Luận Nguyệt lệnh
Như lệnh năm là gốc, mang Quan tinh Ấn thụ, thì thiếu niên sớm làm quan xuất từ tổ tông. Tháng làm đề cương, mang Quan tinh Ấn thụ thì khảng khái thông minh, kiến thức hơn người. Giờ làm phụ tá, nắm bước đi cuộc đời. Như năm tháng ngày có cát thần, giờ là nơi quy về chỗ sinh vượng. Như hung thần tì tru giờ quy về chỗ chế phục. Trụ giờ có cát hay hung thần, thì năm tháng ngày phải sinh cát mà chế hung. Giả như nguyệt lệnh có dụng thần, thì được lực của phụ mẫu. Năm có dụng thần, thì được lực của tổ tông. Giờ có dụng thần, thì được lực của tử tôn. Trái lại chỗ này thì không đắc lực.
【Ghi chú : Xuất ra từ cung tổ tông, là cung chủ có sự che chỡ của bề trên. 】
Luận Sinh Vượng
Phương pháp thông thường là lấy kim sinh ở Tị, mộc sinh ở Hợi, thủy sinh ở Thân, hỏa sinh ở Dần. Thổ sống ở trung ương gửi mẹ mà sinh, như Mậu ở Tị, Kỷ ở Ngọ. Thổ lại là tứ quý, tất cả đều vượng ở 18 ngày, cộng lại là 72 ngày, cùng kim mộc thủy hỏa thổ tất cả là 72 ngày, cộng được 360 ngày, lấy thành Tuế công, đây là phép đúng vậy.
Lại luận ngũ hành sinh vượng suy tuyệt cát hung
Xem các nhà âm dương có viết: sinh vượng có âm tử dương sinh, dương tử âm sinh. Ví dụ như Giáp mộc sinh ở Hợi mà tử ở Ngọ, Ất mộc sinh ở Ngọ mà tử ở Hợi, còn lại giống vậy mà suy. Cho nên suy mệnh 10 có 9 là sai, vừa không đúng phương pháp vậy. Như luận mệnh khởi đều có ở thuyết sinh vượng, còn Bính Dần thuộc hỏa mà tuyệt ở Hợi, vốn là không đúng, ai không biết trong Hợi có mộc là Ấn thụ mà sinh Bính hỏa, ngày Bính giờ Hợi chính là nhiều quý cách vậy. Mậu thuộc thổ mà vượng ở Tị, lại kiêm kiến lộc, vốn là quý cách, ai không hiểu Tị là đất lại sinh kim mà là Thương quan tinh, phàm ngày Mậu giờ Tị, làm quan cuối cùng là không hiển hách. Đưa ra 2 ví dụ, thì luận mệnh nhất thiết không thể chuyên chấp ở sinh vượng là tốt, suy bại là hung vậy, cần nên lấy phép linh hoạt mà suy đoán.
【Ghi chú : Nhất Tử nhất Sinh, là luận định theo ngũ hành vậy. Nhật chủ thích có Mẫu đến phù Tử, tình huynh đến phù đệ , ân Tử đến cứu Mẫu, lý lẽ sinh sinh bất tận, hóa hóa vô cùng. Nên tỉ mĩ mới có thể luận mệnh. 】
Luận ngũ hành mộ khố Tài Ấn
Người sinh Bính Đinh lấy Thìn là khố Quan, bởi vì thủy thổ khố ở Thìn vậy. Nên ở trong năm tháng giờ có mộc hoặc có Hợi Mão Mùi cùng Dần lại là thanh. Như không có mộc thì thổ đoạt Quan của Bính Đinh, thì thành trọc mà không thanh, cũng không hiển.
【Ghi chú : Có mộc thì sinh hỏa trợ lực cho Bính. Không có mộc thì hỏa sinh thổ là cướp khí, cho nên có mộc thì trợ giúp Ấn. 】
Luận Quan Sát hỗn tạp phải chế phục
Quan tinh cần thuần không nên tạp. Ví như Giáp mộc dụng Tân kim là Quan, nếu năm là Tân, tháng là Dậu, trụ giờ cũng là Tân Quan, tuy nhiều nhưng không ngại, vì thuần nhất là rất tốt. Nếu có kim hoặc có Canh Thân, thì hỗn tạp thành Sát, lấy tổn thương thân, cần hành đến đất hỏa chế phục thì phát phúc vậy. Còn lại như thế mà suy vậy.
【Ghi chú : Ví như kim phế Tân vượng không có chế, thì không thể thành hại.】
Như lệnh năm là gốc, mang Quan tinh Ấn thụ, thì thiếu niên sớm làm quan xuất từ tổ tông. Tháng làm đề cương, mang Quan tinh Ấn thụ thì khảng khái thông minh, kiến thức hơn người. Giờ làm phụ tá, nắm bước đi cuộc đời. Như năm tháng ngày có cát thần, giờ là nơi quy về chỗ sinh vượng. Như hung thần tì tru giờ quy về chỗ chế phục. Trụ giờ có cát hay hung thần, thì năm tháng ngày phải sinh cát mà chế hung. Giả như nguyệt lệnh có dụng thần, thì được lực của phụ mẫu. Năm có dụng thần, thì được lực của tổ tông. Giờ có dụng thần, thì được lực của tử tôn. Trái lại chỗ này thì không đắc lực.
【Ghi chú : Xuất ra từ cung tổ tông, là cung chủ có sự che chỡ của bề trên. 】
Luận Sinh Vượng
Phương pháp thông thường là lấy kim sinh ở Tị, mộc sinh ở Hợi, thủy sinh ở Thân, hỏa sinh ở Dần. Thổ sống ở trung ương gửi mẹ mà sinh, như Mậu ở Tị, Kỷ ở Ngọ. Thổ lại là tứ quý, tất cả đều vượng ở 18 ngày, cộng lại là 72 ngày, cùng kim mộc thủy hỏa thổ tất cả là 72 ngày, cộng được 360 ngày, lấy thành Tuế công, đây là phép đúng vậy.
Lại luận ngũ hành sinh vượng suy tuyệt cát hung
Xem các nhà âm dương có viết: sinh vượng có âm tử dương sinh, dương tử âm sinh. Ví dụ như Giáp mộc sinh ở Hợi mà tử ở Ngọ, Ất mộc sinh ở Ngọ mà tử ở Hợi, còn lại giống vậy mà suy. Cho nên suy mệnh 10 có 9 là sai, vừa không đúng phương pháp vậy. Như luận mệnh khởi đều có ở thuyết sinh vượng, còn Bính Dần thuộc hỏa mà tuyệt ở Hợi, vốn là không đúng, ai không biết trong Hợi có mộc là Ấn thụ mà sinh Bính hỏa, ngày Bính giờ Hợi chính là nhiều quý cách vậy. Mậu thuộc thổ mà vượng ở Tị, lại kiêm kiến lộc, vốn là quý cách, ai không hiểu Tị là đất lại sinh kim mà là Thương quan tinh, phàm ngày Mậu giờ Tị, làm quan cuối cùng là không hiển hách. Đưa ra 2 ví dụ, thì luận mệnh nhất thiết không thể chuyên chấp ở sinh vượng là tốt, suy bại là hung vậy, cần nên lấy phép linh hoạt mà suy đoán.
【Ghi chú : Nhất Tử nhất Sinh, là luận định theo ngũ hành vậy. Nhật chủ thích có Mẫu đến phù Tử, tình huynh đến phù đệ , ân Tử đến cứu Mẫu, lý lẽ sinh sinh bất tận, hóa hóa vô cùng. Nên tỉ mĩ mới có thể luận mệnh. 】
Luận ngũ hành mộ khố Tài Ấn
Người sinh Bính Đinh lấy Thìn là khố Quan, bởi vì thủy thổ khố ở Thìn vậy. Nên ở trong năm tháng giờ có mộc hoặc có Hợi Mão Mùi cùng Dần lại là thanh. Như không có mộc thì thổ đoạt Quan của Bính Đinh, thì thành trọc mà không thanh, cũng không hiển.
【Ghi chú : Có mộc thì sinh hỏa trợ lực cho Bính. Không có mộc thì hỏa sinh thổ là cướp khí, cho nên có mộc thì trợ giúp Ấn. 】
Luận Quan Sát hỗn tạp phải chế phục
Quan tinh cần thuần không nên tạp. Ví như Giáp mộc dụng Tân kim là Quan, nếu năm là Tân, tháng là Dậu, trụ giờ cũng là Tân Quan, tuy nhiều nhưng không ngại, vì thuần nhất là rất tốt. Nếu có kim hoặc có Canh Thân, thì hỗn tạp thành Sát, lấy tổn thương thân, cần hành đến đất hỏa chế phục thì phát phúc vậy. Còn lại như thế mà suy vậy.
【Ghi chú : Ví như kim phế Tân vượng không có chế, thì không thể thành hại.】