Thập tứ, luận dụng thần phối khí hậu đắc thất (P.1)
Nguyên văn: Luận mệnh duy lấy nguyệt lệnh dụng thần làm chủ, nhưng cũng nên xem phối khí hậu thế nào. Như anh hùng hào kiệt, sanh gặp giờ, tự nhiên việc 1/2 mà công nhiều lần; nghịch giờ, tuy có kì tài, không dễ thành công.
Từ chú: Dụng thần nên được giờ thừa khí, thí dụ như áo thun mùa hạ áo lông cừu mùa đông, được giờ tất quý. Nhưng lại có khi dụng thần tuy thừa vượng khí mà chẳng quý là, tất chịu ảnh hưởng của khí hậu. Nên dùng dụng thần, ngoài phò trợ hay ức chế, tất nên xem thêm có hợp khí hậu, tức là phép điều hậu vậy.
Nguyên văn: Vì thế Ấn thụ gặp Quan, là Quan Ấn song toàn, không ai không quý. Nhưng mộc mùa đông gặp thủy, tuy thấu Quan tinh, cũng khó mà quý, vì đang rét mà thêm nước đá, nước đá không thể sanh mộc, lý là như thế. Thân Ấn đều vượng, thấu Thực tất quý, phàm Ấn cách đều thế. Nhưng dùng đông mộc, vốn là tú khí, lấy đông mộc gặp hỏa, không chỉ có thể tiết thân, mà tức là điều hậu vậy.
Từ chú: Mộc sanh đông lệnh, nguyệt lệnh Ấn thụ, nước đá không thể sanh mộc, thấu Quan tinh tất kim theo thủy thế, càng thêm rét; thấu Tài tinh tất thủy hàn thổ đóng băng, không chút sanh cơ, nên Tài Quan đều không có dụng. Hàn mộc hướng dương, duy gặp Bính Đinh Thực Thương tất quý. Như:
Sát T.Tài Nhật chủ Thực
Canh Mậu Giáp Bính
Dần Tí Dần Dần
Tài Quan đều là nhàn thần, không có dụng, trên trụ giờ Bính hỏa thanh thuần, lấy tiết thân điều hậu làm dụng, vì dụng của đông mộc, càng thêm tú khí. Là trụ của mỗ thượng thư thời tiền Thanh. Thế nên không chỉ có đông mộc, mà đông thổ cũng nên điều hậu, nên nói thổ kim Thương quan sanh ở đông lệnh, tất nên bội Ấn vậy.
Như trụ của tiền Thanh bành cương trực Công Ngọc Lân,
Kiêu Thương Nhật chủ C.Tài
Bính Tân Mậu Quí
Tí Sửu Tí Sửu
Quý Tân trong Sửu thấu ra là quý, nhưng mùa đông thổ hàn, không có Bính hỏa sưởi ấm, tất dụng chẳng hiển. Mừng được trụ năm Bính hỏa, hợp mà không hóa, vận hành nam phương, Bính hỏa đắc địa, nên Mậu thổ Tân Quý, đều được hiển dụng, cũng là kíp điều hòa khí hậu vậy (Trụ trên " mệnh giám " phê rằng, dễ lầm với đảo xung cách, như hiểu thấu; nhờ đó mà hiểu cách cục kì dị xưa nay, phần nhiều như thế. Biết thêm như vậy, đến cả cái lỗi của mình).
Nguyên văn: Thương quan gặp Quan, như trăm mối họa, duy kim thủy gặp được, trái lại thành tú khí. Có Quan nào mà không sợ Thương, nhưng điều hậu là cần kíp, phải tạm dùng vậy. Thương quan đới Sát, tùy giờ có thể dùng, như dùng đông kim, thì đẹp gấp bội.
Từ chú: Ấy là nói kim thủy Thương quan vậy. Nguyệt lệnh Thương quan, vốn lấy Quan sát làm kị, riêng có kim thủy Thương quan, sanh mùa đông, kim hàn thủy lạnh, lấy hỏa làm đẹp, chẳng luận Quan sát vậy. Nên có thêm thân Ấn đều vượng, Tài Quan thông căn, mới thành quý cách. Như :
T.Tài Sát Nhật chủ T.Tài
Giáp Bính Canh Giáp
Thân Tí Thìn Thân
Mộc hỏa không có căn, tuy tiểu phú nhưng mà chẳng quý, tạm không dùng Tài Quan, thân vượng lấy Thương quan tiết tú làm dụng, riêng Bính hỏa điều hậu, giúp phối hợp không thể thiếu được, như không có tất là trụ thanh hàn vậy. Có khi tuy được điều hậu mà thân nhược là như:
T.Tài Thực Nhật chủ T.Tài
Đinh Nhâm Tân Đinh
Tị Tí Tị Dậu
Đinh hỏa tuy thông căn, nhưng nhật nguyên tiết khí quá, nên lấy Dậu kim phò thân là dụng, cũng là quý cách. Tùy nghi phối trí, đều không nhất định, riêng kim thủy mùa đông, không thể thiếu hỏa, không định sẳn dụng.
Nguyên văn: Thương quan bội Ấn, tùy giờ có thể dùng, nhưng dùng mộc mùa hạ, thì đẹp gấp bội, thủy hỏa tương tế vậy
Từ chú: Như thế cũng là có ý điều hậu vậy. Phàm bội Ấn tất nương theo thân nhược, nhưng mộc hỏa Thương quan, sanh mùa hạ thủy là bội Ấn, nhuận thổ sanh mộc, được trung hòa là tốt đẹp. Như :
T.Tài Kiêu Nhật chủ Thương
Canh Nhâm Giáp Đinh
Thìn Ngọ Thìn Mão
Mộc mùa hạ Đinh hỏa như hoa nở, ngày Thìn giờ Mão, thân không nhược, nên mừng Nhâm thủy nhuận trạch, thêm được Canh kim sanh Ấn, 2 Thìn tiết cái táo của hỏa, sanh kim nuôi thủy, phối trí trong hòa, làm thanh Quan sát vậy. Nhưng Giáp Dần tọa lộc (chắc ngày sinh hoặc năm là Dần), giờ gặp Mão mộc, nên nhật nguyên vượng, không thể bội Ấn, nên chỉ quý ít, mà chẳng kể đến bội Ấn tuy đẹp, nếu như ngày là kim thủy thì tất đã mừng gặp hỏa vậy.
Nguyên văn: Luận mệnh duy lấy nguyệt lệnh dụng thần làm chủ, nhưng cũng nên xem phối khí hậu thế nào. Như anh hùng hào kiệt, sanh gặp giờ, tự nhiên việc 1/2 mà công nhiều lần; nghịch giờ, tuy có kì tài, không dễ thành công.
Từ chú: Dụng thần nên được giờ thừa khí, thí dụ như áo thun mùa hạ áo lông cừu mùa đông, được giờ tất quý. Nhưng lại có khi dụng thần tuy thừa vượng khí mà chẳng quý là, tất chịu ảnh hưởng của khí hậu. Nên dùng dụng thần, ngoài phò trợ hay ức chế, tất nên xem thêm có hợp khí hậu, tức là phép điều hậu vậy.
Nguyên văn: Vì thế Ấn thụ gặp Quan, là Quan Ấn song toàn, không ai không quý. Nhưng mộc mùa đông gặp thủy, tuy thấu Quan tinh, cũng khó mà quý, vì đang rét mà thêm nước đá, nước đá không thể sanh mộc, lý là như thế. Thân Ấn đều vượng, thấu Thực tất quý, phàm Ấn cách đều thế. Nhưng dùng đông mộc, vốn là tú khí, lấy đông mộc gặp hỏa, không chỉ có thể tiết thân, mà tức là điều hậu vậy.
Từ chú: Mộc sanh đông lệnh, nguyệt lệnh Ấn thụ, nước đá không thể sanh mộc, thấu Quan tinh tất kim theo thủy thế, càng thêm rét; thấu Tài tinh tất thủy hàn thổ đóng băng, không chút sanh cơ, nên Tài Quan đều không có dụng. Hàn mộc hướng dương, duy gặp Bính Đinh Thực Thương tất quý. Như:
Sát T.Tài Nhật chủ Thực
Canh Mậu Giáp Bính
Dần Tí Dần Dần
Tài Quan đều là nhàn thần, không có dụng, trên trụ giờ Bính hỏa thanh thuần, lấy tiết thân điều hậu làm dụng, vì dụng của đông mộc, càng thêm tú khí. Là trụ của mỗ thượng thư thời tiền Thanh. Thế nên không chỉ có đông mộc, mà đông thổ cũng nên điều hậu, nên nói thổ kim Thương quan sanh ở đông lệnh, tất nên bội Ấn vậy.
Như trụ của tiền Thanh bành cương trực Công Ngọc Lân,
Kiêu Thương Nhật chủ C.Tài
Bính Tân Mậu Quí
Tí Sửu Tí Sửu
Quý Tân trong Sửu thấu ra là quý, nhưng mùa đông thổ hàn, không có Bính hỏa sưởi ấm, tất dụng chẳng hiển. Mừng được trụ năm Bính hỏa, hợp mà không hóa, vận hành nam phương, Bính hỏa đắc địa, nên Mậu thổ Tân Quý, đều được hiển dụng, cũng là kíp điều hòa khí hậu vậy (Trụ trên " mệnh giám " phê rằng, dễ lầm với đảo xung cách, như hiểu thấu; nhờ đó mà hiểu cách cục kì dị xưa nay, phần nhiều như thế. Biết thêm như vậy, đến cả cái lỗi của mình).
Nguyên văn: Thương quan gặp Quan, như trăm mối họa, duy kim thủy gặp được, trái lại thành tú khí. Có Quan nào mà không sợ Thương, nhưng điều hậu là cần kíp, phải tạm dùng vậy. Thương quan đới Sát, tùy giờ có thể dùng, như dùng đông kim, thì đẹp gấp bội.
Từ chú: Ấy là nói kim thủy Thương quan vậy. Nguyệt lệnh Thương quan, vốn lấy Quan sát làm kị, riêng có kim thủy Thương quan, sanh mùa đông, kim hàn thủy lạnh, lấy hỏa làm đẹp, chẳng luận Quan sát vậy. Nên có thêm thân Ấn đều vượng, Tài Quan thông căn, mới thành quý cách. Như :
T.Tài Sát Nhật chủ T.Tài
Giáp Bính Canh Giáp
Thân Tí Thìn Thân
Mộc hỏa không có căn, tuy tiểu phú nhưng mà chẳng quý, tạm không dùng Tài Quan, thân vượng lấy Thương quan tiết tú làm dụng, riêng Bính hỏa điều hậu, giúp phối hợp không thể thiếu được, như không có tất là trụ thanh hàn vậy. Có khi tuy được điều hậu mà thân nhược là như:
T.Tài Thực Nhật chủ T.Tài
Đinh Nhâm Tân Đinh
Tị Tí Tị Dậu
Đinh hỏa tuy thông căn, nhưng nhật nguyên tiết khí quá, nên lấy Dậu kim phò thân là dụng, cũng là quý cách. Tùy nghi phối trí, đều không nhất định, riêng kim thủy mùa đông, không thể thiếu hỏa, không định sẳn dụng.
Nguyên văn: Thương quan bội Ấn, tùy giờ có thể dùng, nhưng dùng mộc mùa hạ, thì đẹp gấp bội, thủy hỏa tương tế vậy
Từ chú: Như thế cũng là có ý điều hậu vậy. Phàm bội Ấn tất nương theo thân nhược, nhưng mộc hỏa Thương quan, sanh mùa hạ thủy là bội Ấn, nhuận thổ sanh mộc, được trung hòa là tốt đẹp. Như :
T.Tài Kiêu Nhật chủ Thương
Canh Nhâm Giáp Đinh
Thìn Ngọ Thìn Mão
Mộc mùa hạ Đinh hỏa như hoa nở, ngày Thìn giờ Mão, thân không nhược, nên mừng Nhâm thủy nhuận trạch, thêm được Canh kim sanh Ấn, 2 Thìn tiết cái táo của hỏa, sanh kim nuôi thủy, phối trí trong hòa, làm thanh Quan sát vậy. Nhưng Giáp Dần tọa lộc (chắc ngày sinh hoặc năm là Dần), giờ gặp Mão mộc, nên nhật nguyên vượng, không thể bội Ấn, nên chỉ quý ít, mà chẳng kể đến bội Ấn tuy đẹp, nếu như ngày là kim thủy thì tất đã mừng gặp hỏa vậy.