Nhị thập, luận sanh khắc tiên hậu phân cát hung (P.1)
Nguyên văn: Nguyệt lệnh dụng thần, phối với tứ trụ, mỗi 1 chữ lấy sanh khắc mà chia ra cát hung, nhưng có khi cùng là sanh khắc, mà đóng ở trước hay sau cũng chia ra cát hung nữa, mệnh thật là áo diệu vậy.
Từ chú: Địa vị trước hay sau, rất là khẩn yếu, có khi cùng 1 bát tự, mà ở chỗ này là cát, ở chỗ kia là hung, ở chỗ này có thể dùng, ở chỗ kia không thể dùng, nghèo giàu, sang hèn, thọ yểu tuyệt nhiên bất đồng. Biến hóa vô định, chẳng có công thức để mà thuyết minh. Toàn ở sanh khắc chế hóa, như nói Quan kị Thương, Ấn kị Tài, đều là áp dụng 1 cách ngu ngốc, cốt ở trình tự trước sau, tất theo hoạt pháp. Ngốc pháp nói được, mà hoạt pháp không có gì để nói, người còn thần minh, học giả lấy thực tập mà tự ngộ.
Như trụ của tôi (Từ Nhạc Ngô): Bính Tuất, Nhâm Thìn, Bính Thân, Bính Thân, sanh sau Thanh minh 1 ngày, Ất mộc dư khí còn dùng được, lấy Ấn hóa Sát (xem "mệnh giám"), năm nay đã tới tuổi tri mệnh, như sanh 20 ngày sau Thanh minh, thổ vượng thì không luận dụng thần như vậy. Em họ tôi, Bính Tuất, Bính Thân, Bính Thân, Nhâm Thìn, bát tự hoàn toàn như nhau, nhưng sanh tháng 7, Ất mộc hưu tù, không thể là dụng, lấy Tài gánh sát công thân, thanh niên chết yểu. Ấy là 1 ví dụ.
Nguyên văn: Như Chánh quan cùng gặp Tài Thương đều thấu, mà trước sau có khác nhau. Như Giáp dụng Dậu Quan, Đinh trước Mậu sau, tất lấy Tài hóa giải Thương, tức tuy không thể quý, nhưng hậu vận tất có kết cục. Nhược Mậu trước mà Đinh sau ở giờ thì, tất là Quan gặp Tài sanh, nhưng vì về sau bị thương phá, tức thuận theo vận trên thì, về sau chẳng có kết cục, con cháu khó khăn hĩ.
Từ chú: Chánh quan cách gặp Thương, thấu Tài được giải. Nhưng cũng có khi không giải nổi, là vì trình tự trước sau có khác biệt vậy.
Thương C.Tài Nhật chủ T. Tài
Đinh Kỉ Giáp Mậu
.......Dậu........Thìn
Tài vượng sanh Quan, Thương quan tiết khí ở Tài, Quan tinh không hề tổn chút nào. Như thay đổi ngôi vị, như ví dụ sau:
T. Tài Quan Nhật chủ Thương
Mậu Tân Giáp Đinh
.......Dậu Thìn Mão
Tức là tài sanh Quan mà gặp phải thương phá vậy. Lại cũng có khi tuy là Đinh trước Mậu sau, mà cũng không giải nổi, như:
Quan Thương Nhật chủ T. Tài
Tân Đinh Giáp Mậu
......Dậu Ngọ Thìn
Tân kim thấu xuất ở năm, Dậu kim trùm đầu Đinh hỏa, tuy có Mậu thổ ở giờ, cũng không giải nổi, vì hỏa kề cận vậy. Lại như:
Kiêu C. Tài Nhật chủ Thương
Nhâm Kỉ Giáp Đinh
........Dậu Thìn Mão
Tuy đinh hỏa Thương quan tại giờ, lại chẳng hại Quan tinh, nhờ có được Kỷ thổ hóa Thương, Nhâm Ấn hợp Thương nên giải được. Năm Đinh giờ Nhâm cũng vậy.
Lấy tài hóa Thương là như thế, so với lấy Ấn chế Thương hộ Quan, lý như nhau. Như:
Tỉ Ấn Nhật chủ Thương
Giáp Quí Giáp Đinh
.......Dậu Thìn Mão
Đinh hỏa Thương quan, bị Quý Ấn chế, chẳng hại nổi Quan tinh. Như đổi lại là năm Kỷ, tất Ấn bị Tài phá, hỏa lại thành Thương quan hĩ. Lại như:
Ấn Quan Nhật chủ Thương
Quí Tân Giáp Đinh
......Dậu Thìn Mão
Tuy có Quý thủy Ấn, nhưng Đinh hỏa vẫn thương tổn Quan tinh, là vì ngăn cách vậy; Quan tinh gặp trước tiên phải bị thương, Ấn không đủ cứu hộ nổi hĩ.
Nguyên văn: Nguyệt lệnh dụng thần, phối với tứ trụ, mỗi 1 chữ lấy sanh khắc mà chia ra cát hung, nhưng có khi cùng là sanh khắc, mà đóng ở trước hay sau cũng chia ra cát hung nữa, mệnh thật là áo diệu vậy.
Từ chú: Địa vị trước hay sau, rất là khẩn yếu, có khi cùng 1 bát tự, mà ở chỗ này là cát, ở chỗ kia là hung, ở chỗ này có thể dùng, ở chỗ kia không thể dùng, nghèo giàu, sang hèn, thọ yểu tuyệt nhiên bất đồng. Biến hóa vô định, chẳng có công thức để mà thuyết minh. Toàn ở sanh khắc chế hóa, như nói Quan kị Thương, Ấn kị Tài, đều là áp dụng 1 cách ngu ngốc, cốt ở trình tự trước sau, tất theo hoạt pháp. Ngốc pháp nói được, mà hoạt pháp không có gì để nói, người còn thần minh, học giả lấy thực tập mà tự ngộ.
Như trụ của tôi (Từ Nhạc Ngô): Bính Tuất, Nhâm Thìn, Bính Thân, Bính Thân, sanh sau Thanh minh 1 ngày, Ất mộc dư khí còn dùng được, lấy Ấn hóa Sát (xem "mệnh giám"), năm nay đã tới tuổi tri mệnh, như sanh 20 ngày sau Thanh minh, thổ vượng thì không luận dụng thần như vậy. Em họ tôi, Bính Tuất, Bính Thân, Bính Thân, Nhâm Thìn, bát tự hoàn toàn như nhau, nhưng sanh tháng 7, Ất mộc hưu tù, không thể là dụng, lấy Tài gánh sát công thân, thanh niên chết yểu. Ấy là 1 ví dụ.
Nguyên văn: Như Chánh quan cùng gặp Tài Thương đều thấu, mà trước sau có khác nhau. Như Giáp dụng Dậu Quan, Đinh trước Mậu sau, tất lấy Tài hóa giải Thương, tức tuy không thể quý, nhưng hậu vận tất có kết cục. Nhược Mậu trước mà Đinh sau ở giờ thì, tất là Quan gặp Tài sanh, nhưng vì về sau bị thương phá, tức thuận theo vận trên thì, về sau chẳng có kết cục, con cháu khó khăn hĩ.
Từ chú: Chánh quan cách gặp Thương, thấu Tài được giải. Nhưng cũng có khi không giải nổi, là vì trình tự trước sau có khác biệt vậy.
Thương C.Tài Nhật chủ T. Tài
Đinh Kỉ Giáp Mậu
.......Dậu........Thìn
Tài vượng sanh Quan, Thương quan tiết khí ở Tài, Quan tinh không hề tổn chút nào. Như thay đổi ngôi vị, như ví dụ sau:
T. Tài Quan Nhật chủ Thương
Mậu Tân Giáp Đinh
.......Dậu Thìn Mão
Tức là tài sanh Quan mà gặp phải thương phá vậy. Lại cũng có khi tuy là Đinh trước Mậu sau, mà cũng không giải nổi, như:
Quan Thương Nhật chủ T. Tài
Tân Đinh Giáp Mậu
......Dậu Ngọ Thìn
Tân kim thấu xuất ở năm, Dậu kim trùm đầu Đinh hỏa, tuy có Mậu thổ ở giờ, cũng không giải nổi, vì hỏa kề cận vậy. Lại như:
Kiêu C. Tài Nhật chủ Thương
Nhâm Kỉ Giáp Đinh
........Dậu Thìn Mão
Tuy đinh hỏa Thương quan tại giờ, lại chẳng hại Quan tinh, nhờ có được Kỷ thổ hóa Thương, Nhâm Ấn hợp Thương nên giải được. Năm Đinh giờ Nhâm cũng vậy.
Lấy tài hóa Thương là như thế, so với lấy Ấn chế Thương hộ Quan, lý như nhau. Như:
Tỉ Ấn Nhật chủ Thương
Giáp Quí Giáp Đinh
.......Dậu Thìn Mão
Đinh hỏa Thương quan, bị Quý Ấn chế, chẳng hại nổi Quan tinh. Như đổi lại là năm Kỷ, tất Ấn bị Tài phá, hỏa lại thành Thương quan hĩ. Lại như:
Ấn Quan Nhật chủ Thương
Quí Tân Giáp Đinh
......Dậu Thìn Mão
Tuy có Quý thủy Ấn, nhưng Đinh hỏa vẫn thương tổn Quan tinh, là vì ngăn cách vậy; Quan tinh gặp trước tiên phải bị thương, Ấn không đủ cứu hộ nổi hĩ.