Chương 33. Luận Tài
tuhynhan, 4.10.2012
Nguyên văn:
Tài là vật bị ta khắc chế để sử dụng, có thể sinh Quan, cho nên là điều tốt đẹp. Tài là tài bạch (tiền bạc), là thê thiếp, là tài năng, là Dịch mã, đều thuộc Tài.
Từ chú thích:
Tài là vật ta khắc chế, nên thân phải cường vượng thì mới có thể khắc chế nó được. Nếu thân nhược, tuy có Tài cũng không thể gánh được, trái lại Tài là họa. Tài là thứ không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, nhưng nhất định phải có tài năng và thế lực thì mới giữ vững để vận dụng, mới có thể bảo vệ phúc phận; ngược lại, nếu không bị tiểu nhân hãm hại, cũng là hạng vướng lao lý, tù tội mà thôi. Ở cách cục, dùng một mình Tài (đơn dụng Tài) rất ít, như thân cường lộ Quan, dụng Tài sinh Quan; thân cường Sát nhược, dụng Tài sinh Sát; thân cường Ấn vượng, dụng Tài chế Ấn. Trường hợp thân cường mà hỉ Thực Thương, dụng Thực Thương sinh Tài; Tài vượng thân nhược, dụng Tỷ Kiếp tranh Tài thì tốt đẹp. Tất cả đều không dùng duy nhất Tài.
Nguyên văn:
Tài hỉ rễ sâu (căn thâm), nhưng không nên quá lộ, được một Tài thấu ra làm dụng là thanh thuần, gọi là "thanh dụng", cách này tối hỷ, không gọi là lộ. Nghĩa là không phải dụng thần nguyệt lệnh, như (tháng) dần thấu Ất, mão thấu Giáp, v.v..., nếu chỉ có một cũng không quá mức, quá nhiều thì gọi là lộ. Song Tài vượng sinh Quan, lộ cũng không kị, vì lộ để phòng Kiếp, sinh Quan thì Kiếp thoái, ví như kho tiền lương ở phủ có quan canh giữ, cho dù để lộ ra thì ai dám cướp giật? Như mệnh quan Tham chính họ Cát: Nhâm Thân / Nhâm Tý / Mậu Ngọ / Ất Mão. Chẳng lẽ không phải Tài lộ sao? Chỉ vì sinh Quan cho nên không kị.
Từ chú thích:
"Rễ sâu", nghĩa là tàng ở trong địa chi, nếu thiên can là Tài, mà vô căn ở địa chi là thành "phù Tài" (tài sản luôn hoán đổi/của nổi, trong ý "của chìm của nổi"), không đủ để làm dụng. Dụng là Tài thì không thể bị cướp đoạt, nếu chỉ dùng một mình Tài làm dụng thì không được gặp Tỷ Kiếp.
Cát mệnh tý thân hội cục, Nhâm thủy thông căn đắc khí, thời thấu Ất mão Quan tinh, thân vượng tọa Ấn, lấy Tài sinh Quan làm dụng, có Quan hộ Tài, đương nhiên không kị Tỷ Kiếp. Thuật Tử bình lấy đề cương làm trọng, nguyệt viên Tài tinh nắm lệnh, nên thuộc về Tài, chứ thực tế không phải lấy Tài làm dụng, Tài chỉ làm hỷ thần mà thôi. Đối với dụng Thực Thương sinh Tài không kị Tỷ Kiếp vì có Thực Thương hóa Kiếp.
Nguyên văn:
Quý cục của Tài cách không như nhau, như đối với trường hợp Tài vượng sinh Quan thì thân cường mà không thấu Thương Quan, không hỗn tạp Thất sát là quý cách.
Từ chú thích:
Tài vượng sinh Quan, dụng thần ở Quan, nên phải không thấu Thương Quan, không hỗn Thất sát thì tốt. Còn như lấy Tài là dụng thần thì phải hỷ Thương Quan sinh Tài tinh.
Như:
Tài vượng sinh Quan, dụng thần ở Tài, mặc dù thấu Kỷ thổ Thương Quan và tị dậu củng hợp, khí Kỷ thổ tiết cho kim, nghĩa là Thương Quan sinh Tài, Tài sinh Quan, hơn nữa mừng Quan gần Tài (Quý lâm dậu), không kị Kỷ thổ tổn hại, thành ra danh lợi lưỡng toàn.
Nguyên văn:
Trường hợp Tài dụng Thực sinh nghĩa là thân cường và Quan không lộ, mang một chút ít Tỷ Kiếp càng thấy hữu tình.
Như:
(Chú thích bổ sung:
Tài cách kiến Thất Sát vốn e ngại đảng Sát, hỷ kiến Thực Thần thì Tị hỏa hóa thành Thiên Quan, Kiếp tài không đủ lực, nguyên luận trọng tâm ở Thực Thần hóa Kiếp, phao tin Tị hỏa bất luận, hơi thiên lệch.
Thực Thương hỷ Tài sinh tất lấy Tài tinh làm dụng, khi thành dụng bất hỷ Quan Sát tương lâm thành tổ hợp bát tự không đương nổi, Quan sát tiết Tài thành bất mỹ. Như Thân cường có Tỉ Kiếp thì bất kỵ Tài vượng, khả dĩ nhậm Tài, nếu như vô Tỉ Kiếp và Tài tinh chế Ấn thì xấu. Dương tạo nguyệt lệnh Tài vượng, nhật nguyên tọa Thìn thổ Tân kim bang Thân, đủ để nhậm Tài. Địa chi Quan Ấn tương sinh hữu tình.)
Từ chú thích:
Thực thần sinh Tài thì dụng ở Thực thần, nên không lấy việc lộ Quan tinh làm quý. Tỷ Kiếp sinh Thực Thương, càng thấy hữu tình. Nếu dụng Tài chả lẽ hợp với Tỷ Kiếp ư? Tứ trụ họ Dương Canh kim tọa Ấn, tiết tú cho Nhâm; mùa xuân mộc mới manh nha nảy mầm, dựa vào thủy để bồi dưỡng, tú khí lưu thông; dần tị tàng hỏa, khí tượng ấm áp, mộc được nuôi dưỡng. Nếu Bính hỏa thấu thì thích hợp dụng Quan, không thể lấy Thực thần sinh Tài làm dụng.
tuhynhan, 4.10.2012
Nguyên văn:
Tài là vật bị ta khắc chế để sử dụng, có thể sinh Quan, cho nên là điều tốt đẹp. Tài là tài bạch (tiền bạc), là thê thiếp, là tài năng, là Dịch mã, đều thuộc Tài.
Từ chú thích:
Tài là vật ta khắc chế, nên thân phải cường vượng thì mới có thể khắc chế nó được. Nếu thân nhược, tuy có Tài cũng không thể gánh được, trái lại Tài là họa. Tài là thứ không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, nhưng nhất định phải có tài năng và thế lực thì mới giữ vững để vận dụng, mới có thể bảo vệ phúc phận; ngược lại, nếu không bị tiểu nhân hãm hại, cũng là hạng vướng lao lý, tù tội mà thôi. Ở cách cục, dùng một mình Tài (đơn dụng Tài) rất ít, như thân cường lộ Quan, dụng Tài sinh Quan; thân cường Sát nhược, dụng Tài sinh Sát; thân cường Ấn vượng, dụng Tài chế Ấn. Trường hợp thân cường mà hỉ Thực Thương, dụng Thực Thương sinh Tài; Tài vượng thân nhược, dụng Tỷ Kiếp tranh Tài thì tốt đẹp. Tất cả đều không dùng duy nhất Tài.
Nguyên văn:
Tài hỉ rễ sâu (căn thâm), nhưng không nên quá lộ, được một Tài thấu ra làm dụng là thanh thuần, gọi là "thanh dụng", cách này tối hỷ, không gọi là lộ. Nghĩa là không phải dụng thần nguyệt lệnh, như (tháng) dần thấu Ất, mão thấu Giáp, v.v..., nếu chỉ có một cũng không quá mức, quá nhiều thì gọi là lộ. Song Tài vượng sinh Quan, lộ cũng không kị, vì lộ để phòng Kiếp, sinh Quan thì Kiếp thoái, ví như kho tiền lương ở phủ có quan canh giữ, cho dù để lộ ra thì ai dám cướp giật? Như mệnh quan Tham chính họ Cát: Nhâm Thân / Nhâm Tý / Mậu Ngọ / Ất Mão. Chẳng lẽ không phải Tài lộ sao? Chỉ vì sinh Quan cho nên không kị.
Từ chú thích:
"Rễ sâu", nghĩa là tàng ở trong địa chi, nếu thiên can là Tài, mà vô căn ở địa chi là thành "phù Tài" (tài sản luôn hoán đổi/của nổi, trong ý "của chìm của nổi"), không đủ để làm dụng. Dụng là Tài thì không thể bị cướp đoạt, nếu chỉ dùng một mình Tài làm dụng thì không được gặp Tỷ Kiếp.
Nhâm Thân / Nhâm Tý / Mậu Ngọ / Ất Mão
Cát mệnh tý thân hội cục, Nhâm thủy thông căn đắc khí, thời thấu Ất mão Quan tinh, thân vượng tọa Ấn, lấy Tài sinh Quan làm dụng, có Quan hộ Tài, đương nhiên không kị Tỷ Kiếp. Thuật Tử bình lấy đề cương làm trọng, nguyệt viên Tài tinh nắm lệnh, nên thuộc về Tài, chứ thực tế không phải lấy Tài làm dụng, Tài chỉ làm hỷ thần mà thôi. Đối với dụng Thực Thương sinh Tài không kị Tỷ Kiếp vì có Thực Thương hóa Kiếp.
Nguyên văn:
Quý cục của Tài cách không như nhau, như đối với trường hợp Tài vượng sinh Quan thì thân cường mà không thấu Thương Quan, không hỗn tạp Thất sát là quý cách.
Từ chú thích:
Tài vượng sinh Quan, dụng thần ở Quan, nên phải không thấu Thương Quan, không hỗn Thất sát thì tốt. Còn như lấy Tài là dụng thần thì phải hỷ Thương Quan sinh Tài tinh.
Như:
Kỷ tị / Quý dậu / Bính dần / Canh dần
Tài vượng sinh Quan, dụng thần ở Tài, mặc dù thấu Kỷ thổ Thương Quan và tị dậu củng hợp, khí Kỷ thổ tiết cho kim, nghĩa là Thương Quan sinh Tài, Tài sinh Quan, hơn nữa mừng Quan gần Tài (Quý lâm dậu), không kị Kỷ thổ tổn hại, thành ra danh lợi lưỡng toàn.
Nguyên văn:
Trường hợp Tài dụng Thực sinh nghĩa là thân cường và Quan không lộ, mang một chút ít Tỷ Kiếp càng thấy hữu tình.
Như:
Nhâm dần / Nhâm dần / Canh thìn / Tân tị
Đây là mệnh quan Thị lang họ Dương. Thấu Quan thân nhược, thì cách phá hư vậy.
Đây là mệnh quan Thị lang họ Dương. Thấu Quan thân nhược, thì cách phá hư vậy.
(Chú thích bổ sung:
Tài cách kiến Thất Sát vốn e ngại đảng Sát, hỷ kiến Thực Thần thì Tị hỏa hóa thành Thiên Quan, Kiếp tài không đủ lực, nguyên luận trọng tâm ở Thực Thần hóa Kiếp, phao tin Tị hỏa bất luận, hơi thiên lệch.
Thực Thương hỷ Tài sinh tất lấy Tài tinh làm dụng, khi thành dụng bất hỷ Quan Sát tương lâm thành tổ hợp bát tự không đương nổi, Quan sát tiết Tài thành bất mỹ. Như Thân cường có Tỉ Kiếp thì bất kỵ Tài vượng, khả dĩ nhậm Tài, nếu như vô Tỉ Kiếp và Tài tinh chế Ấn thì xấu. Dương tạo nguyệt lệnh Tài vượng, nhật nguyên tọa Thìn thổ Tân kim bang Thân, đủ để nhậm Tài. Địa chi Quan Ấn tương sinh hữu tình.)
Từ chú thích:
Thực thần sinh Tài thì dụng ở Thực thần, nên không lấy việc lộ Quan tinh làm quý. Tỷ Kiếp sinh Thực Thương, càng thấy hữu tình. Nếu dụng Tài chả lẽ hợp với Tỷ Kiếp ư? Tứ trụ họ Dương Canh kim tọa Ấn, tiết tú cho Nhâm; mùa xuân mộc mới manh nha nảy mầm, dựa vào thủy để bồi dưỡng, tú khí lưu thông; dần tị tàng hỏa, khí tượng ấm áp, mộc được nuôi dưỡng. Nếu Bính hỏa thấu thì thích hợp dụng Quan, không thể lấy Thực thần sinh Tài làm dụng.