Chương 22. Thương Quan
Thương quan kiến Quan quả là khó phân biệt, có thể thấy cũng không thể thấy.
Nguyên chú: Thân nhược mà Thương quan vượng, thấy Ấn mà có thể thấy Quan: Thân vượng mà Thương quan vượng, thấy Tài mà không thấy Quan. Thương quan vượng, Tài khinh, có Tỉ Kiếp mà có thể thấy Quan: Nhật chủ vượng, Thương quan khinh, không có Ấn thụ mà có thể thấy Quan. Thương quan vượng mà không có Tài, một khi gặp Quan tất gặp họa; Thương quan vượng mà thân nhược, một khi gặp Quan là có họa; Thương quan nhược mà Tài khinh, gặp Quan là có họa; Thương quan nhược mà có Ấn, một khi gặp quan là có họa; Đại khái Thương quan có Tài, đều có thể thấy Quan; Thương quan mà không có Tài, đều không thể thấy cung. Lại cần phải xem thân cường, thân nhược, Tài Quan Ấn thụ, Tỉ Kiếp ở chỗ nào mới được; không cần phân ra kim, mộc, hỏa, thổ vậy. Lại nói Thương quan dụng Ấn, không có Tài không nên gặp Tài, Thương quan dụng Tài, không có Ấn không nên gặp Ấn, cần phải phân biệt rõ ràng.
Nhâm thị viết: Thương quan, là cướp nguyên thần của mệnh chủ, đã không phải thiện lương, làm tổn hại quý khí nhật can, lại bất chấp tung hoành. Nhưng thiện ác là bất thường, chỉ cần khống chế, là tinh hoa sẽ phát ra ngoài, chủ nhiều thông minh. Nếu có thể thấy quan, thì cần quyền hành nguyên cục, thời gian tác dụng, khác nhau đủ loại, không thể chấp nhất mà luận vậy. Có Thương quan dụng Ấn, Thương quan dụng Tài, Thương quan dụng Kiếp, Thương quan dụng Thương, Thương quan dụng Quan.
Nếu Thương quan dụng Tài, nhật chủ vượng, Thương quan cũng vượng, nên dụng Tài; có Tỉ Kiếp mà có thể thấy Quan, không có Tỉ Kiếp có Ấn thụ, không thể thấy Quan; nhật chủ nhược, Thương quan vượng, nên dụng Ấn, có thể thấy Quan mà không thể thấy Tài; nhật chủ nhược, Thương quan vượng, không có Ấn thụ, nên dụng Tỉ Kiếp, hỉ thấy Kiếp Ấn, kỵ thấy Tài Quan; nhật chủ vượng, không có Tài Quan, nên dụng Thương quan, hỉ thấy Tài Thương, kỵ gặp Quan Ấn; nhật chủ vượng, nhiều Tỉ Kiếp, Tài suy, Thương quan khinh, nên dụng Quan, hỉ thấy Tài Quan, kỵ thấy Thương Ấn. Chỗ gọi “Thương quan kiến Quan, vi họa bách đoan” đều là nhật chủ suy nhược, dụng Tỉ Kiếp trợ thân, gặp Quan tất Tỉ Kiếp bị khắc, cho nên gặp hoạ là vậy.
Nếu trong cục có Ấn, gặp Quan chẳng những không có họa, mà còn gặp phúc vậy. Thương quan dụng Ấn, trong cục không có Tài tinh, hành vận Ấn vượng thân vượng, không thể không hiển quý vậy; vận hành Tài vượng Thương quan vượng, không thể không bần tiện vậy. Thương quan dụng Tài, Tài tinh đắc khí, vận gặp Tài vượng, Thương vượng, không thể không giàu; vận gặp nơi Ấn vượng, Kiếp vượng, không thể không nghèo hèn cực khổ. Thương quan dụng KIếP, vận gặp Ấn vượng tất quý. Thương quan dụng Quan, vận gặp Tài vượng tất giàu. Thương quan dụng Thương, vận gặp Tài vượng, chẳng những phú mà còn quý; cùng dụng Ấn dụng Tài, chẳng qua là Quan có cao thấp, Tài phân ra nặng nhẹ vậy. Nên xem xét kỹ càng vậy.
Một, Thương quan dụng Ấn cách
Kỷ Sửu - Tân Mùi - Bính Dần - Kỷ Sửu
Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu
Hỏa thổ Thương quan trùng điệp, may mắn là ở cuối mùa hạ, hỏa khí còn dư, nhật chủ lại tọa trường sinh, Dần tàng Giáp mộc làm dụng thần. Đến vận Đinh Mão, khử đi Tân kim, phá Sửu thổ, chỗ gọi là có bệnh gặp thuốc, mà thăng quan tiến chức; tiếp đến vận Bính Dần, thể dụng đề được, làm quan hoàng triều.
Tân Dậu - Đinh Dậu - Mậu Ngọ - Tân Dậu
Bính Thân/ Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão
Trụ này thổ kim Thương quan trùng điệp, mừng tứ trụ không có tài, khí tượng thuần thanh. Đầu vận mộc hỏa, thể dụng đều là thích hợp, cho nên tuổi trẻ đăng lấy bảng Long Hổ, thiếu niên làm đến Phượng Hoàng trì. Tiếc là trung vận Quý Tị, Nhâm Thìn, sinh kim khắc hỏa, cho nên nói ý chí cả đời phát tiết ở đâu, chỉ hối tiếc nửa đời vất vả.
Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Canh Thìn - Kỷ Mão
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Trụ này kim thủy Thương quan nắm lệnh, mừng chi tàng noãn thổ, đủ để mài đá giữa dòng. Do vì Tài là bệnh, thêm đầu vận thủy mộc, dẫ đến thi Hương không thành; Đến ngoài ba mươi tuổi, vận phùng hỏa thổ, tách đường xuất thân, làm quan Châu Mục; Ngọ vận, suy thần xung vượng thần, bị giáng chức, đến nay ưu sầu bội phần.
Bính Thìn - Quý Tị - Ất Sửu - Bính Tý
Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất
Trụ này mộc hỏa Thương quan, Ấn thụ thông căn chi là lộc, cách cục không hề không tốt. Tuy sợ Tài tinh phá hư, mà Sửu Thìn thuộc thấp thổ, có thể tích thủy hối hỏa. Tiếc là vận trình không có thủy, dẫn đến một giới hàn nho, đến Thân vận hỏa tuyệt thủy sinh, thanh danh nơi cung trường, sau 9 lần thi Hương không thành.
Thương quan kiến Quan quả là khó phân biệt, có thể thấy cũng không thể thấy.
Nguyên chú: Thân nhược mà Thương quan vượng, thấy Ấn mà có thể thấy Quan: Thân vượng mà Thương quan vượng, thấy Tài mà không thấy Quan. Thương quan vượng, Tài khinh, có Tỉ Kiếp mà có thể thấy Quan: Nhật chủ vượng, Thương quan khinh, không có Ấn thụ mà có thể thấy Quan. Thương quan vượng mà không có Tài, một khi gặp Quan tất gặp họa; Thương quan vượng mà thân nhược, một khi gặp Quan là có họa; Thương quan nhược mà Tài khinh, gặp Quan là có họa; Thương quan nhược mà có Ấn, một khi gặp quan là có họa; Đại khái Thương quan có Tài, đều có thể thấy Quan; Thương quan mà không có Tài, đều không thể thấy cung. Lại cần phải xem thân cường, thân nhược, Tài Quan Ấn thụ, Tỉ Kiếp ở chỗ nào mới được; không cần phân ra kim, mộc, hỏa, thổ vậy. Lại nói Thương quan dụng Ấn, không có Tài không nên gặp Tài, Thương quan dụng Tài, không có Ấn không nên gặp Ấn, cần phải phân biệt rõ ràng.
Nhâm thị viết: Thương quan, là cướp nguyên thần của mệnh chủ, đã không phải thiện lương, làm tổn hại quý khí nhật can, lại bất chấp tung hoành. Nhưng thiện ác là bất thường, chỉ cần khống chế, là tinh hoa sẽ phát ra ngoài, chủ nhiều thông minh. Nếu có thể thấy quan, thì cần quyền hành nguyên cục, thời gian tác dụng, khác nhau đủ loại, không thể chấp nhất mà luận vậy. Có Thương quan dụng Ấn, Thương quan dụng Tài, Thương quan dụng Kiếp, Thương quan dụng Thương, Thương quan dụng Quan.
Nếu Thương quan dụng Tài, nhật chủ vượng, Thương quan cũng vượng, nên dụng Tài; có Tỉ Kiếp mà có thể thấy Quan, không có Tỉ Kiếp có Ấn thụ, không thể thấy Quan; nhật chủ nhược, Thương quan vượng, nên dụng Ấn, có thể thấy Quan mà không thể thấy Tài; nhật chủ nhược, Thương quan vượng, không có Ấn thụ, nên dụng Tỉ Kiếp, hỉ thấy Kiếp Ấn, kỵ thấy Tài Quan; nhật chủ vượng, không có Tài Quan, nên dụng Thương quan, hỉ thấy Tài Thương, kỵ gặp Quan Ấn; nhật chủ vượng, nhiều Tỉ Kiếp, Tài suy, Thương quan khinh, nên dụng Quan, hỉ thấy Tài Quan, kỵ thấy Thương Ấn. Chỗ gọi “Thương quan kiến Quan, vi họa bách đoan” đều là nhật chủ suy nhược, dụng Tỉ Kiếp trợ thân, gặp Quan tất Tỉ Kiếp bị khắc, cho nên gặp hoạ là vậy.
Nếu trong cục có Ấn, gặp Quan chẳng những không có họa, mà còn gặp phúc vậy. Thương quan dụng Ấn, trong cục không có Tài tinh, hành vận Ấn vượng thân vượng, không thể không hiển quý vậy; vận hành Tài vượng Thương quan vượng, không thể không bần tiện vậy. Thương quan dụng Tài, Tài tinh đắc khí, vận gặp Tài vượng, Thương vượng, không thể không giàu; vận gặp nơi Ấn vượng, Kiếp vượng, không thể không nghèo hèn cực khổ. Thương quan dụng KIếP, vận gặp Ấn vượng tất quý. Thương quan dụng Quan, vận gặp Tài vượng tất giàu. Thương quan dụng Thương, vận gặp Tài vượng, chẳng những phú mà còn quý; cùng dụng Ấn dụng Tài, chẳng qua là Quan có cao thấp, Tài phân ra nặng nhẹ vậy. Nên xem xét kỹ càng vậy.
Một, Thương quan dụng Ấn cách
Kỷ Sửu - Tân Mùi - Bính Dần - Kỷ Sửu
Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu
Hỏa thổ Thương quan trùng điệp, may mắn là ở cuối mùa hạ, hỏa khí còn dư, nhật chủ lại tọa trường sinh, Dần tàng Giáp mộc làm dụng thần. Đến vận Đinh Mão, khử đi Tân kim, phá Sửu thổ, chỗ gọi là có bệnh gặp thuốc, mà thăng quan tiến chức; tiếp đến vận Bính Dần, thể dụng đề được, làm quan hoàng triều.
Tân Dậu - Đinh Dậu - Mậu Ngọ - Tân Dậu
Bính Thân/ Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão
Trụ này thổ kim Thương quan trùng điệp, mừng tứ trụ không có tài, khí tượng thuần thanh. Đầu vận mộc hỏa, thể dụng đều là thích hợp, cho nên tuổi trẻ đăng lấy bảng Long Hổ, thiếu niên làm đến Phượng Hoàng trì. Tiếc là trung vận Quý Tị, Nhâm Thìn, sinh kim khắc hỏa, cho nên nói ý chí cả đời phát tiết ở đâu, chỉ hối tiếc nửa đời vất vả.
Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Canh Thìn - Kỷ Mão
Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ
Trụ này kim thủy Thương quan nắm lệnh, mừng chi tàng noãn thổ, đủ để mài đá giữa dòng. Do vì Tài là bệnh, thêm đầu vận thủy mộc, dẫ đến thi Hương không thành; Đến ngoài ba mươi tuổi, vận phùng hỏa thổ, tách đường xuất thân, làm quan Châu Mục; Ngọ vận, suy thần xung vượng thần, bị giáng chức, đến nay ưu sầu bội phần.
Bính Thìn - Quý Tị - Ất Sửu - Bính Tý
Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất
Trụ này mộc hỏa Thương quan, Ấn thụ thông căn chi là lộc, cách cục không hề không tốt. Tuy sợ Tài tinh phá hư, mà Sửu Thìn thuộc thấp thổ, có thể tích thủy hối hỏa. Tiếc là vận trình không có thủy, dẫn đến một giới hàn nho, đến Thân vận hỏa tuyệt thủy sinh, thanh danh nơi cung trường, sau 9 lần thi Hương không thành.