Luận Phụ nữ tổng quyết
Suy mệnh phụ nữ, cùng với nam mệnh khác nhau nhiều, Tiến sĩ Thảo Đường Đinh tiên sinh, lấy Thần Thú bát pháp: Chiếu, Phản, Quỷ, Phục, Thuộc, Loại, Tòng, Hóa. Nữ mệnh bát pháp: Thuần, Hòa, Thanh, Quý, Trọc, Loạn, Xướng, Dâm. Lấy Quan là chồng là phúc tinh, Tài vượng sinh Quan, thì được phúc chồng. Ấn thụ, Thực thần là danh quý, có xưng hô. Sinh khí là Ấn thụ, là khó cho Tử tức. Ấn thụ Tài Quan có đủ, tất sinh ở gia đình phú quý, tướng mạo hiền thục. Ngày Giáp thấy Tân Dậu là chồng chính, có chữ Đinh Ngọ là tổn hại chồng. Canh Thân là Thiên phu ( người tình), như thấy nhiều Canh Thân Tân Dậu, là làm hại chồng mà tái giá. Nếu Tài quá nhiều, Quan Sát quá vượng, chính là minh ám cùng tập hợp chồng, đa dâm mà còn lạm dụng. Tài nhiều mà dâm, cho nên nữ nhân cần Tài nhược, là Vượng Phu ích Tử. Như Quan đắc địa, Thất Sát thụ thương, Thực thần can vượng, Ấn thụ Thiên Nguyệt nhị Đức, là Phu vinh Tử quý, mệnh rất tốt. Bát tự phụ nữ, có Thương quan, Quan Sát hỗn tạp, Thực thần Tài vượng, thân suy, là người có bệnh đố kị, hiếu sắc tham dâm, hung bạo ngu muội đáng sợ. Thương quan kiến Quan, là khắc phu tái giá, công việc nặng nhọc thân thể, tuy không hại chồng, cũng có bệnh hoạn, cả đời thiếu phúc, đa số là chủ bất an, đại kị trụ năm có Thương quan, chủ bệnh tật khi sinh đẻ, nếu không cũng tổn thọ. Thương quan chủ người có tướng mạo đẹp đẽ, thông minh, tú khí. Thương quan thấy Sát (Tài ) là phú, không có Tài là bần. Kiếp tài, Bại tài, Thương quan, thân vượng, là bần tiện là hạ cách. Ở trên lấy 15 cách đều là xung quan phùng hợp, đều có kị Thương quan, dẫu là phú quý, cũng không miễn bệnh dâm lạm.
Thất Sát, Chính Quan, chỉ cần một vị là tốt, Sát nhiều chồng nhiều, Quan Sát bị hợp, là tỳ thiếp chị em gái tranh quyền, ví dụ như Giáp dụng Tân là Quan, Bính hợp là vậy, Ất dụng Canh là Quan, thấy Đinh là vậy, Mậu dụng Ất là Quan, thấy Tân là vậy, chỗ này chính là bị hợp lấy, còn lại y như vậy, chủ phụ nữ Chiêu giá bất định. Bát tự gặp Thương quan, cùng Quan tinh tử tuyệt, có Cô thần Quả tú, ngày giờ gặp Không vong, là mệnh cô khắc. Như thiên can thấu ra Quan Sát, địa chi không có Quan Sát, lại kiêm thêm hưu tù tử tuyệt, là đất thoái khí, là nữ khí tuyệt chồng, nên lấy làm tỳ nữ hầu gái hoặc làm vợ lẻ mà suy đoán. Mệnh nếu có Thiên Nguyệt Đức, không có họa huyết quang khi sinh đẻ cùng khí dâm lạm. Nữ mệnh chỉ cần thân nhược, chủ tính thuần túy mà ôn nhu, có công phụng dưỡng cha mẹ chồng cùng giúp ích cho chồng. Thân cường là hay bắt nạt chồng, bất hiếu với cha mẹ chồng, sinh việc thị phi, nóng tính. Thân nhược là bệnh, thân cường cũng vậy. Bát tự hỷ quý, không hợp có Dịch Mã, Hàm Trì. Phải thuần hòa nhu nhược, không nên cương kiện thái cường, tuế vận cũng vậy.
Có ngày Âm sai Dương thác, Cô loan, là bất lợi cho giá thú, đều không có thành thân hoa chúc, thây nhân quyến thuộc, phòng lạnh mà hiếu thú, hôn nhân gãy đổ.
Cô Loan Sát nói: "Dần mộc không có chồng, Kim Hợi sao có chàng, Xích Hoàng Ngọ nằm không, Tý thủy thủ không phòng." Chủ Nữ thì Quả mà Nam thì Cô. Ngày giờ cùng xung, nữ thì chồng con khó khăn, lại thêm Không Vong ngày giờ là cô khắc, không đợi nói cũng hiểu. Bát tự đều không có Quan Sát, lại hành vận Quan Sát Tài, chính là phu tinh đắc địa mà không cô đơn; còn bát tự đều có Tài Quan, vận hành đất Thương quan Kiếp tài, phu cung khó khăn, cần phải qua vận, tử tế suy đoán rất ứng nghiệm.
【Lời phê 】 Phàm phụ nữ thân không có chỗ dựa, là chỉ ủy thác cho chồng, để một thân nương nhờ, cho nên lấy Quan quý là chủ chồng, chồng quý thì vợ vinh, xưng giống như con gái nằm mộng thấy gãy cây tùng cao. Đinh Ngọ chính là âm hỏa mà khắc Tân kim, cho nên viết là hại chồng chính. Như phu tinh vượng, Thương quan không thể hại, đoán chủ bản thân thiếu phúc mà nhiều bệnh, giống như có người hại chồng thì vợ cũng không thể yên vui là vậy. Quan, cũng là một chồng, Sát, cũng là một chồng, không nên thấy nhiều, thấy nhiều thì chủ có hai chồng vậy. Quan tinh tử tuyệt giống như chồng tử tuyệt. Hàm Trì tức là Đào Hoa Sát, chủ dâm, lại mang theo Dịch Mã, chủ bỏ nhà mà theo trai. Xích là đỏ là hỏa, Hoàng là vàng là thổ, trắng là kim, Hắc là màu đen là thủy, xanh là mộc, chủ phạm chỗ này.
Suy mệnh phụ nữ, cùng với nam mệnh khác nhau nhiều, Tiến sĩ Thảo Đường Đinh tiên sinh, lấy Thần Thú bát pháp: Chiếu, Phản, Quỷ, Phục, Thuộc, Loại, Tòng, Hóa. Nữ mệnh bát pháp: Thuần, Hòa, Thanh, Quý, Trọc, Loạn, Xướng, Dâm. Lấy Quan là chồng là phúc tinh, Tài vượng sinh Quan, thì được phúc chồng. Ấn thụ, Thực thần là danh quý, có xưng hô. Sinh khí là Ấn thụ, là khó cho Tử tức. Ấn thụ Tài Quan có đủ, tất sinh ở gia đình phú quý, tướng mạo hiền thục. Ngày Giáp thấy Tân Dậu là chồng chính, có chữ Đinh Ngọ là tổn hại chồng. Canh Thân là Thiên phu ( người tình), như thấy nhiều Canh Thân Tân Dậu, là làm hại chồng mà tái giá. Nếu Tài quá nhiều, Quan Sát quá vượng, chính là minh ám cùng tập hợp chồng, đa dâm mà còn lạm dụng. Tài nhiều mà dâm, cho nên nữ nhân cần Tài nhược, là Vượng Phu ích Tử. Như Quan đắc địa, Thất Sát thụ thương, Thực thần can vượng, Ấn thụ Thiên Nguyệt nhị Đức, là Phu vinh Tử quý, mệnh rất tốt. Bát tự phụ nữ, có Thương quan, Quan Sát hỗn tạp, Thực thần Tài vượng, thân suy, là người có bệnh đố kị, hiếu sắc tham dâm, hung bạo ngu muội đáng sợ. Thương quan kiến Quan, là khắc phu tái giá, công việc nặng nhọc thân thể, tuy không hại chồng, cũng có bệnh hoạn, cả đời thiếu phúc, đa số là chủ bất an, đại kị trụ năm có Thương quan, chủ bệnh tật khi sinh đẻ, nếu không cũng tổn thọ. Thương quan chủ người có tướng mạo đẹp đẽ, thông minh, tú khí. Thương quan thấy Sát (Tài ) là phú, không có Tài là bần. Kiếp tài, Bại tài, Thương quan, thân vượng, là bần tiện là hạ cách. Ở trên lấy 15 cách đều là xung quan phùng hợp, đều có kị Thương quan, dẫu là phú quý, cũng không miễn bệnh dâm lạm.
Thất Sát, Chính Quan, chỉ cần một vị là tốt, Sát nhiều chồng nhiều, Quan Sát bị hợp, là tỳ thiếp chị em gái tranh quyền, ví dụ như Giáp dụng Tân là Quan, Bính hợp là vậy, Ất dụng Canh là Quan, thấy Đinh là vậy, Mậu dụng Ất là Quan, thấy Tân là vậy, chỗ này chính là bị hợp lấy, còn lại y như vậy, chủ phụ nữ Chiêu giá bất định. Bát tự gặp Thương quan, cùng Quan tinh tử tuyệt, có Cô thần Quả tú, ngày giờ gặp Không vong, là mệnh cô khắc. Như thiên can thấu ra Quan Sát, địa chi không có Quan Sát, lại kiêm thêm hưu tù tử tuyệt, là đất thoái khí, là nữ khí tuyệt chồng, nên lấy làm tỳ nữ hầu gái hoặc làm vợ lẻ mà suy đoán. Mệnh nếu có Thiên Nguyệt Đức, không có họa huyết quang khi sinh đẻ cùng khí dâm lạm. Nữ mệnh chỉ cần thân nhược, chủ tính thuần túy mà ôn nhu, có công phụng dưỡng cha mẹ chồng cùng giúp ích cho chồng. Thân cường là hay bắt nạt chồng, bất hiếu với cha mẹ chồng, sinh việc thị phi, nóng tính. Thân nhược là bệnh, thân cường cũng vậy. Bát tự hỷ quý, không hợp có Dịch Mã, Hàm Trì. Phải thuần hòa nhu nhược, không nên cương kiện thái cường, tuế vận cũng vậy.
Có ngày Âm sai Dương thác, Cô loan, là bất lợi cho giá thú, đều không có thành thân hoa chúc, thây nhân quyến thuộc, phòng lạnh mà hiếu thú, hôn nhân gãy đổ.
Cô Loan Sát nói: "Dần mộc không có chồng, Kim Hợi sao có chàng, Xích Hoàng Ngọ nằm không, Tý thủy thủ không phòng." Chủ Nữ thì Quả mà Nam thì Cô. Ngày giờ cùng xung, nữ thì chồng con khó khăn, lại thêm Không Vong ngày giờ là cô khắc, không đợi nói cũng hiểu. Bát tự đều không có Quan Sát, lại hành vận Quan Sát Tài, chính là phu tinh đắc địa mà không cô đơn; còn bát tự đều có Tài Quan, vận hành đất Thương quan Kiếp tài, phu cung khó khăn, cần phải qua vận, tử tế suy đoán rất ứng nghiệm.
【Lời phê 】 Phàm phụ nữ thân không có chỗ dựa, là chỉ ủy thác cho chồng, để một thân nương nhờ, cho nên lấy Quan quý là chủ chồng, chồng quý thì vợ vinh, xưng giống như con gái nằm mộng thấy gãy cây tùng cao. Đinh Ngọ chính là âm hỏa mà khắc Tân kim, cho nên viết là hại chồng chính. Như phu tinh vượng, Thương quan không thể hại, đoán chủ bản thân thiếu phúc mà nhiều bệnh, giống như có người hại chồng thì vợ cũng không thể yên vui là vậy. Quan, cũng là một chồng, Sát, cũng là một chồng, không nên thấy nhiều, thấy nhiều thì chủ có hai chồng vậy. Quan tinh tử tuyệt giống như chồng tử tuyệt. Hàm Trì tức là Đào Hoa Sát, chủ dâm, lại mang theo Dịch Mã, chủ bỏ nhà mà theo trai. Xích là đỏ là hỏa, Hoàng là vàng là thổ, trắng là kim, Hắc là màu đen là thủy, xanh là mộc, chủ phạm chỗ này.