Luận Phúc Đức tú khí
Phúc Đức tú khí, chuyên dụng ở nhật chủ.
Như Ất Tị, Ất Dậu, Ất Sửu là đúng. Ất dụng Canh Quan, lộ ra Sát hỷ chế, hỷ Ấn thụ, không hỷ sinh vào trong tháng 8, sợ lộ ra Sát. Lại hỷ hành vận Ấn thụ, Quan vượng, liền có thể phát phúc. Tùy tiện trong tứ trụ lộ ra Tân Sát cần phải chế phục.
Như Đinh Tị, Đinh Dậu, Đinh Sửu, nói Nhâm là Quan, hỷ kim vượng sinh thủy, cũng không hỷ sinh vào tháng 8, vì hỏa tử ở Dậu, lại hỷ hành vận Quan vượng, liền có thể phát phúc. Cũng không cần lộ Sát làm hỗn tạp Quan, là thọ không dài.
Kỷ Tị, Kỷ Dậu, Kỷ Sửu, nói dụng Giáp mộc là Quan, Tị Dậu Sửu kim cục, đều tổn thương Quan, cũng có tên là cướp khí, tại sao lại cát? Mặc dù hỷ được kim cục, có thể sinh thủy Tài, cũng không cần tứ trụ thấy hỏa, e tổn thương kim cục, lại hỷ hành Tài vận liền phát.
Quý Tị, Quý Dậu, Quý Sửu nói dụng kim thần là Ấn, thấy Tị Dậu Sửu kim cục có thể sinh Quý thủy, không hỷ sinh vào tháng 4, thủy tuyệt ở Tị, mặc dù kim sinh ở Tị, lấy kim có thể sinh thủy, cũng không thể tuyệt, được vận Quan Ấn liền có thể phát phúc. Nhất là không hỷ hỏa Tài, e tổn thương kim vậy. Đại để cùng với Ấn thụ là tương tự, tất cả đều có ví dụ ở dưới.
【Lời phê: 】
Quan ―― Ất Tị, Ất Dậu và Ất Sửu, người sinh tháng 8 là đoản thọ, tứ trụ nếu thấy Quỷ Thương quan, có hung sự mất chức giáng quan.
Tài --- Như Đinh Tị, Đinh Dậu và Đinh Sửu, người sinh tháng 8, thọ không dài, tiền trình danh lợi đều không có căn, sợ nhất là phá Ấn chỉ có giao với Dậu.
Thực ―― như Kỷ Tị, Kỷ Dậu và Kỷ Sửu, phúc đức tạo hóa có phân khí, sợ nhất tứ trụ quá xâm phạm, phần đa có công danh nhưng cũng sợ không bền. Quý Tị, Quý Dậu và Quý Sửu, tháng Tị thì dù là thần nhân cũng không lâu, công danh thành tựu lúc về già, tối kị có Thực thần cùng Thương quan.
Phúc Đức tú khí, chuyên dụng ở nhật chủ.
Như Ất Tị, Ất Dậu, Ất Sửu là đúng. Ất dụng Canh Quan, lộ ra Sát hỷ chế, hỷ Ấn thụ, không hỷ sinh vào trong tháng 8, sợ lộ ra Sát. Lại hỷ hành vận Ấn thụ, Quan vượng, liền có thể phát phúc. Tùy tiện trong tứ trụ lộ ra Tân Sát cần phải chế phục.
Như Đinh Tị, Đinh Dậu, Đinh Sửu, nói Nhâm là Quan, hỷ kim vượng sinh thủy, cũng không hỷ sinh vào tháng 8, vì hỏa tử ở Dậu, lại hỷ hành vận Quan vượng, liền có thể phát phúc. Cũng không cần lộ Sát làm hỗn tạp Quan, là thọ không dài.
Kỷ Tị, Kỷ Dậu, Kỷ Sửu, nói dụng Giáp mộc là Quan, Tị Dậu Sửu kim cục, đều tổn thương Quan, cũng có tên là cướp khí, tại sao lại cát? Mặc dù hỷ được kim cục, có thể sinh thủy Tài, cũng không cần tứ trụ thấy hỏa, e tổn thương kim cục, lại hỷ hành Tài vận liền phát.
Quý Tị, Quý Dậu, Quý Sửu nói dụng kim thần là Ấn, thấy Tị Dậu Sửu kim cục có thể sinh Quý thủy, không hỷ sinh vào tháng 4, thủy tuyệt ở Tị, mặc dù kim sinh ở Tị, lấy kim có thể sinh thủy, cũng không thể tuyệt, được vận Quan Ấn liền có thể phát phúc. Nhất là không hỷ hỏa Tài, e tổn thương kim vậy. Đại để cùng với Ấn thụ là tương tự, tất cả đều có ví dụ ở dưới.
【Lời phê: 】
Quan ―― Ất Tị, Ất Dậu và Ất Sửu, người sinh tháng 8 là đoản thọ, tứ trụ nếu thấy Quỷ Thương quan, có hung sự mất chức giáng quan.
Tài --- Như Đinh Tị, Đinh Dậu và Đinh Sửu, người sinh tháng 8, thọ không dài, tiền trình danh lợi đều không có căn, sợ nhất là phá Ấn chỉ có giao với Dậu.
Thực ―― như Kỷ Tị, Kỷ Dậu và Kỷ Sửu, phúc đức tạo hóa có phân khí, sợ nhất tứ trụ quá xâm phạm, phần đa có công danh nhưng cũng sợ không bền. Quý Tị, Quý Dậu và Quý Sửu, tháng Tị thì dù là thần nhân cũng không lâu, công danh thành tựu lúc về già, tối kị có Thực thần cùng Thương quan.