) Bất cập: Tính cố chấp, bên trong mềm yếu, công việc trì trệ, chung quy là người bủn xỉn, có hoài bảo bất chánh, biển lận, thấp hèn.
(4) Kim nhiều: Khắc chế, tiều tụy, mà không dứt khoát, đông mà sinh, yên tĩnh mà hối hận, nghĩa cử không bình thường.
(5) Mộc nhiều: Tính tình nhu mì nhưng phù phiếm kết giao phân biệt trình tự phải trái, họa nhiều nhưng không thật thông minh, bề ngoài có vẽ thanh khiết.
(6) Hỏa nhiều: Thông minh, học tốt, không thân thiện, quang minh, cho nên dễ sai lầm trong việc làm, tính quyết đoán.
(7) Thủy nhiều: Phiêu lưu không có xác định, lời nói trong cách xử sự không giữ lời, chạy theo thời thế, tính quanh co khúc khuỷu.
(8 ) Thổ nhiều: Hay khuôn phép, quá tự tin, không bôn ba, giấu vẻ mềm yếu, giữ kín lợi nói mạnh mẽ, nhất định là người Giám thị.

3. Nhật can là thủy : Trong bát tự có 3 loại Vượng tướng, Thái quá, Bất cập. Và kim nhiều, mộc nhiều, hỏa nhiều, thổ nhiều, tất cả lại vừa không đồng nhất. Tính tình cộng lại kể ra có 8 loại, phân ra như ở dưới đây:
(1) Vượng tướng: trí tuệ thông minh, ý nghĩ sâu xa, mưu kế thâm sâu, giữ kín bí mật, học thức thông minh hơn người.
(2) Thái quá: Vốn không phải là hiếu động, phiêu đãng, đa dâm, chân tính giả dối, quỷ quyệt, tàn bạo không có chỗ dừng.
(3) Bất cập: Phản phúc, bất thường, nhát gan, không có mưu lược, thuộc loại trí thức vô lại, bế tắc.
(4) Kim nhiều: Hảo nghĩa không có thực, chí phần lớn là đa dâm, tính ỷ lại, nhờ cậy cấp trên giúp đỡ.
(5) Mộc nhiều: Lưu động không ngừng, câu chấp, chí hướng hay thay đổi, mềm mỏng, khi lâm sự thì lan man, tản mạn, tằn tiện quá đáng, đánh mất trung hiếu.
(6) Hỏa nhiều: Sùng bái lễ nghi, nhiều ưu phiền, đoạn hậu, lật đật, ít thành công.
(7) Thủy nhiều: ẩn nấp, trầm ngâm, tiểu xao, nhiều quyền biến, dạng nảy mầm mà chẳng ra hoa, tiếng tăm về tình ái quá mức.
(8 ) Thổ nhiều: Thâm trầm tiềm ẩn, không thông, dấu kín, ở ngoài thì biểu lộ ngu đần, bên trong thì tính toán vụ lợi , nhẫn nại mà nhiều hối hận, tín nghĩa mà không có tính quyết đoán.

4. Nhật can là hỏa: Trong bát tự có 3 loại Vượng tướng, Thái quá, Bất cập. Và kim nhiều, mộc nhiều, hỏa nhiều, thổ nhiều, tất cả lại vừa không đồng nhất. Tính tình cộng lại kể ra có 8 loại, phân ra như ở dưới đây:
(1) Vượng tướng: Tính nhanh nhẹn, phân biệt rõ ràng, văn chương minh mẫn, việc làm tinh hoa, học tập khiếm khuyết không có đủ sức.
(2) Thái quá: Tính tình mạnh mẽ, khốc liệt hay đả thương sự vật, tính cố chấp, táo bạo, hướng về vui vẽ nhưng tối thì khóc thầm mỗi lần gặp nguy hiểm.
(3) Bất cập: Sinh tính xảo quyệt, nịnh hót, cẩn thận, sợ sệt, thủ lễ, có ít biệt tài, gặp đại sự thì không quyết đoán.
(4) Kim nhiều: Chí hướng không tự mình hòa hợp được mà cương trực lễ nghĩa không trung trực, gây ra nhiều chê bai.
(5) Mộc nhiều: Tính tự kiêu, tự đại cậy vào trí thông minh, chí hướng yên tĩnh hèn nhát, tính bắt chước nhanh, nhưng không phải là sáng tạo.
(6) Hỏa nhiều: Sùng bái lễ nghĩa, rối loạn thị giác, ở ngoài thì hồ đồ, bên trong thích rực rỡ, mà tằn tiện không thể thành đạt nhanh.
(7) Thủy nhiều: Là đạo đức không quân bình, giả dối mà không lễ nghĩa, nhiều thay đổi, nhiều gian nan, mưu kế thâm sâu, phản trắc hảm hại người khác.
(8 ) Thổ nhiều: Dùng thâm trầm bí mật, lợi hại, can đảm, lời nói trong sáng nhưng hành động mờ ám, câu chấp mà không thay đổi.

5. Nhật can là thổ: Trong bát tự có 3 loại Vượng tướng, Thái quá, Bất cập. Và kim nhiều, mộc nhiều, hỏa nhiều, thổ nhiều, tất cả lại vừa không đồng nhất. Tính tình cộng lại kể ra có 8 loại, phân ra như ở dưới đây:
(1) Vượng tướng: Dốc lòng tin tưởng thần phật, không cần ước tình có thật , trung hiếu đến nỗi thành cẩn thận có thể quý trọng.
(2) Thái quá: tính câu nệ, bất chấp mà không che dấu, không thấy ngu dốt mà ương ngạnh bảo thủ, hạn hẹp khó dùng.
(3) Bất cập: Không được tình cảm mọi người, không thông lý sự, ngoan cố, độc đoán, trái lại làm ác ngông cuồng không kiêng sợ mà vẫn làm trái.
(4) Kim nhiều: Tín nghĩa tốt, cương ngạnh mà nhiều nóng nảy, không thể giữ trọng, xử sự không có tha thứ.
(5) Mộc nhiều: Hình dáng lao lực, chí hướng thì dùng lẫn lộn, điên cuồng theo dùng mềm mỏng, đi ngược lại chữ tín, không dứt khoát trong tình cảm.
(6) Hỏa nhiều: Thi hành lẽ phải mà quên người thân, bên ngoài thiếu đoạn tình, xa xỉ, tằn tiện, mất trung, miệng thì nói lễ nghĩa ân huệ.
(7) Thủy nhiều: Tham lam công việc, tiến lên tốt, thông thường làm theo như cái máy, chí hướng làm thiên lệch nếu không có mê muội làm theo cái ác.
(8 ) Thổ nhiều: Có hậu trọng, ẩn dấu bí mật, thủ tín, có dũng khí, dễ bị ân oán mà gây ra chê trách.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
Tính tình của Thập thần
- Chánh Ấn là dụng thần, nhân từ đoan phương, duy Chính Ấn quá nhiều, tầm thường ít thành công.
- Kiêu thần là dụng thần, theo đuổi học tập thông suốt, duy Kiêu Thần quá nhiều, tham lam, bỉ lận, thấp hèn .
- Chánh Quan là dụng thầ , quang minh chính trực, duy Chánh Quan quá nhiều, ý chí không kiên định.
- Thất Sát là dụng thần, hào hiệp hiếu thắng , duy Thất Sát quá nhiều, người nhục chí không phấn chấn.
- Thương Quan là dụng thần, anh minh lợi hại, duy Thương Quan quá nhiều,thì kiêu ngạo, cố chấp không nghe ai cả.
- Thực thần là dụng thần, ôn hậu, cung kính, lương thiện , duy Thực Thần quá nhiều, cổ hủ, cố chấp.
- Tỉ kiên là dụng thần, ổn định, hòa bình, duy Tỉ kiên quá nhiều, tính quái gở, khó hòa hợp.
- Kiếp Tài là dụng thần, nhanh nhẹn, khéo léo, duy Kiếp Tài quá nhiều , quá ham chơi mà nghiện ngập .
- Chánh Tài là dụng thần, siêng năng, tiết kiệm , duy Chánh Tài quá nhiều, hèn yếu không có năng lực.
- Khúc trực cách , nhân hậu .
- Giá sắc cách , từ thiện ,
- Tòng Cách cách , lợi hại.
- Nhuận hạ cách , năng động .
- Viêm thượng cách , thẳng thắng, phóng khoáng .
- Tòng Tài , Tòng Sát , Tòng Nhi tuân thủ, hiền lành .
- Tòng vượng , Tòng Cường các loại , cương kiện .
- Hóa khí cách , trí tuệ .

* Bát tự có thân cường ( mạnh): Có ức chế hoặc không có ức chế.
Tính tình đặc biệt, tức là phân biệt làm 2:
(1) Bát tự thân cường mà có ức chế, đặc điềm tính tình là:
Bản tính minh bạch, thông suốt, độ lượng, hành sự theo lẽ phải, gặp sự việc đạo tuyệt luôn luôn vui vẽ, đều thi hành tốt, đa tình đa nghĩa, không sợ, không nghi ngờ.
(2) Bát tự thân cường mà không có ức chế, đặc diểm tính tình là:
Hiếu chiến, tàn bạo, tính khí bất thường, không tự kiềm chế, mặc dù nguy vong, gành ác mà coi thường thiện, lấy mạnh mà hiếp yếu.

* Bát tự thân nhược, có phù hoặc không có phù.
Đặc biệt về tính tình có phân ra làm 2:
(1) Thân nhược có phù trợ:
Tính tiết kiệm, hạn chế, không làm mất trật tự, lo nghĩ chặc chẽ, không đánh mất cơ hội, không hòa hợp, ít gặp mặt, nhiều nghi kỵ, câu nệ lễ tiết, lời nói đi đôi với hành động, dáng mạo trang sức chỉnh tề.
(2) Thân nhược không có phù trợ:
Tà dâm thiếu suy nghĩ, câu nệ cố chấp khó lay chuyển, khoe khong, kiêu căng quái dị. Nhiều thị phi, thiếu chính xác, suy sụp vì tình. Gây ra sự việc không chấm dứt.
Xem tính tình nhiều phép dư thừa, lại vừa không phải học lý lẽ mà từ kinh nghiệm dân gian hợp thành, khó mà chính xác, cần nghiên cứu kỹ lưỡng. Cách nói khó mà diễn đạt truyền thụ, chính là cần phải linh động mà xem, không thể câu nệ vậy. Tường thuật ở trên, không có nêu các ví dụ cụ thể, cần phải nghiệm chứng nhiều.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
17. Sự nghiệp
- Thương quan thương tận , hoặc có Sát có Nhận . Hoặc Sát Ấn tương sinh , phù hợp với võ bị ( Quân ngũ) . Thương Thực sinh Tài , hoặc thân Tài lưỡng đình , phù hợp nghiêng về mua bán . Thực Thần thổ tú , hoặc mang theo Văn Xương , phù hợp Văn học . Chánh Quan thanh thuần , hoặc Quan Ấn tương sinh , phù hợp chính trị . Thân trọng Tài khinh , phù hợp nghề công trình xây dựng . Kiếp Tỉ thành đàn , phù hợp nghề nghiệp tự do, khi nhàn rỗi tìm lợi. Tài Quan đều đẹp, phù hợp làm nghề Tài chính .
- Tài Quan có lực , nhật chủ mạnh, sáng tỏ , có thể tự lập làm chủ. Thân vượng không có chỗ dựa , hoặc thân nhược không có trợ giúp, chỉ có phù hợp dựa vào người khác . Bát tự thiếu xung thiếu hợp , sự nghiệp đắc thành chỉ có một. Nhiều xung nhiều hợp , thì quanh năm biến đổi di dời, lật đật mà không thành công.
- Ngũ hành cần thủy , hoặc mệnh có Dịch Mã , phù hợp sự nghiệp lưu động, không cần chức vụ . Ngũ hành cần hỏa hoặc cần kim , phù hợp gần công xưởng cơ giới các loại. Ngũ hành cần mộc hoặc cần thổ . Thì phù hợp nghề nông lâm các loại, cố định nghề nông lâm .
- Mệnh có ngũ hành thiên khô ( không quân bình), sự nghiệp gặp nhiều phong ba lên xuống, sự nghiệp có lúc thuận lợi mà cũng có lúc bất thuận , mệnh có ngũ hành quân bình, đại để sự nghiệp bình ổn , ít thăng trầm .
- Bát tự Bệnh nặng, Dược nhẹ . Mọi việc làm quá sức , phí lực mà không có kế hoạch tốt. Bát tự bệnh Dược cùng hỗ trợ cho nhau , sự việc ít khi biến động, thành công nhiều mà ít tốn sức lực.

Xem sự nghiệp, phép không cậu nệ. Lấy tường thuật ở trên, cần đưa thêm nhiều ví dụ để hiểu. Càng có tính tình, hoàn cảnh quan hệ, không thể câu nệ phán đoán, chính là Hoạt pháp ( phép xem linh động). Chính là do tâm ý khó có thể hình dung vậy.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
18. Quan Sát cùng gặp

* Ảnh hưởng khi Quan Sát cùng gặp
(1) Nhật chủ Hỉ khắc, Quan Sát cùng gặp, cát lực gia tăng .
( 2 ) Nhật chủ kỵ khắc , Quan Sát cùng gặp , lực Hung càng mạnh .
( 3 ) Ứng dụng Chánh Quan gặp hỗn tạp , bát tự không có thanh , chủ gặp nhiều cọ sát tổn thất .
( 4 ) Ứng dụng Thất Sát gặp Quan hỗn tạp , mệnh cục rối loạn, cũng là chủ bôn ba .
( 5 ) Dụng Quan mà Sát hỗn tạp, may mắn có thần khứ Sát, hung mà không có hung .
( 6 ) Dụng Sát mà hỗn tạp Quan, may mắn có thần khứ Quan , hung mà không hung .
( 7 ) Dụng Quan mà Sát hỗn tạp, đều không có thần khứ Sát, hung không thể không gặp .
( 8 ) Dụng Sát mà có Quan hỗn tạp, đều không có thần khứ Quan, cũng lấy Hung luận

* Hỉ Kỵ khi Quan Sát cùng gặp
( 1) Thân nhược có Ấn , hỉ Quan Sát cùng gặp .
( 2 ) Thân cường có Tài , hỉ Quan Sát cùng gặp .
( 3) Thân nhược không có Ấn , kỵ Quan Sát cùng gặp .
( 4) Thân cường có Thương Thực mà không có Tài , kỵ Quan Sát cùng gặp.
( 5 ) Bát tự kỵ Quan , có Thương Quan chế , kỵ lại gặp Thất Sát .
( 6 ) Bát tự kỵ Sát , may mắn có Thực chế , kỵ lại gặp Chánh Quan .

* Khứ, Lưu khi gặp Quan Sát
( 1 ) Quan Sát cùng gặp, sợ nhất là kỳ hỗn tạp, trước tiên cần phải khứ bỏ , một chữ khứ đi, còn một chữ thì lưu lại .
( 2) Quan Sát cùng gặp, yêu thích kỳ hỗ tương hợp trợ giúp, không nên vừa khứ vừa lưu , mà chờ kỳ tự nhiên đến vậy .
( 3) Quan Sát cùng gặp, chỉ có Thực thần . Khứ Sát mà lưu Quan .
( 4 ) Quan Sát cùng gặp, chỉ có Thương Quan , khứ Quan mà lưu Sát .
( 5 ) Quan Sát cùng gặp, Thực Thương cũng cùng gặp, Quan Sát đều có thể khứ (mất đi, không còn) sạch sẽ.
( 6 ) Như ngày Giáp đều gặp Tân Quan Canh Sát , vừa có Bính hỏa hợp Tân , vốn là hợp Quan lưu Sát . Hợp là trói buộc chân vậy, trói buộc cũng là khứ mất đi vậy .
( 7 ) Như ngày Giáp mà thấu Canh kim Thất Sát , lại gặp Dậu kim , vốn là Canh Sát quá vượng , không thể lấy Quan Sát hỗn tạp , không nên bàn kỳ khứ lưu vậy.
( 8 ) Ngày Giáp Ất gặp Thân Dậu , lấy Tị khứ Thân , hoặc lấy Dần khứ Thân , lấy Ngọ khứ Dậu , hoặc lấy Mão khứ Dậu . Ngày Bính Đinh gặp Hợi Tý , lấy Thìn Tuất khứ Hợi , hoặc lấy Tị khứ Hợi , lấy Sửu Mùi khứ Tý , hoặc lấy Ngọ khứ Tý . Ngày Mậu Kỷ gặp Dần Mão , lấy Thân khứ Dần , lấy Dậu khứ Mão .Ngày Canh Tân gặp Tị Ngọ , lấy Hợi khứ Tị , lấy Tý khứ Ngọ . Ngày Nhâm Quý gặp Thìn Tuất Sửu Mùi , lấy Dần khứ Thìn Tuất , lấy Mão khứ Sửu Mùi .
( 9 ) Ngày Mậu Kỷ gặp Dần Mão , lại gặp Ngọ Tuất , thì Dần hợp Ngọ Tuất thành hỏa , mà Mão độc nắm quyền . Ngày Canh Tân gặp Tị Ngọ , lại gặp Dậu Sửu , thì Tị hội Dậu Sửu thành kim , mà Ngọ độc nắm quyền . Ngày Giáp Ất gặp Thân Dậu , lại gặp Tý Thìn , thì Thân hội Tý Thìn thành thủy , mà Dậu độc nắm quyền . Ngày Bính Đinh gặp Hợi Tý , lại gặp Mão Mùi , thì Hợi hội Mão Mùi thành mộc , mà Tý độc nắm quyền . Ngày Nhâm Quý gặp Sửu Thìn hoặc Tuất Mùi , lại gặp Tý Thân hoặc Dần Ngọ thì Thìn hội Tý Thân thành thủy , Tuất hội Dần Ngọ thành hỏa , mà Sửu Mùi nắm quyền vậy .
( 10) Ngày Bính Đinh gặp Hợi Tý , nếu Tý theo Thìn hợp nhập Khố , thì Hợi đương quyền . Ngày Canh Tân gặp Tị Ngọ , nếu Ngọ theo Tuất hợp nhập Khố , thì Tị đương quyền . Ngày Mậu Kỷ gặp Dần Mão , nếu Mão theo Mùi hợp nhập Khố , thì Dần đương quyền . Ngày Giáp Ất gặp Thân Dậu , nếu Dậu theo Sửu hợp nhập Khố , thì Thân đương quyền .
( 11 ) Canh Tân Thân Dậu cùng gặp , đủ có thể lấy khứ 1 Giáp 1 Ất 1 Dần 1 Mão , cũng có thể khứ Giáp Dần Ất Mão . Nếu 1 Canh 1 Thân 1 Tân 1 Dậu , khứ Giáp Ất Dần Mão , thế lực tất nhiên không đủ .
( 12) Quan Sát cùng gặp, Thương Quan Thực Thần cũng cùng gặp . Thương Quan rõ ràng là có lực . Thì khứ Quan , Thực thần rõ ràng là có lực , thì khứ Sát .
( 13 ) Ngày âm Thương Quan , có thể dùng khứ quan , lại có thể lấy hợp Sát . Kề gần Chánh Quan , thì lấy khứ Quan mà luận . Kề gần Thất Sát , thì lấy hợp Sát mà luận . Dương nhật Thực thần , có thể lấy khứ Sát , mà lại có thể hợp Quan . Kề gần Thất Sát , thì lấy khứ Sát luận. Kế gần Chánh Quan , thì lấy hợp Quan luận . Âm nhật Thực thần , chỉ có thể khứ Sát , không thể hợp Quan . Dương nhật Thương Quan , chỉ có thể khứ Quan , không thể hợp Sát .

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
19. Táo thấp ( Khô, ẩm)
Đại để mệnh cục vượt quá táo (khô) , thì Hỉ nhuận trạch (ẩm ướt) . Mệnh cục triều thấp (ẩm ướt), thì Hỉ huyên úc ( ấm áp) .
- Bát tự không có thủy hoặc thiếu thủy , ở tại Hạ lệnh , hoặc nhiều mộc nhiều hỏa , chính là cục quá táo khô. Nếu trong mệnh Hỉ thổ , gặp táo thổ thì lợi táo , không thể tốt được, gặp thổ ẩm ướt thì được tư nhuận , cho nên là tốt vậy.
- Bát tự không có hỏa hoặc hỏa ít , mùa tại Đông lệnh , hoặc nhiều kim nhiều thủy , chính là quá ẩm ướt , như torng mệnh Hỉ thổ , gặp ôn thổ thì càng ẩm thấp , cho nên không thể nói là tốt được, nếu gặp táo thổ thì khứ được thấp , như hoa được thêu thêm gấm vào vậy.
- Thiên can ngũ hành , không có phân biệt táo thấp , Địa chi thì rõ ràng song cũng có phân biệt. Tý, Mão, Dậu, là thuần kim thuần thủy thuần mộc, cũng không phân biệt táo thấp. Sửu tàng Kỷ Tân, là thấp thổ thấp kim, còn có Quý thủy tàng vậy. Dần tàng Giáp Mậu , là táo mộc táo thổ , còn có Bính hỏa tàng vậy. Thìn tàng Mậu Ất , là thấp thổ thấp mộc , còn có Quý thủy tàng vậy . Tị tàng Mậu Canh , là táo thổ táo kim , còn có Bính hỏa tàng vậy . Ngọ tàng Kỷ , là táo thổ , còn có Đinh hỏa tàng vậy . Mùi tàng Kỷ Ất là táo thổ táo mộc , còn có Đinh hỏa tàng vậy . Thân tàng Canh Mậu , là thấp kim thấp thổ , còn có Nhâm thủy tàng vậy . Tuất tàng Mậu Tân , là táo thổ táo kim , còn có Đinh hỏa vậy . Hợi tàng Giáp , là thấp mộc , còn có tàng Nhâm thủy vậy.

20. Sơ học tiệp kính
(Ban đầu học đoán nhanh)

- Dụng Quan tinh không thể bị hại, không dụng Quan tinh có thể tổn hại hết. Dụng Tài tinh không thể có Kiếp, không dụng Tài tinh Kiếp có thể hết.
- Dụng Ấn thụ không thể hỏng, không dụng Ấn thụ có thể hỏng hết. Dụng Thực thần không thể bị đoạt, không dụng Thực Thần có thể đoạt hết.
- Dụng Thất Sát không thể chế, chế Sát thái quá trái lại là Hung. Thân Sát lưỡng đình phù hợp chế Sát, Sát trọng Thân khinh phù hợp hóa Sát.
- Thân cường Sát ít phù hợp chế sát, Dương Nhận trùng trùng hỉ Thực Thương. Nếu gặp Quan Sát thì sẽ gặp tai ương, Tài nhiều Thân nhược phù hợp có Kiếp Nhận.
- Kiếp nặng Tài khinh hỉ Thực thần. Quan vượng Thân suy phù hợp Ấn địa. Quan suy Ấn vượng của cải trói buộc. Đạo đức không có do Kiêu Thần vô dụng.
- Sát nhiều, Thực nặng là đẹp nhất. Chớ nói Dương Nhận là hung, Tài nhiều bè đảng của Sát cũng là trong thanh ( Ý nói Sát chế Nhận là tốt).

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
21. Ngũ hành sinh, khắc, suy, vượng, đảo điên tinh vi
- Mộc vốn sinh hỏa, mộc nhiều thì hỏa cháy mạnh. Có kim khắc mộc, thì có thể sinh hỏa vậy.
- Hỏa vốn sinh thổ, hỏa nhiều thì thổ cháy khét. Có thủy khắc hỏa, thì có thể sinh thổ vậy.
- Thổ vốn sinh kim, thổ nhiều thì kim bị chôn vùi. Có mộc khắc thổ, thì có thể sinh kim vậy.
- Kim vốn sinh thủy, kim nhiều thủy yếu. Có hỏa khắc kim, thì có thể sinh thủy vậy.
- Thủy vốn sinh mộc, thủy nhiều thì mộc bị trôi nổi. Có thổ khắc thủy, thì có thể sinh mộc vậy.
- Mộc vốn sinh hỏa, hỏa nhiều thì mộc cháy. Thủy khắc hỏa thì sinh mộc, hỏa sinh thổ thì lưu tồn mộc vậy.
- Hỏa vốn sinh thổ, thổ nặng thì làm tắt hỏa. Mộv khắc thổ thì sinh hỏa, thổ sinh kim thì tồn tại hỏa vậy.
- Thổ vốn sinh kim, kim nhiều thì thổ bị tiết. Hỏa khắc kim thì sinh thổ, kim sinh thủy thì tồn tại thổ vậy.
- Kim vốn sinh thủy, thủy dầy thì kim chìm. Thổ khắc thủy thì sinh kim, thủy sinh mộc thì tồn tại kim vậy.
- Thủy vốn sinh mộc, mộc vượng thì thủy khô. Kim khắc mộc thì sinh thủy, mộc sinh hỏa thì lưu tồn thủy vậy.
- Mộc sinh thổ vậy, mộc hỏa đều vượng, phù hợp có thủy để dưỡng mộc vậy.
- Hỏa sinh thổ vậy, hỏa thổ đều vượng, phù hợp lấy mộc sinh hỏa vậy.
- Thổ sinh kim vậy, thổ kim đều vượng, phù hợp lấy hỏa trợ giúp thổ.
- Kim sinh thủy vậy, kim thủy đều vượng, phù hợp lấy thổ sinh kim.
- Mộc có thể sinh hỏa, song hỏa cũng có thể sinh mộc vậy. Thủy sinh mộc, đất ẩm mà giảm bớt táo khô vậy. Hỏa sinh mộc, giải bớt hàn lạnh mà cây sinh trưởng tốt vậy.
- Hỏa có thể sinh thổ, song thổ cũng có thể sinh hỏa vậy. Mộc sinh hỏa cũng như mùa Đông mộc khô, có hỏa làm ấm áp cây sinh thưởng tươi tốt vậy.
- Thổ có thể sinh kim, song kim cũng có thể sinh hỏa vậy. Hỏa sinh thổ cũng như hỏa làm ấm đất mà khứ đi thấp thổ vậy. Kim sinh thổ, cũng như phòng khi thổ bị nghiêng đổ vậy.
- Kim có thể sinh thủy, song thủy cũng có thể sinh kim vậy. Thổ sinh kim, cũng như thủy dùi mài đá mà tràn đầy vậy. Thủy sinh kim, cũng như thủy chế hỏa mà kim khỏi bị hỏa khắcvậy.
- Thủy có thể sinh mộc, song thủy cũng có thể sinh kim vậy. Kim sinh thủy là trở ngại kỳ tiết lộ vậy. Mộc sinh thủy cũng như khứ kỳ ứ tắcvậy.
- Mộc vốn khắc thổ, thổ nhiều thì mộc gãy. Thủy sinh mộc, thì mộc có thể khắc thổ.
- Hỏa vốn khắc kim, kim nhiều thì hỏa tắt. Mộc sinh hỏa, thì hỏa có thể khắc kim.
- Thổ vốn khắc thủy, thủy nhiều thì thổ bị tan rã. Hỏa sinh thổ, thì thổ có thể khắc thủy.
- Kim vốn khắc mộc, mộc nhiều thì kim khuyết. Thổ sinh kim thì kim có thể khắc mộc.
- Thủy vốn khắc hỏa, hỏa nhiều thì thủy khô. Kim sinh thủy, thì thủy có thể khắc hỏa.
- Mộc khắc thổ, mộcquá nhiều, phù hợp lấy kim để bảo vệ thổ vậy.
- Hỏa khắc kim, hỏa quá nhiều, phù hợp lấy thủy để dưỡng kim vậy.
- Thổ khắc thủy, thủy quá nhiều, phù hợp lấy mộc mà thu nhận thủy vậy.
- Kim khắc mộc, mộc quá nhiều, phù hợp lấy hỏa để mộc tươi tốt vậy.
- Thủy khắc hỏa, hỏa quá nhiều, phù hợp lấy thổ phù trợ hỏa vậy.
- Mộc khắc thổ vậy. Mộc thổ đều vượng, phù hợp lấy thủy sinh mộc mà làm nhuận thổ vậy.
- Thổ khắc thủy vậy. Thổ thủy cùng vượng, phù hợp lấy hỏa sinh thổ để ngăn thấp thủy vậy.
- Thủy khắc hỏa vậy. Thủy hỏa đều vượng, phù hợp lấy kim sinh thủy mà làm tắt hỏa vậy.
- Hỏa khắc kim vậy. Hỏa kim đều vượng, phù hợp lấy mộc mà sinh hỏa làm gãy kim vậy.
- Kim khắc mộc vậy. Kim Mộc đều vượng, phù hợp lấy thổ mà mộc gãy vậy.
- Mộc có thể khắc thổ, song thổ cũng có thể khắc mộc vậy. Mộc khắc thổ cũng như Xuân thổ thì thổ Hư vậy. Thổ khắc mộc cũng như Hạ thổ thì thổ quá táo khô vậy.
- Thổ có thể khắc thủy, song thủy cũng có thể khắc hỏa. Thổ khắc thủy, cũng như thủy ở mùa Hè bị khô cạn vậy. Thủy khắc thổ giống như Đông thủy thì hàn lạnh mà thổ đóng băng vậy.
- Thủy có thể khắc hỏa, song hỏa cũng có thể khắc thủy vậy. Thủy khắc hỏa, kim thủy thì hàn lạnh mà đóng băng vậy. Hỏa có thể khắc thủy, cũng như dùng chén nước mà cứu hỏa thì làm sao mà cứu vậy?
- Hỏa có thể khắc kim, song kim cũng thể khắc hỏa vậy. Hỏa khắc kim, Xuân hỏa thì tương trợ nhau để khắc kim vậy. Kim khắc hỏa, Đông hỏa thì hỏa bị Tù vậy.
- Kim có thể khắc mộc, nhưng mà mộc cũng có thể khắc kim vậy. Kim khắc mộc, cũng như kim cứng mộc đóng băng vậy. Mộc khắc kim, mộc thịnh thì kim gãy vậy.
- Vượng thì phù hợp khắc. Song, cực vượng thì phù hợp tiết mà không phù hợp khắc vậy. Cái gọi là giàu có mà đổ xuống bớt cho con cái, chính là Xuân mộc thì cây mọc xum xuê, phù hợp hỏa vượng chiếu sáng thông suốt. Hạ hỏa quá nóng, phù hợp thổ nhiều mà rút bớt uy nghiêm. Thu kim quá bén nhọn, phù hợp thủy thịnh để chảy trong suốt. Đông thủy nước chảy mênh mông, phù hợp có mộc nhiều mà thu nhận. Mùa thổ trùng điệp phù hợp kim trọng để thổ thanh tú.
- Nhược thì phù hợp được sinh. Song, cực nhược thì phù hợp khắc mà không phù hợp sinh vậy. Cái gọi là Hư thì bổ kỳ Mẫu, vốn lấy Thu mộc tàn héo rơi rụng thì phù hợp kim mà không phù hợp thủy vậy. Đông hỏa tức là bị hủy diệt, phù hợp thủy mà không phù hợp mộc. Cũng như Trọng Xuân thì thổ không có hỏa sinh, trái lại phù hợp mộc vậy. Trọng Thu thì mộc không có thủy sinh, trái lại phù hợp với kim vậy.
- Dương cực thì âm đến vậy. Âm cực thì dương đến vậy. Hàn cực thì sinh nhiệt vậy, nhiệt cực thì hàn sinh vậy.

descriptionChương Bổ sung EmptyRe: Chương Bổ sung

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết