KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Bình chú: Hoàng Đại Lục

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyBình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Tứ Ngôn Độc Bộ bình chú

Tác giả: Hoàng Đại Lục
Sưu tầm và biên dịch: LeSoi


(http://blog.sina.com.cn/s/blog_4d4f37290102ee7v.html)

( Tập một )

《 Tứ Ngôn độc bộ 》 một bài văn không biết ai biên soạn và ở thời kì nào, thảo luận hết sức tinh vi kĩ càng, lời giải hết sức độc đáo, đối với giới mệnh học ảnh hưởng rất lớn, được đông đảo những người yêu thích Tử Bình rất ái mộ. Rất nhiều mệnh sư giang hồ khảo sát thành bí quyết gối đầu, quả thật tiến lên bậc thềm của Tử Bình chuyên nhất cần phải đọc sách gốc. Tác giả xem kĩ càng bài văn này hơn 10 lần, gặt hái được rất nhiều ích lợi, tuy cảm thấy không thiếu khuyết điểm, nhưng khuyết điểm không che được nhiều ưu điểm nổi bật, vẫn không mất làm thành một viên ngọc tỏa sáng giành được mục đích là báu vật của môn Tử Bình. Trở thành chỗ sử dụng cho kẻ hậu học tách khỏi sai lầm khi luận mệnh theo lối "Bình hành dụng thần", bước vào Tử Bình chính đạo, đặc biệt tác phẩm được bình chú như sau:

Chính văn:
Tiên thiên hà xứ,
Hậu thiên hà xứ,
Yếu tri lai xứ,
Tiện tri khử xứ.


Đại lục bình chú:
Vận mệnh con người, đã được định trước ở Tiên thiên, mở ra ở Hậu thiên. Nhưng Tiên thiên đến từ nơi nào? Hậu thiên lại đi từ đâu? Nếu như chúng ta đã biết chỗ đến, thì chúng ta sẽ biết chỗ đi. Con người, tất cả đều từ bên trong khe hở của tảng đá đi ra, và là tế bào sao chép lại đi ra từ thế hệ tổ tiên ông bà, mỗi ngườì chúng ta cũng chỉ là xuất phát từ một chủng tộc lâu đời được di truyền lại như nối từng đoạn mắt xích của một sợi dây xích một cách trật tự , hơn nữa phần nhiều là do quyết định ở trên đoạn mắc xích đó xuống dưới tất cả từng đoạn mắc xích. Khoa học hiện đại đã chứng minh là đúng, quá trình thai nhi phát dục là một hình ảnh nhỏ ghi lại lịch sử tiến hóa của loài người, thuyết minh các thời kì tổ tiên này cũng không có cách chúng ta là quá xa, gien di truyền của họ đã lưu lại tồn tại vào bên trong mỗi tế bào thân thể của chúng ta. Mật mã DNA bí ẩn khó lường đã được xác định qua phần mềm máy vi tính, thông qua trình tự thao tác trên máy vi tính sẽ kiểm soát đúng một lúc hành vi suy nghĩ của chúng ta. Khi chúng ta còn theo trong bụng mẹ đến khoảnh khoắc bắt đầu khóc oa oa khi chào đời, vận mệnh đã bắt đầu mở ra là giai đoạn Hậu thiên.

Nguyên nhân chính là vận mệnh đã có định trước giới tính của Tiên thiên, có thể dự đoán trước giới tính rồi mới có Hậu thiên. Tất cả sự vật không thể dự đoán là không có quy luật. Có biết nơi đến, thì mới có thể biết được lối đi. Vật có đầu có cuối, sự việc ắt có thủy có chung, biết trước biết sau, thì gần với đạo vậy. Học thuật Tử bình chính là đọc mà giải thích gien di truyền Tiên thiên, dự đoán hướng đi của vận mệnh Hậu thiên là kỹ thuật độc đáo và thần kì hạng nhất. Ở ngày sinh trong Bát tự, trụ năm là cung Tổ tiên ông bà, trụ tháng là cung Phụ Mẫu, trụ ngày là cung Phu Thê, trụ giờ là cung Tử tức. Cho nên trụ năm trụ tháng là đại biểu nơi đến của Tiên thiên, trụ ngày trụ giờ là đại biểu nơi đi của Hậu thiên. Muốn biết được tiền đồ của bản thân cùng con cháu, thì trước hết cần phải xem Tiên thiên ở cung Tổ tông, Phụ mẫu đã mang đến cho bạn được những điều gì, bạn có thể thừa kế được những điều gì. Là làm quan hay là kinh thương, là nghề văn hay là nghề võ, là thành thật hay là giả dối, là nho nhã hay là thô tục, là làm biếng hay là siêng năng, … tất cả chỗ này đều dựa theo trụ năm, trụ tháng trong cung Tổ tông, Phụ Mẫu thì tìm được nguồn gốc. Thấy rõ cội nguồn, thì dễ dàng thấy rõ chỗ đi của trụ ngày và trụ giờ. Nguồn gốc có Tài Quan Ấn Thực, trụ ngày giờ có phụ tá, thì có thể kế thừa cái trước mà sáng tạo ra cái mới, mà từ đó phát huy. Nguồn gốc có Sát Thương Kiêu Nhận, trụ ngày giờ có ức chế ràng buộc, thì có thể Hàng Long phục Hổ, vượt hẳn mọi người. Tách mệnh vận ra mà luận, thì Mệnh là Tiên thiên nơi đến, Vận là Hậu thiên nơi đi. Mệnh giống như mầm của cây, Vận giống như tiết khí bốn mùa thay đổi. Đã biết loại hình cùng phẩm chất mầm giống, thì đã biết lúc thời tiết khai hoa kết quả, cũng đã biết cuối cùng nó có thể trở thành vật liệu gì, có khả năng có tác dụng gì.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Tứ trụ bài định,
Tam tài thứ phân,
Nhật can vi chủ,
Phối hợp nguyên thần.


Đại lục bình chú:
Sau khi sắp xếp bát tự tứ trụ theo năm tháng ngày giờ, cần phải phân ra Tam Tài để luận mệnh, vậy Tam Tài là cái gì? Tức là Thiên Địa Nhân. Thiên can là đại biểu khí lưu hành ở trên trời, là Thiên Nguyên; Địa chi là đại biểu khí lưu hành ở dưới đất, là Địa Nguyên; Can tàng thì đại biểu khí lưu hành ở giữa trời đất, là Nhân Nguyên.
Vậy lấy cái gì là đại biểu cho bản thân mệnh chủ? Lấy Nhật can. Cho nên viết "Dĩ nhật vi chủ" .

Chú ý! Chỗ này nói "Dĩ nhật vi chủ" là khác với Lý Hư Trung lấy trụ năm làm chủ mà nói. Lý Hư Trung thời nhà Đường đã sáng tạo thuật nạp âm ngũ hành để đoán mệnh, lấy trụ năm nạp âm ngũ hành đại biểu cho mệnh chủ. Thí dụ như người sinh năm 1980, có can chi là Canh Thân, nạp âm ngũ hành là Thạch Lựu Mộc, thì luận là mệnh mộc, còn lại ba trụ tháng, ngày và giờ thì là bao quanh trụ năm mệnh mộc để luận sinh khắc. Hiện tại còn có không ít mệnh sư "Manh phái" vẫn tiếp tục kéo dài sử dụng phép này. Cho nên quan Khâm Thiên Giám hai triều Minh Thanh chính là do chỗ Qua Thừa Khoa tiên sinh hiệu đính thành 《 Tử Bình Uyên Hải đại toàn 》trong có chỉ ra rằng: "Thế chi đàm tam mệnh giả giai cổ pháp, vãng vãng đa dĩ niên vi chủ, dĩ thai nguyên, nạp âm, tiểu vận vi luận, tắc khả tri vạn ức phú quý tương đồng giả, mậu hĩ! Cố tử bình chi pháp, chuyên dĩ sinh nhật thiên nguyên vi chủ..." ( Thế hệ bàn về Tam mệnh đều xuất phát từ phương pháp ở sách xưa, phần đa thường lấy trụ năm làm chủ, lấy Thai Nguyên, nạp âm, tiểu vận để luận, thì cũng biết hàng tỉ người phú quý là giống nhau, là sai lầm rồi! Cho nên phép Tử Bình chuyên lấy Thiên nguyên ngày sinh làm chủ, …), có thể thấy, ý tứ của thuyết Tử Bình là lấy "Nhật can vi chủ", là vì đã cùng phương pháp của Lý Hư Trung "Dĩ niên vi chủ" để tách ra phân biệt, cũng không phải là chỗ lý giải của Nhậm Thiết Tiều, Từ Nhạc Ngô luận loại "Bình hành dụng thần" ( cân bằng dụng thần) như vậy, giải thích 7 chữ đều phải quấn quanh Nhật nguyên, Nhật nguyên nhược thì phải phù, Nhật nguyên cường thì phải ức, muốn tìm một cái có thể phù ức chỗ Nhật nguyên gọi là "Bình hành dụng thần" mà ra. Tác giả《 Thần Phong thông khảo 》ở trong đoạn văn "Tự tự" giải thích rất rõ ràng : "Nguyệt lệnh vi dụng thần, tuế thời vi phụ tá. Hu! Mệnh thư chi tác, chí thử tận hĩ. Cái ngũ tinh chi thuyết, chỉ thị dĩ sinh niên vi chủ, nguyệt dữ nhật thời hoặc di yên; hoặc dĩ nạp âm vi chủ, can dữ chi hoặc di yên. Thục nhược tử bình chi lý, độc đắc kỳ trung..." ( Nguyệt lệnh là dụng thần, trụ năm, giờ là phụ tá. Làm mệnh thự, đến chỗ này là hết vậy ( tiếng than thở). Cái thuyết Ngũ Tinh, chỉ là lấy năm sinh làm chủ, tháng cùng ngày giờ có lẽ quên chỗ này; hoặc lấy nạp âm làm chủ, can và chi có lẽ lại quên đi. Ai thuận theo lý lẽ Tử Bình, chỉ một mình được trong đó …), ông ấy chỉ rõ ra lấy năm sinh nạp âm làm chủ luận mệnh là phương pháp thiếu khuyết, phép nói của Tử Bình thì là lấy "Nguyệt lệnh vi dụng thần, tuế thời vi phụ tá" . Nói cách khác là, trụ năm và giờ không phải chỉ là phụ tá Nhật nguyên, mà là phụ tá Nguyệt lệnh dụng thần! "Nguyên thần" tức là Thời thần, "Phối hợp nguyên thần" chính là ý tứ lấy Thời thần ( canh giờ) phối hợp với nguyệt lệnh dụng thần. Điểm trực tiếp giải thích, là phối hợp Nhật nguyên cùng Nguyệt lệnh cấu thành cách cục. Là toàn bộ xoay quanh Nguyệt lệnh!

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Thần Sát tương bạn,
Khinh trọng giảo lượng,
Tiên quan nguyệt lệnh,
Luận cách suy tường.


Đại lục bình chú:
Xem mệnh, trước tiên theo khởi từ nơi nào chứ? Là theo Nguyệt lệnh. Theo Nguyệt lệnh để xem cái gì chứ? Là xem dụng thần.
《 Kế Thiện thiên 》nói: "Thủ dụng bằng vu sinh nguyệt, đương suy cứu vu thâm thiển. Phát giác tại vu nhật thời, yếu tiêu tường vu cường nhược" ( Thủ dụng dựa vào tháng sinh, phải nghiên cứu suy ra ở nông hay sâu. Phát hiện ở chỗ ngày và giờ, cần phải hiểu rõ nơi cường nhược). Ý nghĩ chính là dụng thần phải theo Nguyệt lệnh mà lấy, vượng suy phải dựa vào thời tiết tháng mà đoán.
Tại sao phải theo Nguyệt lệnh lấy dụng thần chứ? Là do Nguyệt lệnh là cùng Phụ mẫu, tất cả con người đều là do cha mẹ sinh ra, cho nên cung Phụ Mẫu mang theo thông tin di truyền của Tiên thiên. Xem mệnh trước tiên phải xem cha mẹ của bạn đã di truyền lại cho bạn cái gì, hoặc là nói giúp bạn cần phải nhớ cách đối nhân xử thế, tạo nên sự nghiệp, trước phải xem trong gia đình có điều gì có thể cho bạn chỗ sử dụng. Giả sử như tổ tông, phụ mẫu của bạn đang là đại quan, thì bạn liền có ngay bộ óc làm chính trị, theo chính trị đó là con đường tắt nhất; tổ tông, phụ mẫu của bạn đã phát tài lớn rồi, thì bạn liền có thủ đoạn kiếm tiền, đường kinh thương liền là của tốt nhất; tổ tông, phụ mẫu của bạn là diễn viên điện ảnh, thì bạn liền có tế bào nghệ thuật, theo nghệ thuật thì có chỗ đệm mà nằm ….
Chỗ dụng thần này tất cả đều là tốt hay sao? Là không phải. Dụng thần là tuyển chọn theo ở trong Thập thần, mà Thập thần thì có tốt có xấu, Tài Quan Ấn Thực là tứ cát thần, đơn giản gọi là Thần; Sát Thương Kiêu Nhận là tứ hung thần, đơn giản gọi là Sát. Tập quán người xưa thường lấy chỗ tốt mà gọi là Thần, chỗ hung gọi là Sát, như Thổ địa là Thần, Thái tuế là Sát , … cho nên viết "Thần Sát tương bạn" .

《 Hỉ Kị thiên 》 giải thích câu "Thần sát tương bạn" viết: "Thần là Quý nhân vậy, còn Sát là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, thì xem tiết khí nông hay sâu, hoặc là khử Quan lưu Sát, hoặc là hợp Sát lưu Quan". Ý là Tướng thần là làm Chính Quan, Sát là làm Thất Sát, tính toán khinh hay trọng ( nhẹ hay nặng) mà quyết định lấy hay bỏ. Nhưng cần phải xem rõ chữ ở trên ở dưới là có liên quan với nhau, cũng không nên quá xem nặng vấn đề Quan Sát hỗn tạp, mà chính là ở đề cương xác lập tính chất vĩ mô xem mà trình bày và phân tích, cho nên hiểu hai chữ "Thần Sát" cũng không phải là chuyên nhất chỉ nói có Quan Sát.

Do đó, lý thuyết "Thần Sát" này là chỉ cát thần hung thần trong Nguyệt lệnh, không phải giản dị như nói loại Cô thần, Quả tú, Thiên ất quý nhân.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Cát thần, hung thần thường ở cùng nơi trong Nguyệt lệnh, chúng ta cần phải lấy dụng thần như thế nào chứ? Là cần phải lấy vật nắm lệnh cường vượng.

Làm sao biết vật nào nắm lệnh, vật nào không nắm lệnh chứ?
+ Thứ nhất là, dựa vào ở trong 《 Uyên Hải tử bình 》 chỗ "Tiết khí ca" xem Thần ti sự ( Thần nắm quyền điều khiển sự việc), tức là "Khán mệnh tiên tu khán nhật chủ, bát tự thủy năng cứu áo lý, giả như tử thượng thập nhật nhâm, trung tuần hạ tuần phương thị quý; sửu cung cửu nhật quý chi dư, trừ khử tam tân giai thuộc kỷ..." ( Xem mệnh trước tiên cần phải xem Nhật chủ, mới có thể nghiên cứu lý lẽ sâu xa của bát tự , ví như chữ Tý thì 10 ngày đầu Nhâm điều khiển, 20 ngày sau thì Quý điều khiển; cung Sửu thì 9 ngày là Quý, trừ đi 3 ngày là Tân, còn lại là Kỷ điều khiển sự việc …). Ý tức là: tháng Tý thượng tuần là Nhâm thủy nắm lệnh điều khiển sự việc, đắc khí sâu, mà Quý thủy đắc khí nông; trung, hạ tuần thì là Quý thủy nắm lệnh điều khiển sự việc, đắc khí sâu, mà Nhâm thủy đắc khí nông. Cho nên câu ở dưới tiếp theo nói "Khinh trọng giảo lượng", ý tức là cần phải đo lường dụng thần này đắc khí nông sâu, nặng nhẹ, lấy khí sâu mà nặng, khí nông mà nhẹ.
+ Thứ hai là, xem Nguyệt lệnh thấu can, bởi vì thấu can giống như can chi nhận lộ ra bên ngoài, cũng là biểu hiện một loại đắc khí sâu vậy.
+ Thứ ba là, xem nhiều hay ít, nhiều là nặng, ít là khinh.

《 Uyên Hải Tử Bình • Luận Tạp Khí 》nói: "Khán mệnh tu thẩm khinh trọng, dĩ thủ họa phúc, tiên luận trọng giả, hậu luận khinh giả, bách phát bách trung hĩ, kỳ tha đương dĩ thử loại chi" ( Xem mệnh cần xem xét nặng nhẹ, để lấy họa phúc, trước luận nặng, sau luận nhẹ, việc ấy cần lấy loại này, cả trăm đều trúng). Có thể thấy, ở lúc luận loại dụng thần Tài Quan, trước tiên cần luận nặng, sau mới luận nhẹ, chỗ này cũng là một quy tắc thủ dụng trong Tử Bình.

Sau khi áp dụng lấy dụng thần, từng bước ở dưới phải xem như thế nào chứ?
Lại là "Luận cách suy tường", tức là phải xem kĩ càng tinh tế mà suy luận dụng thần cùng với tướng, hỉ thần chỗ cấu thành các loại cách cục. Cát thần thì cần phải thuận mà phù, hung thần cần phải nghịch mà chế, dụng thần hiều mới cần giảm, dụng thần tạp cần thanh trừ, chỗ này chữ phù ức dụng thần cùng với thanh lọc, ức chế cách cục đó là Tướng thần cùng Hỉ thần. Các loại tổ hợp Dụng, Tướng, Hỉ thần liền cấu thành các loại cách cục. Thành cách, thành cục không quý cũng phú, phá cách phá cục thì không yểu cũng bần. Cách cao thì phú quý ở mức độ cao, cách thấp thì phú quý ở mức độ thấp. Đời người thọ yểu, cùng thông, cát hung, họa phúc chẳng có cái nào không từ cách cục thành bại, hỉ kị này mà suy ra được, cho nên 《 Uyên Hải Tử Bình • Bảo Pháp 》nói: "Phàm xem số Tử Bình, lấy cách không vững, 10 có 9 là sai".

Chú ý: Lý lẽ về chữ "Cách" này là bao quát tất cả chỗ gọi là "Cách", "Cục", "Tượng" .

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Dĩ Nguyệt vi chủ,
Chuyên luận Tài Quan,
Phân kỳ quý tiện,
Diệu pháp đa đoan.


Đại lục bình chú:
Thủ dụng định cách cần phải lấy Nguyệt lệnh làm chủ, 《 Bảo pháp chi nhất 》 viết: "Phàm cách dụng nguyệt lệnh đề cương, vật vu bàng cầu niên nhật thời vi cách. Kim nhân đa bất tri kỳ pháp, vu thử bách phát bách thất" ( Phàm cách dụng Nguyệt lệnh đề cương, yêu cầu vật ở bên cạnh năm, ngày, giờ là Cách. Người thời nay phần đa không hiểu phép này, do vậy cả trăm đều sai cả trăm). 《 Tử Bình Chân Thuyên 》cũng nói: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh" . Có thể thấy, Tử Bình thủ dụng định cách phải lấy Nguyệt làm chủ, không thể lấy năm, ngày, giờ để thủ dụng định cách.

Lấy dụng thần lại cần phải lấy Tài Quan là chủ, là như thế nào chứ?
Là do Quan là danh, Tài là lợi, cả ngày con người đi sớm về tối ham muốn xấu xa, vất vã bề bộn không phải là do từ hai chữ này hay sao? Gọi là "Danh cương lợi tỏa, sáo tận thế gian nhân" ( Danh lợi trói buộc, hết sức buộc chặt người thế gian). Huống hồ Quan lại là đại biểu trượng phu của giới nữ, tính nam và nữ, Tài thì đại biểu thê tử của giới nam, do vậy lấy chỗ hai chữ Tài Quan này để bao quát hết sự nghiệp cùng hôn nhân của đời người, cho nên mà Tử Bình phải chuyên luận Tài Quan. Không có Tài chỗ đại biểu để ăn, tiền bạc cùng lợi nhuận, chúng ta liền không có phương pháp sinh tồn. Không có Quan chỗ đại biểu cho danh dự, địa vị, pháp luật, chế độ cùng trật tự, chúng ta liền không thể thành hình thức sống của con người. Ai đã xúc phạm Quan chỗ đại biểu cho sự vật, người đó sẽ bị quần thể coi như là ngoại tộc mà gặp phải sự bài xích cùng bị đả kích.

Căn cứ Nguyệt lệnh loại dụng thần Tài Quan, chúng ta liền có thể suy đoán ra xu hướng sự nghiệp cả đời, cũng do từ chỗ này mà tiến tới một bước suy đoán ra phú quý, bần tiện cả đời. Cụ thể là suy đoán như thế nào chứ? Là lấy cách cục thành bại, cao thấp mà luận, cách cục có nhiều loại, các phép luận đều không giống nhau.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Độc tắc dịch thủ,
Loạn tắc nan minh,
Khử lưu thư phối,
Luận cách yếu tinh.


Đại lục bình chú:
Nguyệt lệnh chỗ tàng ẩn dụng thần cũng có nhiều hoặc có ít, như bốn chi Tý Ngọ Mão Dậu can tàng tương đối là rất ít, ngoại trừ Ngọ ở trong tàng có hai can Đinh Kỷ, ba chi còn lại đều chỉ tàng ẩn một can. Mà chi loại như Dần Thân Tị Hợi Thìn Tuất Sửu Mùi thì đều có tàng chứa ba can. Chi tháng tàng can ít thì dễ dàng tuyển lấy dụng thần, nhiều thì liền so sánh cho nên khó tuyển lấy, do đó viết "Độc tắc dịch thủ, loạn tắc nan minh" .

Chú ý! Chỗ này đã giải thích ở đoạn văn phía trước chưa hề nói rõ một vấn đề trọng đại, tức là: Chỉ lấy can tàng trong Nguyệt lệnh điều khiển sự vật làm dụng thần vậy, hay là lấy Nguyệt lệnh thấu can làm dụng thần? Nếu như chỉ lấy can tàng trong Nguyệt lệnh điều khiển sự việc làm dụng, như thế sẽ không còn ở độc nhất thì dễ lấy, nhiều thì rõ ràng vấn đề là khó lấy. Bởi vì can tàng lại nhiều cũng chỉ có ba can, xem "Tiết khí ca" tra một lúc đã không phải lấy xác định dụng thần ư? Có cái gì chỗ "Nan minh" chứ? Để xem, "Loạn tắc nan minh" này chỉ ra chỉ có thể là Nguyệt lệnh thấu can, bởi vì chỉ có ở tình huống Nguyệt lệnh nhiều can tàng thấu từ ở dưới mới xuất hiện một vấn đề "Loạn tắc nan minh" này. Tức là như Giáp mộc sinh tháng Tuất, ba can Mậu Tân Đinh cùng thấu, vậy lấy dụng như thế nào chứ? Nếu như chỉ lấy thần ti sự ( thần điều khiển sự việc) làm dụng, vậy tội gì phải hao tổn tâm trí? Tại sao ti sự là phải lấy sao? Nhưng nếu chỉ lấy thấu can thủ dụng thần, như vậy lúc ở ba can này đều cùng thấu, thì lấy cái nào đây? Chỗ này mới là vấn đề hết sức khó khăn.

Bởi vậy, câu dưới mới nói "Khử lưu thư phối, luận cách yếu tinh" . Ý tức là ở dưới tình huống có nhiều can cùng thấu, khử ai lưu ai, lấy ai thì phải cùng phối hợp với Nguyệt lệnh, khả năng cấu thành cách cục như thế nào, chỗ này cần phải cẩn thận cân nhắc chuẩn xác để minh chứng, dù sao cũng không thể qua loa đại khái, tùy tiện, nếu như lấy cách cục sai, thì không thể suy đoán phú quý, bần tiện cùng cát hung, họa phúc chính xác. 《 Nguyệt Đàm phú 》nói: "Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khử bất đương khử" ( cách có thể lấy có thể không lấy, dụng có nên khử hay không nên khử), giải thích cũng chính là vấn đề này. Do vậy, chúng ta liền hiểu, Nguyệt lệnh thủ dụng định cách cần lấy thấu can làm chủ, chỗ này nhất định quản lý can ti sự mà không hiểu phương pháp thủ dụng biến thông là có làm trái với Tử Bình mệnh lý, thực tế bắt đầu ứng dụng là tự nhiên cũng là không có ánh sáng thần kì.

Ví dụ như một nam mệnh, sinh ở giờ Tý ban đêm, ngày 19, tháng 12, năm 1959 niên nông lịch, bát tự là: Kỷ Hợi/ Đinh Sửu/ Giáp Thìn/ Bính Tý. Năm này tháng 12, ngày 8, là giao tiết Tiểu Hàn, cách ngày sinh mệnh chủ là 11 ngày, "Tiết khí ca" nói: "Sửu cung cửu nhật Quý chi dư, trừ khử Tam Tân giai thuộc Kỷ", có thể hiểu đúng lúc gặp Tân kim Chính Quan ti sự. Nếu như lấy chỗ Chính Quan này làm dụng, đại vận lại đến Tây phương Quan Sát vượng địa, như thế mệnh chủ liền gặp bước vào đường quan lộ, không đến nỗi phải đi làm thuê ở Xí nghiệp. Thế nhưng, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp sơ trung liền theo vận chuyển cho một hộ cá thể, cùng với chữ "Quan" là không kề bên. Tại sao mệnh là Quan tinh làm dụng lại có người lấy kỹ năng kinh thương chứ? Nguyên nhân là do ở Nguyệt lệnh không thấu Quan tinh mà thấu Tài tinh, Quan tinh không thể cùng Ấn tinh cấu thành cách cục, chỗ cấu thành cách cục chỉ có thể là Tài hỉ Thực sinh cách. Hỉ Thực, thì hỉ lấy nghề nghiệp kỹ năng để cầu Tài.

Lại như mệnh Hoắc Anh Đông, sinh ở giờ Tị, ngày 25, tháng 3, năm 1923 nông lịch, bát tự là: Quý Hợi/ Đinh Tị/ Quý Mùi/ Đinh Tị. trong Nguyệt lệnh có đủ cả 3 thần Tài Quan Ấn, làm sao mà thủ dụng chứ? Năm này tháng 3, ngày 21, là giao tiết Lập Hạ, cách ngày sinh mệnh chủ là 4 ngày, "Tiết khí ca" nói: "Sơ hạ cửu nhật sinh canh kim", có thể hiểu đúng gặp Canh kim Ấn tinh ti sự. Nếu như lấy Ấn tinh này làm dụng, mệnh chủ liền không gặp cảnh đọc sách là rất ít nhưng lại là người phát tài rất lớn. Rất hiển nhiên, phải lấy Đinh hỏa thấu can Tài tinh làm dụng, thời niên thiếu hành đến mộc vận tiết Tỉ sinh Tài, cách thành Tòng Tài, sau đó trung niên đến vận thủy kim thì luận dụng Tài hỉ Tỉ cách, cho nên có thể một đường phát tài lớn.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Nhật chủ cao cường,
Nguyệt đề đắc lệnh,
Dụng Tài vi vật,
Biểu Thực vi chính.


Đại lục bình chú:
Nếu như nguyệt lệnh dụng Tài, tốt nhất là Tài tinh cần phải thông căn thấu can, bởi vì can chi là một loại quan hệ trong ngoài, can như thân cây, chi như rễ cây, có can vô căn thì biểu hiện ở bên ngoài là trống rỗng, có chi mà không có can thò không thể biểu lộ, cho nên can chi là một thể thống nhất, dựa vào nhau mà tồn tại. Nếu như chỗ dụng thần ở trong Nguyệt lệnh mộ khố, thì vẫn còn một chút có thể hình xung, đả khai mộ khố, mới có thể khiến cho dụng thần đắc dụng. Bởi vậy, 《Thi quyết Tạp khí Tài Quan》nói: "Tạp khí tài quan tại nguyệt cung, thiên can thấu lộ thủy vi phong, tài đa quan vượng nghi xung phá, khước kị can chi áp phục trọng" ( Tạp khí Tài Quan ở cung tháng, thiên can thấu lộ mới là phong phú, tài nhiều Quan vượng cần xung phá, nhưng kị can chi bị chế phục nặng).

Đương nhiên, mấy câu nói đó còn có một ý tứ khác, tức là Nguyệt lệnh dụng Tài, còn phải cần có Nhật chủ kiện vượng, nếu ở Nguyệt đề đắc lệnh, như vậy mới có thể đảm nhận gánh vác Tài tinh, nếu không liền gặp chỗ hình thành gọi là "Tài đa thân nhược, phú ốc bần nhân" kết cục. Nhưng mà, kiến giải này có phần còn thiên lệch, dễ dàng cùng với đọan văn ở dưới nói là "Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sầu kim" phát sinh xung đột. Nếu như chỗ dụng Tài là hỏa, như vậy nhất định Nhật chủ là thủy, mà thủy lại cần ở "Nguyệt đề đắc lệnh" mà nói cao cường, không phải đúng lúc là dụng hỏa mà chỗ sầu là thủy sao? 《 Tử Bình toát yếu 》nói : "Dụng chi vi tài bất khả kiếp", Sao có thể nhượng cho Kiếp Tài đắc lệnh mà cao cường được chứ?

Ví dụ như một nữ mệnh: Canh Tý/ Canh Thìn/ Tân Mùi/ Ất Mùi. Tài tinh nắm lệnh thấu can, Ấn Tỉ rất nặng, còn có hai Tài khố, chấp nhận là mệnh thân vượng, Tài vượng chăng? Thế nhưng, mệnh chủ ở trong vận Kỷ Mão cả phụ mẫu đều chết, dựa vào quốc gia cứu trợ mà sống qua ngày. Sau khi tốt nghiệp Tiểu học làm công nhân bình thường. Sau vận Đinh Sửu do thời gian bệnh phổi kéo dài mà chết ở nhà, đến già cũng không thể nào thoát khỏi cảnh khốn cùng.

Và một nam mệnh: Nhâm Dần/ Giáp Thìn/ Tân Mão/ Mậu Tuất. Cùng với nữ mệnh Canh Tý là gần giống nhau, đúng với mệnh thuộc ở Tài đa thân nhược, nhưng mà mệnh chủ lại ôm bản văn bằng lớn làm Tổng Giám đốc Công ty Hóa thạch, trong vận Tây phương tài phát hàng vạn. Tuy nhiên nói, mệnh này đến Tây phương kim vận cũng là thân Tài đều vượng, phát tài ở trong lẽ phải, nhưng mệnh Canh Tý nữ mệnh đến vận thủy mộc cũng là thân Tài đều vượng đó, tại sao lại nghèo khổ phải không ra dáng chứ? Giả như nói ngưới ấy thân nhược, sao vận Đinh Sửu lại chuyển sang vượng, tại sao lại bị nghèo khốn cùng bệnh tật áp bức? Thực ra, không phải là vấn đề thân vượng hay thân nhược, mà là vấn đề kết cấu của cách cục. Nữ mệnh có Tỉ Kiếp thấu can, dụng Tài gặp Kiếp, cách cục có tổn hại, trừ phi đến vận Quan Sát chế Kiếp hộ Tài có lực, nếu không bệnh cách cục khó khử, mệnh chủ là quyết định song không gặp phát tài. Nam mệnh lại không giống vậy, Tài cách phối Ấn, cách chính cục thanh, tự nhiên học nghiệp có thành, sự nghiệp thuận lợi. Lại thêm Tài tinh dụng thần nhiều, lại cần đến Tỉ Kiếp vận thừa để giảm bớt Tài, cho nên đến vận Tỉ Kiếp đại phát không ngừng.

Lại như mệnh Vương Lực: Tân Mão/ Canh Dần/ Tân Sửu/ Đinh Dậu. Có hai Tài tinh nặng, Tỉ Kiếp lại nhiều, nhưng mệnh chủ đến vận Bính Tuất do sắp đặt hơn thua một cách tỉ mĩ mà một lần hành động buôn bán ở Hà Nam đã thành danh, được gọi là "Người Trung Quốc có kế hoạch quan hệ giao tiếp hàng đầu" . Tại sao mệnh dụng Tài bị Kiếp mà có thể một lúc phát ra tiếng vang cả bầu trời vậy? Là do bát tự đại vận có Bính Đinh Quan Sát chế Kiếp, khiến cho Tài cách chiếm được chỗ phát huy. Về sau lại đến vận Tây phương Tỉ Kiếp, Đinh hỏa chế Kiếp lực yếu, sự nghiệp liền dần dần có chiều hướng suy thoái là vậy.

Ví dụ thực tế chứng minh: Tài cách tốt nhất là phối Ấn, mà không nên gặp Tỉ Kiếp cao cường, nếu như Kiếp vượng đoạt Tài thì tổn cách hoặc phá cách, trừ phi đại vận có cách giải cứu, nếu không thì liền không có thể nói là phú quý. Chỉ có ở dụng thần Tài tinh là quá nhiều, như đoạn văn ở trên mệnh của Hoắc Anh Đông, mới hỉ Tỉ Kiếp để lấy bớt dụng thần Tài quá nhiều. Gọi là "Tài đa nhược phùng kiếp, gia vượng nhân ân phú" là vậy. Nếu như là chỉ có đơn độc Tài mà thấy Tỉ Kiếp cương cường, trừ phi có Quan Sát chế Kiếp hoặc ngoại trừ loại cấu thành chuyên vượng cách, thì tất nhiên không thể phát phúc.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Niên căn vi bản,
Nguyệt lệnh vi trung,
Nhật sinh bách khắc,
Thời vượng thời không.


Đại lục bình chú:
Phàm năm là Tổ tông, tháng là Phụ Mẫu, ngày là Phu Thê, giờ là Tử Tức, như vậy bát tự tựa như giống một cây ăn quả, năm là gốc, tháng là mầm, ngày là hoa, giờ là quả. Giống như năm tháng có Tài Quan Ấn thụ, là trước tiên mầm gốc có khí, nhưng sau đó dụng thần đắc thời thần ( canh giờ) phối hợp, thì khai hoa kết quả vậy. Mệnh thư gọi là "Căn tại miêu tiên, thực tại hoa hậu" , tức là ý này.

Ngũ hành đích vượng suy quyết định bởi hai vị trí tháng và giờ, nghĩa là đắc lệnh ở vị trí tháng, đắc địa ở vị trí giờ. Phàm xem dụng thần đều cần dẫn quy về thời thượng để xem xét, nguyệt lệnh dụng thần cường vượng, cần có giờ để tiết chế. Nguyệt lệnh dụng thần thất lợi, cần giờ để cứu hộ. Một ngày có 12 giờ, một giờ có 8 khắc (mười lăm phút bằng một khắc), mỗi ngày có 100 khắc. Xem ở lúc ngũ hành vượng suy, cần chú ý ở chi giờ là nằm ở trạng thái sinh vượng hoặc là tử tuyệt hoặc là ở trạng thái lạc không vong. 《 Tích Thiên tủy 》 【 Nguyên chú 】 nói: "Người sinh giờ Tý, trước 3 khắc, phân ra 7/10 là Nhâm thủy dụng sự; sau 3 khắc, phân ra 7/10 Quý thủy dụng sự". Ý là, luận giờ cần phải tiến hành song song lệnh tháng cùng với lệnh giờ mà dụng sự, để định ngũ hành vượng suy. Cho nên các sách về sau của 《 Tam Mệnh thông hội 》 đều lấy giờ thủ cách luận mệnh. Có thể thấy cổ nhân rất trọng là giờ sinh theo ngũ hành vượng suy.

Chỗ này là thảo luận chữ "Không" thông thường là chỉ Tuần Không, lấy 2 trụ năm và ngày suy đoán, tức là trong tuần Giáp Tuất thì Thân Dậu là Không, trong tuần Giáp Tý thì Tuất Hợi là Không ... thông thường mệnh thư đều đem Tuần Không được xem là tương đương trọng yếu, cho rằng can chi Tuần không thì hư, giả như Tài Quan tuần không thì cả hai ắc danh lợi đều hư, Viên Thiên Cương nói: "Không vong vi hại tối sầu nhân, tài trí anh hùng ngộ nhất thân. Chỉ khả vi tăng tịnh học thuật, đôi kim tích ngọc diệc tu bần." Ngoài ra, còn có các phép như: "Tam không trí phát", "Tứ không yểu thọ". Duy chỉ có một quyển sách《 Tử Bình chân thuyên 》 mang Tuần Không để phổ biến là Thần Sát, gọi là hết thảy tinh thần Thần Sát đều không ảnh hưởng đến cách cục thành bại, cao thấp. Như vậy, Tuần Không là không ảnh hưởng đến phú quý cùng lục thân chăng?

Mời xem ví dụ thực tế:
Nữ mệnh 1: Tân Mão/ Tân Mão/ Canh Ngọ/ Tân Tị. Phu cung Quan tinh lạc Không, mệnh chủ là Phó Thị trưởng, chồng là chủ nhiệm đại biểu Quốc Hội nhân dân toàn quốc.

Nữ mệnh 2: Tân Dậu/ Canh Tý/ Mậu Tý/ Quý Hợi. Tháng và ngày có 2 Tý thủy Tài lạc Không, mệnh chủ là nhà đại phú, phu thê cùng sống đến già.

Nữ mệnh 3: Mậu Tý/ Mậu Ngọ/ Giáp Thìn/ Tân Mùi. Trụ giờ Tài Quan đều lạc Không, mệnh chủ là Bộ trưởng một bộ ở Trung Ương.

Nam mệnh 1: Giáp Tý/ Giáp Tuất/ Giáp Tý/ Đinh Mão. Nguyệt lệnh Tuất thổ Tài lạc Không, mệnh chủ sáng lập Công tý Gia tộc, phát tài hàng vạn ức.

Nam mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Mậu Tuất/ Giáp Dần. Trụ giờ Dần mộc Sát lạc Không, nhưng mà mệnh chủ sinh ra 9 đứa con, trong đó có 5 là Bác Sĩ.

Nam mệnh 3: Nhâm Thân/ Kỷ Dậu/ Ất Hợi/ Giáp Thân. Bốn chi Sát Ấn hoàn toàn lạc Không, nhưng mà mệnh chủ là Bác sĩ Y học, ở Mỹ quốc thành lập Y Viện, thu nhập rất dồi dào, con cái có 1 trai 4 gái, vợ chồng mệnh chủ sống rất thọ.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Can dữ chi đồng,
Tổn tài thương thê,
Nguyệt chi niên đồng,
Phá hình tổ cơ.


Đại lục bình chú:
Nguyên văn ý tứ là, như gặp can chi nhật trụ là ngũ hành giống nhau, như loại Giáp Dần, Ất Mão, thì dễ tổn tài, thương thê. Là tại sao vậy? Bởi vì chi ngày là cung Thê, mà Tỉ Kiếp là khắc Tài, Tỉ Kiếp chiếm cứ cung Thê, liền giống như có cường đạo tiến vào trong nhà, sớm muộn gì đối với thê tài cũng gặp bất lợi. Chi tháng hoặc chi năm cùng ngũ hành nhật nguyên giống nhau, tức là năm tháng cùng là Tỉ Kiếp, dễ dàng phá tổn tổ nghiệp.
Giải thích như vậy là không toàn diện. Tỉ Kiếp tất nhiên là phá hỏng mọi vật, nhưng cũng không phải là tất cả đều xấu mà không có chuyện tốt, chỉ cần có chế, liền có thể thành chỗ sử dụng cho ta. Cọp, Sư Tử hung ác đều có thể thuần hóa thành diễn viên xiếc, mà tại sao Tỉ Kiếp lại không thể thuần hóa thành công cụ tranh công đoạt lợi nhỉ? Bất kể là chi ngày còn là chi năm, tháng có Kiếp Tài, chỉ cần có Quan Sát chế phục, liền có thể khiến cho không hình phá tổ nghiệp, không tổn tài, thương thê.

Nam mệnh 1: Ất Sửu/ Tân Tị/ Giáp Dần/ Nhâm Thân. Can chi ngày giống nhau, nhưng mệnh chủ trước đó đảm nhận Cục trưởng phân Cục cảnh sát một huyện, sau được vợ rất giỏi nội trợ, đường kinh thương phát tài thiên vạn. Sinh ra 3 trai, 1 gái, vợ chồng sống với nhau đến già. Chỗ này là do có tam hình cưỡng chế Tỉ Kiếp.

Nam mệnh 2: Canh Ngọ/ Nhâm Ngọ/ Bính Ngọ/ Đinh Dậu. Năm tháng ngày có ba Nhận, can chi trụ ngày giống nhau, chỉ vì đại vận Tây Bắc, kim thủy có lực chế Dương Nhận, cho nên mệnh chủ tổ nghiệp không có suy, đã từng du học ở Mỹ quốc lấy học vị Thạc sĩ, sau đó liên tiếp đảm nhận Cục trưởng Cảnh cục cấp huyện, thị. Hôn nhân ổn định, sinh ra 3 trai, 1 gái.

Nam mệnh 3: Nhâm Ngọ/ Bính Ngọ/ Bính Ngọ/ Đinh Dậu. Cùng với tạo Canh Ngọ gần giống nhau, thiên can thiếu một chữ Canh, Nhâm thủy liền khó chế Dương Nhận, hơi có sản nghiệp để lại nhưng cũng dần phá hao hết tận, trong vận Kỷ Dậu mệnh chủ mở Công Ty phát tài hàng thiên vạn, nhưng mà vợ đánh bạc làm mất đi hơn 1000 vạn tệ, do vậy mà ly hôn, chỗ này mới ứng với câu nói "Tổn tài thương thê" .

Nam mệnh 4: Quý Hợi/ Quý Hợi/ Nhâm Tý/ Tân Hợi. Can chi năm, tháng, ngày giống nhau, nhưng mà thành chuyên vượng cách, Tỉ Kiếp không phải là kị vậy. Trong vận Tây phương, Ấn tinh đắc địa, cha của mệnh chủ phát tài làm giàu. Sau 30 tuổi vận chuyển Canh Thân, mặc dù Trung Cộng trấn áp hàng loạt nhà tư bản địa chủ, nhưng gia đình mệnh chủ vẫn được phong là "Khai minh địa chủ", "Hồng sắc tư bản gia" mà may mắn thoát khỏi cảnh khó khăn. Sau 40 tuổi vận chuyển Kỷ Mùi, phá mất chuyên vượng cách, mệnh chủ mới gặp liên tiếp bị phê phán cùng lăng nhục mà tự sát.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Nguyệt lệnh kiến lộc,
Bất trụ tổ ốc,
Nhất kiến tài quan,
Tự nhiên phát phúc.


Đại lục bình chú:
Tiếp theo đoạn văn ở trên, tác giả tiến thêm một bước trình bày thêm Nguyệt lệnh là cách cục Tỉ Kiếp. Nguyệt lệnh không có các vật có thể dụng là Tài Quan Ấn Thực, chỉ có Tỉ Kiếp, liền thành không có dụng thần. Nguyệt lệnh không có dụng thần thì biểu thị ở trong nhà không có cái gì để có thể kế thừa, cho nên nói : "Nguyệt lệnh kiến lộc, bất trụ tổ ốc" . Nhưng nếu có Tài Quan, đặc biệt là Quan tinh có thể chế Tỉ Kiếp, vậy có thể kế thừa tổ nghiệp cùng phát dương quang đại.

Như mệnh Hoàng Đế Gia Tĩnh nhà Minh: Đinh Mão/ Kỷ Dậu/ Tân Tị/ Kỷ Hợi. Nguyệt lệnh Kiến Lộc, nhưng vì địa chi có Tài Quan, đại vận lại là Đông Nam Tài Quan vượng địa, cho nên mệnh chủ có thể kế thừa tổ nghiệp, làm vua 45 năm.

Lại như mệnh Hoàng đế Càn Long nhà Thanh: Tân Mão/ Đinh Dậu/ Canh Ngọ/ Bính Tý. Nguyệt lệnh Dương Nhận, cũng do địa chi có Tài Quan, đại vận là đất Tài Quan vượng địa, cho nên khiến mệnh chủ không chỉ có thể kế thừa tổ nghiệp, mà còn có thể phát dương quang đại, làm hưng thịnh Thanh triều.

Một nữ mệnh khác: Quý Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Dậu/ Canh Tuất. Nguyệt lệnh Kiến Lộc, địa chi có Tài mà không có Quan, thiên can Mậu Quý hợp hỏa, Quý thủy hóa hư, không thể chế Kiếp, bởi vậy cha dù có kinh thương phát tài vô số, có nhiều bất động sản, nhưng do mệnh chủ sau khi sinh ra vài năm, Trung Cộng liền mang thân phụ ra từ hình, toàn bộ tài sản bị tịch thu hết, mệnh chủ không có một chút kế thừa tổ nghiệp, ứng với câu nói "Bất trụ tổ ốc" .

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Dụng hỏa sầu thủy,
Dụng mộc sầu kim,
Khinh trọng năng phân,
Họa phúc tự chân.


Đại lục bình chú:
Nguyệt lệnh dụng hỏa thì sầu thủy khắc, nguyệt lệnh dụng mộc thì sầu kim khắc, lời nói này làm cho người ta rất nghi ngờ, cát thần phạm khắc còn nói là được quá khứ, chẳng lẽ hung thần cũng sợ khắc ư? Nếu như chúng ta không biết lịch sử dụng thần phát triển, sẽ giải thích lời này là không hợp lý, bởi vì đoạn văn sau nói "Quan sát trọng phùng, chế phục hữu công", chỗ này nếu như Quan Sát là hỏa, sẽ không phải sầu lo bị thủy chế phục chăng?

Nhưng mà nếu như chúng ta nghiên cứu kĩ lịch sử dụng thần phát triển, sẽ phát hiện chỗ Tử Bình nói về dụng thần ngay từ đầu vẻn vẹn chỉ có cát thần là các loại Tài Quan Ấn Thực, cũng không bao gồm hung thần các loại như Sát Thương Kiêu Kiếp. Ví như ở 《 Kế Thiện thiên 》nói: "Dụng thần bất khả tổn thương, nhật chủ tối nghi kiện vượng. Như nguyệt lệnh hữu quan bất khả thương, hữu tài bất khả kiếp, hữu ấn bất khả phá, phàm trụ trung hữu dụng chi tự, bất khả tổn hại dã." ( Dụng thần không thể tổn thương, nhật chủ cần phải kiện vượng. Như Nguyệt lệnh có Quan không thể có Thương, có Tài không thể có Kiếp, có Ấn không thể phá hại, phàm trong trụ có chữ dụng, thì không thể tổn hại vậy). Chỗ này không luận Nguyệt lệnh là Thất Sát, Thương Quan thì vấn đề là không cần khắc chế, mà là nói thẳng "Dụng thần bất khả tổn thương" .《 Cốt Tủy ca 》cũng nói: "Cách cục chỉ dĩ dụng thần suy, dụng thần bất thương nhân bất diệt." (Cách cục chỉ lấy dụng thần mà suy ra, dụng thần không làm tổn hại thì bất diệt).《 Tử Bình bát tự toát yếu pháp 》càng nhắm vào mỗi dụng thần lần lượt nói rằng: "Dụng chi vi quan bất khả thương, dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi ấn bất khả phá, dụng chi thực thần bất khả đoạt, dụng chi vi lộc bất khả xung. Nhược hữu thất sát tu yếu chế, chế phục thái quá phản vi hung. Nhược ngộ thương quan tu yếu tĩnh, thử thời tử bình vạn pháp tông." ( Dụng là Quan thì không thể tổn thương, dụng là Tài thì không thể Kiếp, dụng là Ấn thì không thể phá, dụng Thực thần thì không thể đoạt, dụng là Lộc thì không thể xung. Nếu có Thất Sát cần phải chế phục, chế phục thái quá trái lại thành hung. Nếu gặp Thương Quan cần phải tĩnh, chỗ này là tôn chỉ của Tử Bình vạn pháp).

Chú ý! Chỗ này khi nói Tài Quan Ấn Thực đếu lấy một chữ "Dụng" mở đầu, chỉ nói đến Thất Sát, Thương Quan, lại không có nói đến chữ Dụng. Có thể thấy, Tử Bình là không lấy Thất Sát, Thương Quan loại hung thần làm dụng thần, bởi vậy mới nói một lời vắn tắt: "Dụng thần bất khả tổn thương" . Cũng chính bởi vì Tử Bình vừa nói đến Thất Sát, Thương Quan, liền nói "Cần phải chế", "Cần phải tĩnh", 《 Tử Bình chân thuyên 》 mới tiến vào một bước mang dụng thần phân ra thành hai loại cát thần cùng hung thần, đối với cát thần thì thuận mà dụng, đối với hung thần thì nghịch mà dụng ( vậy ý tứ là Tử Bình đối với loại Thất Sát, Thương Quan "Cần phải chế", "Cần phải tĩnh" ).

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Đã hiểu rõ dụng thần Tử Bình bản nghĩa, chúng ta mới có thể hiểu rõ ý tứ chân chính là "Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sầu kim" , thực ra lời nói này lại là "Dụng chi vi quan bất khả thương, dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi ấn bất khả phá, dụng chi vi thực bất khả đoạt" là lời nói chọn lọc. Nếu như chúng ta mạng Thất Sát, Thương Quan vậy cùng một lúc nói đều là dụng thần, như vậy, hỏa này nếu như là Thất Sát, mộc này nếu như là Thương Quan, chúng ta cũng không phải lo sầu có thủy hoặc có kim, ngược lại cần phải có thủy đến chế hỏa, kim đến chế mộc, ngoại trừ các loại Tòng Sát cách, Tòng Tài cách là cách cục đặc thù.

Tuy nhiên cát thần cần phải bảo hộ tính thuận dụng, hung thần cần phải tính nghịch dụng khống chế, nhưng mà cũng cần phân ra nặng nhẹ, nhiều ít, nếu không thì không thể suy đoán cát hung họa phúc chuẩn xác. Cát thần nhiều cũng không dụng, ba vị hòa thượng không thể uống chung một bát nước, Quan nhiều là Sát, Tài nhiều là hại, Ấn nhiều là Kiêu, Thực nhiều là Thương, độc Quan cai quản vạn dân, độc Tài chấp chưởng thiên kim, độc Thực thắng Tài Quan, độc Ấn vào Hàn lâm. Nhiều thì hỗn tạp, nhất là Quan Sát hỗn tạp, là cùng phá cách, khiến cho mọi người không bần thì yểu, cho nên ngoại trừ các loại cách cục Tòng Sát, Tòng Tài, hóa khí, cần phải ức chế để giảm bớt, làm cho cách cục thanh thuần. Hung thần ít cũng không thể chế phục thái quá, Thất Sát chế quá thì thương tàn, Thương quan chế quá thì bần hàn, Kiêu thần chế quá thì ngu muội, Kiếp Nhận chế quá thì cuồng điên, cho nên Tử Bình viết: "Chế phục thái quá phản vi hung" .

Nam mệnh 1: Nhâm Thân/ Bính Ngọ/ Tân Hợi/ Kỷ Sửu. Một Quan bị thương phá, cả đời gặp nghèo khó lẫn bệnh tật, không thành sự nghiệp.

Nam mệnh 2: Tân Mùi/ Canh Dần/ Đinh Mùi/ Mậu Thân. Một Ấn bị Tài phá hoại, 6 tuổi năm Đinh Sửu cha bị đao trảm chết.

Nam mệnh 3: Ất Tị/ Quý Mùi/ Quý Tị/ Canh Thân. Một Thực bị Ấn đoạt, 28 tuổi vận Tân Tị, năm Quý Dậu chết yểu.

Nam mệnh 4: Canh Tuất/ Ất Dậu/ Tân Dậu/ Ất Mùi. Một Tài bị Kiếp tổn hại, tính cách bị tai họa ở Tiên thiên lúc nhỏ bệnh tê liệt, tàn tật cả hai chân.

Nam mệnh 5: Mậu Thân/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Mậu Tuất. Độc Thương bị chế thái quá, thuở thơ ấu bị bệnh viêm màng não trở thành người mất trí.

Nam mệnh 6: Quý Tị/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Quý Tị. Nguyệt Kiếp dụng Quan, vận Quý Sửu, năm Tân Mùi chế Kiếp thái quá, do phi cơ hỏng mà trở thành người tàn phế.

Nữ mệnh 1: Tân Dậu/ Ất Mùi/ Kỷ Dậu/ Canh Ngọ. Một Sát bị chế thái quá, 4 tuổi năm Ất Sửu bị bệnh co giật kinh phong lúc nhỏ mà mất trí.

Nữ mệnh 2: Bính Ngọ/ Canh Dần/ Giáp Tý/ Bính Dần. Một Sát bị chế thái quá, vận Đinh Hợi, sau khi bị bệnh cuồng điên mà không sống nỗi.

(Hết Tập 1)

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
《 Tứ Ngôn độc bộ 》 bình chú
Tác giả: Hoàng Đại Lục
(Tập hai)

Chính văn:
Ngũ hành sinh vượng,
Bất lự hưu tù,
Đông tây nam bắc,
Số tận phương hưu.


Đại lục bình chú:
Thông thường ở dưới tình huống, ngũ hành ai đó nếu như chỉ có Nguyệt lệnh ở trạng thái trường sinh hoặc đế vượng, thì lại sợ đại vận hành đến đất tử tuyệt, gọi là "Sinh phạ tử nhi tử phạ sinh" (Sinh sợ tử và tử sợ sinh) vậy. Nhưng nếu như ngũ hành ai đó ở hai nơi tháng và giờ cùng sinh vượng, có căn có gốc, lại không sợ ở đại vận đến đất hưu tù, bất luận là vận Đông Nam hoặc vận Tây Bắc đều không đủ lo lắng. Tất nhiên, lúc này chỉ là lấy ngũ hành lực cường nhược mạnh yếu mà nói, không thể dụng đến trực tiếp suy đoán cát hung họa phúc, cần phải suy đoán cát hung họa phúc, vẫn nhất định phải dựa vào bát tự cách cục hỉ, kị mà luận. Nếu là kị, cừu thần sinh vượng không có chế, thì tất nhiên phải luận hung. Mặc dù là tướng, hỉ thần sinh vượng, hoặc nhiều hoặc tạp, cũng không thể luận cát.

Chính văn:
Dần thân tị hợi,
Tứ sinh chi cục,
Dụng vật thân cường,
Ngộ chi phát phúc.


Đại lục bình chú:
Ở Nguyệt lệnh là Dần Thân Tị Hợi, là 4 ngũ hành ở đất trường sinh, cho nên viết "Tứ sinh chi cục" . Dụng thần ở nơi đất trường sinh, là biểu hiển sức sống vượng thịnh, nếu như đắc dụng, tức phát phúc không nhỏ. Cho nên 《 Ngũ hành nguyên lý tiêu tức phú 》nói: "Tài phùng vượng địa nhân đa phú, quan ngộ trường sinh mệnh tất vinh" (Tài gặp đất vượng người nhiều phú, Quan gặp đất trường sinh mệnh tất vinh),《 U vi luận 》nói: "Ấn thụ phùng sinh, mẫu đương hiền quý; thiên tài quy lộc, phụ tất tranh vanh; quan tinh nhập lộc vượng chi hương, tử đương vinh hiển; thất sát ngộ trường sinh chi địa, nữ chiêu quý phu" ( Ấn thụ gặp sinh, mẹ đương nhiên hiền quý; Thiên Tài quy Lộc, cha tất tài hoa xuất chúng; Quan tinh vào đất Lộc, Vượng, con cái tất vinh hiển; Thất Sát gặp đất trường sinh, nữ gặp chồng có địa vị). Lời nói này rất rõ, dụng thần đến đất sinh vượng, thành cách thì cao, phát phúc tất lớn. Lục thân đến đất sinh vượng, thì lục thân tương ứng cũng có thể phát phúc.

Ngoài ra, còn có một thuyết, như mệnh có đủ 4 chữ Dần Thân Tị Hợi, người tất thông minh xuất chúng, phú quý siêu quần. Như 《 Kim Ngọc phú 》nói: "Dần thân tị hợi điệp kiến, hữu thông minh sinh phát chi tâm." 《 Vạn thượng thư Quỳnh Ki tam bàn phú 》nói: "Dần thân tị hợi kiêm toàn, vị chí tam công chi liệt." Loại này không luận cách cục thành bại, phép nói chỉ lấy tứ sinh luận quý, đã làm trái với Tử Bình mệnh lý lại còn cấm không có mở ra ví dụ thực tế để kiểm nghiệm lại loại tà thuyết.

Ví dụ như mệnh diễn viên thanh niên Chu Khiết: Mậu Thân/ Quý Hợi/ Quý Tị/ Giáp Dần, lại thuộc mệnh bao gồm đủ Dần Thân Tị Hợi, thế nhưng mệnh chủ không có một điểm quan khí quý, diễn xuất vừa mới nổi danh vì dùng ma túy mà chết yểu lúc tuổi còn thanh xuân.

Mệnh Ngoại tổ phụ của Mao Trạch Đông là Văn Cẩm Huân: Tân Tị/ Bính Thân/ Đinh Hợi/ Nhâm Dần. Bao gồm đủ một dạng Dần Thân Tị Hợi, nhưng mệnh chủ từ lúc sinh ra chỉ là một nông phu cấy cày ở vùng quê.

Một mệnh nam trẻ con: Mậu Dần/ Quý Hợi/ Tân Tị/ Bính Thân, vừa ra đời được 1 tháng liền bị bệnh viêm phổi mà chết yểu.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Bởi vậy, ngũ hành lâm trường sinh chỉ là một loại có biểu hiện sinh khí, nhưng không nhất định liền hiển quý.

Vấn đề là , chỗ dụng thần lâm ở đất trường sinh, như thế nào mới có thể là chỗ ta sử dụng chứ?
Chỗ lời văn nói: "Dụng vật thân cường, ngộ chi phát phúc", ý tức là ngay lúc đó vật ở trường sinh, cần phải có nhật nguyên thân cường, gặp thì mới có thể phát phúc. Chỗ này cùng với "Thân cường tài năng đảm tài quan" là một ý.

Vậy cách nói chỗ này đúng không? Không đúng! Bởi vì Tử Bình 《 Tạp Luận khẩu quyết 》nói: "Nhập cách giả phi phú tức quý, bất nhập cách giả phi bần tức yểu" ( Nhập cách thì không phú cũng quý, không nhập cách thì không bần cũng yểu), còn 《 Tử Bình chân thuyên 》 thì nói: "Yếu nhi ngôn chi, phàm toàn cục chi cách, lại thử nhất tự nhi thành giả, quân vị chi tương dã. Thương dụng thậm vu thương thân, thương tương thậm vu thương dụng" ( Muốn nói, phàm đủ cách cục, nhở một chữ này mà thành, đều là Tướng vậy. Tổn thương dụng nặng hơn tổn thương thân, tổn thương tướng nặng hợn tổn thương dụng). Ý tứ là như thế nào vậy?

Vì phú quý, bần tiện, cát hung, họa phúc, hoàn toàn là do ở cách cục cao thấp, thành hay bại; còn thành cách hay bại cách lại hoàn toàn là do ở một chữ Tướng thần, thương hại dụng thần quan trọng còn hơn thương hại nhật nguyên, thương hại tướng thần thì lại còn hơn thương hại dụng thần. Nói cách khác, đối với cách cục mà nói, thì tướng thần cùng dụng thần mới là quan trọng nhất, là hai mấu chốt quan trọng đứng hàng đầu so với mọi vật khác. Trong hai loại này, lại lấy Tướng thần càng quan trọng hơn. Một Tướng thần bị tổn thương, cả cách cục bị phá. Đổi lại câu nói, xem dụng thần có hay không có thể có chỗ sử dụng cho ta, không ở Nhật nguyên cường nhược, mà ở tại tướng thần ra sao, chỉ cần tướng thần cùng nguyệt lệnh cấu thành cách cục, mệnh chủ liền có thể phát phúc. Nếu không có tướng thần, không luận Nhật nguyên là cường hay là nhược, cũng không thể cấu thành cách cục, cũng tức là vật không thể dụng ở nguyệt lệnh. Bởi vậy, 《 Uyên Hải tử bình • Bảo Pháp 》 chỉ nói: "Phùng quan khán tài, phùng tài khán sát, phùng sát khán ấn, phùng ấn khán quan" (Gặp Quan xem Tài, gặp Tài xem Sát, gặp Sát xem Ấn, gặp Ấn xem Quan), áo diệu là chỉ ở tại xem khán Tướng thần mà không xem ở Nhật nguyên vậy.

Mệnh Vương Tông Mộc: Quý Mùi/ Giáp Dần/ Tân Dậu/ Kỷ Sửu. Nguyệt lệnh là Tài, gặp Tài xem Sát, không có Sát xem Ấn, kị Sát thì 10 có 9 là nghèo, phối Ấn thì 5 có 4 là có địa vị. Xem đại vận nghịch hành đất thủy kim, không có Sát phá cách, có Ấn Tỉ trợ cách, thêm Quan tinh ở tháng trường sinh, Tài tinh ở tháng đắc lộc, tất nhiên phụ tử đều quý. Thực tế, mệnh chủ là xuất thân Tiến sĩ làm Thượng thư Bộ Hình, sinh ra bốn con trai thì có ba con là Tiến sĩ đều làm quan, đều là vinh quý.

Mệnh Trần Đăng Kính: Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Quý Tị. Tài cách thấu Sát thì kị Sát, tuy có Thực Thương khử Sát tồn Tài, nhưng vận thứ ba khởi là Kỷ Mậu Đinh Bính Ất Giáp, một đường chế Thực hộ Sát, Sát tinh không thể khử hết, lấy Sát yêu (mời) Thực chế cách luận thì lại sợ có chế Sát quá nặng, cho nên cuối cùng mệnh chủ cả đời chỉ là Đại học hàm thụ, chỉ sinh được một con, cũng không quý. Cùng với mệnh Vương Tông Mộc là gần giống nhau, nhưng kém hơn hẳn một đoạn lớn, mệnh này có địa chi tam hợp kim cục, đại vận cũng là đất thủy kim, tất nhiên không phải là do thân cường hay thân nhược.

Nam mệnh 1: Ất Mùi/ Mậu Dần/ Tân Dậu/ Quý Tị. Cũng thuộc cách cục Tài cách phối Ấn, tíếc là Mậu Quý hợp mà hóa Sát, mà Sát không có chế hóa, thì là kị Sát vậy. Kị Sát thì 10 có 9 là nghèo khổ. Cho nên mệnh chủ 14 tuổi tức là do bệnh mà dẫn đến cả hai mắt đều mù lòa, sau khi trưởng thành lấy đoán mệnh làm nghề mưu sinh. Chỉ sinh được một nữ.

Nam mệnh 2: Mậu Thân/ Quý Hợi/ Kỷ Dậu/ Nhâm Thân. Trong Nguyệt lệnh có Giáp mộc Quan tinh ở trường sinh, nhưng Quan không có Ấn hóa, không thành cách cục, như vậy thì lấy Quan là kị. Tuy nhiên có Thân Hợi tương xuyên, dựa vào chỗ khử Quan, nhưng có Tài tinh tiết Thương sinh Quan, khử Quan không hết, thì khí không quý. Tuế vận lại gặp Quan tinh tiết Tài liền phá cách, liền có tai họa vào lao ngục. Sự thực, mệnh chủ sinh ra ở nông gia bần khốn, 17 tuổi vận Ất Sửu, năm Ất Sửu tức là do cướp mà mang tội bị phán hình 4 năm tù, 27 tuổi vận Bính Dần, năm Ất Hợi, lại do trộm cướp mà tiếp tục bị tội giam tù 4 năm.

Nam mệnh 3: Mậu Tý/ Quý Hợi/ Kỷ Hợi/ Nhâm Thân. Tòng Sát cách, Tài tinh tọa Lộc, cho nên cha là thư ký Địa ủy, mệnh chủ cùng năm dương quang xán lạn. Thẳng đến vận Ất Sửu gặp lưu niên hỏa thổ, phá mất Tòng Sát cách, cha bị đánh ghép tội vào Tẩu Tư phái (Tẩu tư phái là: phái chủ trương đi theo con đường tư bản chủ nghĩa), cả nhà mệnh chủ mới đi vào cảnh gian khó. Sau đó hành Đông phương vận Tòng Sát, cha được trở lại bình thường, mệnh chủ có phần ổn định công tác, sự nghiệp coi như không trở ngại.

Gần giống với tạo Mậu Thân, cùng một dạng thân nhược vô căn, một dạng Nguyệt lệnh là Thiên Tài tọa Lộc, tại sao tạo Mậu Thân có phụ thân lại là lão nông bần khốn chứ? Bởi vì hai mệnh trong Nguyệt lệnh đều có Giáp mộc Quan tinh, tạo Mậu Thân khử Quan không hết, còn tạo Mậu Tý này chỉ do thiếu một Thân một Dậu, lại còn do Thân Tý hợp thủy, đúng với chân Tòng Sát, cách cục liền cao hơn nhiều. Có thể thấy, tất cả đều cần lấy cách cục hỉ kị mà luận, không thể chỉ bằng vào Tài tinh tọa Lộc liền luận là cha gặp phú quý. Lộc, vượng như vậy, trường sinh cũng như vậy.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Tý ngọ mão dậu,
Tứ bại chi cục,
Nam phạm hưng suy,
Nữ phạm cô độc.


Đại lục bình chú:
Tý Ngọ Mão Dậu là ngũ hành ở bại địa, như mộc bại ở Tý, hỏa bại ở Mão …, cho nên gọi là cục tứ bại. Lời nói này phàm là mệnh phạm cục tứ bại này, nam mệnh thì hưng suy, thì là phú quý không lâu dài, nữ mệnh thì hôn nhân và con cháu xem như không tốt, gặp cô độc đến già. Tựa như là không luận nam nữ, mệnh có đủ Tý Ngọ Mão Dậu đều là không tốt.

Nhưng 《 Vạn thượng thư Quỳnh Ki Tam bàn phú 》lại nói: "Tý Ngọ Mão Dậu giai bị, chức phong nhất phẩm chi quan"( Tý Ngọ Mão Dậu đều có đủ, làm quan tới chức Nhất phẩm).

《 Chân Bảo phú 》nói: "Tý ngọ mão dậu, bát chuyên chi tượng, văn vi nhất phẩm, khốt bang chỉ quốc, vũ tắc phân mao, quải ấn thành công"( Tý Ngọ Mão Dậu, là tượng Bát chuyên, văn là nhất phẩm, là người chăm chỉ phò quốc; võ thì phân ra kẻ sĩ, mang Ấn thành công).

Có mệnh thư thậm chí còn nói: "Tý ngọ mão dậu tứ xung đắc thời, vi đế vương chi mệnh" .
Không trách được Nhậm Thiết Tiều chú thích 《 Tích Thiên Tủy 》nói: "Địa chi Tý Ngọ Mão Dậu, lại phối hợp Khảm Ly Chấn Đoài, chi toàn là tứ chính, khí quán tám phương... Mão Dậu là Chấn Đoài, chủ người rất chân chính nhân nghĩa, Tý Ngọ là Khảm Ly, chủ tể khí trời đất ..." Giống như mệnh phạm cục tứ bại đều là mệnh đế vương chủ tể thiên hạ.

《 Nhai Tuyền Nữ mệnh phú 》thì có phân ra nói: "Tý Ngọ Mão Dậu là Đào Hoa, Quan đới Đào Hoa chủ phúc lộc, Sát mang Đào Hoa là bần mà tiện, là xướng ca kĩ nữ đi khắp chân trời.". Ý tứ là Tý Ngọ Mão Dậu là bốn chỗ Đào Hoa, nếu như là Quan tinh đến, thì là mệnh phúc lộc, nhưng nếu là Thất Sát đến, đó chính là Biến địa Đào Hoa thì mệnh phong lưu, phóng đãng, nữ mệnh phạm thì phần đa là ca kĩ.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Bắt đầu khảo cứu, lời nói kể trên đều không đáng tin cậy. Bởi vì, lời nói này đều không có lấy cách cục hỉ kị mà luận, chỉ lấy bốn chữ Tý Ngọ Mão Dậu để luận mệnh thì chỉ có thể là đoán mò mù lòa. Tôi nói không tin, mời xem ví dụ thực tế để chứng minh:

Mệnh Càn Long đại đế: Tân Mão/ Đinh Dậu/ Canh Ngọ/ Bính Tý. Mệnh này tựa như ứng nghiệm là giải đoán câu này "Tý Ngọ Mão Dậu tứ xung đắc thời, là mệnh Đế vương". Nhưng ông ấy ở ngôi vị là 61 năm, thọ tới 89 tuổi, tại sao không có ứng nghiệm lời giải đoán câu "Nam phạm hưng suy" này chứ? Là do bát tự có Bính Tân hợp, cấu thành Dương Nhận dụng Sát cách, đồng thời lại khử mất đi Quan Sát hỗn tạp là bệnh cục, lại càng là có hỉ, Bính Tân hợp còn có thể giải trừ Tý Ngọ xung cùng Mão Dậu xung, làm cho căn Ngọ hỏa Quan Sát không động ở xa, thêm đại vận trước Nam sau Đông, một đường hỏa mộc, Quan Sát thủy chung hành ở đất sinh vượng, cách thành mà cao, cho nên mệnh chủ phúc lộc thọ đều đủ cả, xưng là "Thập toàn lão nhân" .

Mệnh Trình Nghiễn Thu: Quý Mão/ Giáp Tý/ Giáp Ngọ/ Quý Dậu. Cũng là mệnh có Tý Ngọ Mão Dậu đầy đủ, có thể mệnh chủ không có con đường làm quan, mà là trở thành Tứ đại danh ở thủ đô Bắc Kinh, đứng đầu biểu diễn nghệ thuật gia. Mệnh thư lại nói: "Tý Ngọ Mão Dậu toàn bị, tửu sắc hoang dâm." Nhưng mà, mệnh chủ từ năm 20 tuổi lấy người cùng tuổi họ Canh vẫn là người vợ trinh khiết sáng như ngọc, hai người một mực tôn trọng nhau, cùng sống đến già, cũng không có tai tiếng, đã từng dạy nhạc công được mọi người tán dương khen ngợi xưng: "Trình tứ gia vô khả thiêu dịch, nhất sinh vô nhị sắc" (Trình tứ gia không thể bắt bẻ, cả đời không có hai sắc). Là tại sao chứ? Bởi vì mệnh cục có Ngọ phá Dậu, không thành quý cách, đến vận thủy kim trái lại mà hỉ Thực Thương thổ tú, cho nên mới 6 tuổi đã bắt đầu học hát kịch. Mệnh cục lấy Thê cung Ngọ hỏa làm hỉ, lại được Mão mộc tiết Ấn sinh phù, nơi khác lại không thấy Tài tinh cùng Thê cung gắn bó cấu kết, cho nên mệnh chủ tâm không có làm chuyện phiếm, dụng tình chuyên nhất.

Nam mệnh 1: Tân Mão/ Đinh Dậu/ Giáp Tý/ Canh Ngọ. Một dạng phạm cục tứ bại, chỉ là do Tý Ngọ Mão Dậu nhất xung, căn Đinh hỏa thì động ở xa, khó lấy để chế Sát, căn Quan Sát bị xung thì tổn hại lớn đến cách cục, cho nên mệnh chủ chỉ là một công nhân Xí nghiệp bình thường. Lại còn, mệnh chủ có Biến địa Đào Hoa cũng không phải loại chơi bời trai gái, đánh bạc, phiêu đãng.

Nam mệnh 2: Nhâm Tý/ Kỷ Dậu/ Ất Mão/ Nhâm Ngọ. Tý Ngọ Mão Dậu đều đủ. Nhưng mệnh chủ không có địa hàng Tam công, mà là loại nhập vào đội ngũ Lương Sơn Bạc thời xưa, phần đa là ngồi vào lao ngục. Là tại sao mà gặp loại này chứ? Là bởi vì mệnh cục không có chữ giải xung, Nguyệt lệnh gặp xung thì phá cách, lại hành vận Nam phương hỏa, Nhâm Tý Ấn tinh ở trạng thái chỗ thủy cuối cùng lại bị Tài tinh xung khắc, mệnh thư nói: "Tham Tài hoại Ấn, khởi thị lương nhân?" cho nên anh ta gặp chỗ không được tốt.

Nữ mệnh 1: Mậu Tý/ Tân Dậu/ Đinh Mão/ Bính Ngọ. 《 Nữ mệnh phú 》 nói: "Tý Ngọ phùng Mão Dậu, định thị tùy nhân tẩu." Ý tứ là nữ phạm cục tứ bại, không phải là loại nhân vật Đỗ Thập Nương, thì cũng là Phan Kim Liên. Thế nhưng, mệnh chủ này chỉ có một lần cưới xin, theo việc không có bại hoại môn phong. Nếu chỉ bằng Tý Ngọ Mão Dậu bốn Đào Hoa mà đoán, thì cùng với hiện thực là không phù hợp. Nếu như lấy cách cục luận, mệnh này là Tài cách phối Ấn, kị Sát tiết Tài, chỗ may mắn là Tý thủy bị Mậu thổ cái đầu hợp khắc, khử Sát tồn Tài, cách chính, cục thanh, đại vận lại là Nam phương hỏa địa, Sát tinh vô khí, không thể phá cách, mà phu cung Mão mộc là tướng thần, cho nên mệnh chủ trái lại được trượng phu trợ lực, phú mà kiêm quý, hôn nhân ổn định, không phạm cô độc.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Thìn tuất sửu Mùi,
Tứ thổ chi thần,
Nhân nguyên tam dụng,
Thấu vượng vi chân.


Đại lục bình chú:
Đoạn này lời nói là đúng, cho nên Thìn Tuất Sửu Mùi là tứ thổ là đúng nguyệt lệnh, bên trong tàng khí không thuần, giống nhau đều cùng có ba can, cho nên gọi là Tạp khí. Đụng đến tháng có loại tạp khí này thì lấy dụng thần lại cần phải lấy vượng thấu mà làm dụng.

Nhưng mà, lời nói này cũng không được đầy đủ. Trong Dần Thân Tị Hợi cũng tất cả đều tàng ba can, hai can, tại sao lại không phải là tạp khí chứ? Trong Ngọ cũng có tàng hai can, chẳng lẽ cũng rất thuần ư? Có lí do gì mà nói tháng Dần Thân Tị Hợi Ngọ lại không lấy vượng thấu mà làm dụng chứ? Làm sao chỉ có mỗi tháng Thìn Tuất Sửu Mùi mới lấy vượng thấu là làm dụng chứ?

Thực tế, Tử Bình nói tháng tạp khí cần phải lấy thấu can làm dụng là nguyên nhân duy nhất, vì có 4 tháng đều là mộ khố! Bởi vì dụng thần bị đóng lại tàng ở trong mộ khố không thể đắc dụng, cho nên yêu cầu đối với mộ khố cần tiến hành hình xung phá hại, vì yêu cầu mộ khố mở ra để lấy dụng thần.

《 Uyên Hải Tử Bình • Luận Tạp khí 》nói: "Tạp khí giả, cái vị thần tuất sửu Mùi chi vị dã... Đãn khố trung vật giai bế tắc, tu đãi hữu thược dĩ khai kỳ cục, phương ngôn phát phúc. Sở ngôn khai cục thược giả hà vật dã? Nãi hình xung phá hại nhĩ." ( Tạp khí là vị trí Thìn Tuất Sửu Mùi vậy … nhưng mà trong khố vật đều bế tắc, cục cần phải đợi có chìa khóa để mở, mới nói phát phúc. Chỗ nói chìa khóa để mở cục là cái gì vậy? Chính là hình xung, phá hại vậy). Ý tức là nói 4 mộ khố Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu như loại dụng thần là Tài Quan bị tàng ẩn, nếu không thấu can, không gặp hình xung, Tài Quan liền không thể được dùng, chỉ có dụng thần thấu lộ, hoặc là mộ khố bị khai mở, dụng thần mới có thể đắc dụng.

《 Tam Mệnh thông hội • Luận Tạp khí cổ ca 》nói: "Nguyệt lệnh đề cương bất khả xung, thập xung cửu mệnh giai vi hung, duy hữu tài quan phùng mộ khố, vận hành đáo thử phản thành công" ( Nguyệt lệnh đề cương không thể xung, 10 xung thì 9 đều là hung, duy chỉ có Tài Quan gặp mộ khố, vận hành đến nơi này trái lại là thành công). Là tại sao đề cương gặp xung lại có 10 thì 9 lại hung chứ? Bởi vì đề cương là hạt nhân của cách cục, xung phá đề cương thường là gặp xung phá cách cục, cho nên mới nói 10 là có 9 hung, duy nhất không hung là vì Nguyệt lệnh là mộ khố, lại còn dụng thần tàng ở trong mộ khố không có thấu lộ xuất ra, gặp một xung hình mộ khố liền mở ra, dụng thần đắc dụng, trái lại mà có thể khiến cho mệnh chủ phát phúc.

Bởi vậy, Tử Bình nói tháng tạp khí cần lấy thấu can làm dụng, không phải nghĩa gốc bởi vì khí tạp, mà là bởi vì dụng thần tàng ở trong mộ khố, nhất định cần thấu can hoặc gặp xung hình thì mới có tác dụng. Thực ra, tháng Dần Thân Tị Hợi Ngọ đều thuộc các tháng tạp khí, chỉ là dụng thần không có tàng ở trong mộ khố, Nguyệt lệnh bản khí tàng can tức là khiến nó không thấu, cũng là lộ ra ở bên ngoài, không ảnh hưởng đến thủ dụng định cách. Đương nhiên, nếu như có thấu can, thì cũng cần lấy thấu can làm dụng.

Là tại sao vậy? Là bởi vì thấu can không chỉ là một loại biểu hiện có lực, mà còn là đại biểu địa chi, giống như xuất đầu lộ diện đại biểu pháp nhân của một Công ty vậy.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
《 Tử Bình chân thuyên 》là chỗ Tử Bình sâu sắc nhất, phương pháp thủ dụng định cách thì đều là lấy nguyệt lệnh thấu can làm tôn chỉ, chứ không có luận là tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, hay là tháng Dần Thân Tị Hợi Ngọ. "Luận dụng thần biến hóa" nói: "Dụng thần ký chủ nguyệt lệnh hĩ, nhiên nguyệt lệnh sở tàng bất nhất, nhi dụng thần toại hữu biến hóa. Như thập nhị chi trung, trừ tử ngọ mão dậu ngoại, dư giai hữu tàng, bất tất tứ khố dã... Cố nhược đinh sinh hợi nguyệt, bản vi chính quan, chi toàn mão Mùi, tắc hóa vi ấn. Kỷ sinh thân nguyệt, bản thuộc thương quan, tàng canh thấu nhâm, tắc hóa vi tài. Phàm thử chi loại giai dụng thần biến hóa dã" ( Dụng thần vừa là chủ nguyệt lệnh, nhưng nguyệt lệnh chỗ tàng không chỉ có một, mà dụng thần còn có biến hóa. Như trong 12 chi, ngoại trừ Tý Ngọ Mão Dậu, còn lại đều có tàng ẩn, không kể tứ khố vậy … Cho nên nếu Đinh sinh tháng Hợi, gốc là Chính Quan, chi đủ Mão Mùi, thì hóa thành Ấn. Kỷ sinh tháng Thân, gốc thuộc Thương quan, tàng Canh thấu Nhâm, thì hóa thành Tài. Phàm chỗ này là loại dụng thần biến hóa vậy).
Chỗ này rõ ràng chỉ ra cho biết, nguyệt lệnh dụng thần do gặp thấu can hoặc gặp hợp mà biến hóa, không chỉ có 4 tháng tạp khí, các tháng còn lại đều tàng ẩn từ 2 đến 3 can đều phân ra một dạng. Ví như ngày Đinh sinh tháng Hợi, dụng thần vốn là Nhâm thủy Chính Quan, nhưng nếu có hai chữ Mão Mùi, Hợi Mão Mùi tam hợp thành Ấn, dụng thần Chính Quan liền biến thành Ấn tinh. Lại như ngày Kỷ sinh tháng Thân, dụng thần vốn là Canh kim Thương quan, nhưng nếu thấu xuất Nhâm thủy, lại lấy Nhâm thủy làm dụng, dụng thần Thương Quan lại biến thành Chính Tài. Ở các loại tình huống này đều thuộc về dụng thần biến hóa.

Mệnh Tống Khánh Linh: Nhâm Thìn/ Quý Sửu/ Giáp Tý/ Ất Hợi. Nguyệt lệnh Sửu thổ, thấu xuất Ấn tinh, tức lấy Ấn tinh là dụng, cách luận Ấn dựa vào Quan sinh. Tân kim Quan tinh tàng ở trong Sửu khố, vốn là Thìn Sửu phá, khai phá Quan khố, tiếc là Tý Sửu hợp, lại làm cho khố bị đóng lại, là tượng thành trước có hôn nhân mà sau đó tang chồng phải thủ tiết. 17 tuổi vào vận Tân Hợi, Quan tinh thấu xuất, 20 tuổi năm Quý Sửu, Sửu thổ nhập vào phu cung, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp Đại học đến quan hệ với Bí Thư Tôn Trung Sơn, sau hai năm chính thức thành hôn. 27 tuổi chuyển đến vận Canh Tuất, Sát tinh thấu xuất, mệnh chủ hôn nhân ổn định, mà còn đảm nhậm Bộ trưởng Phụ nữ. 33 tuổi năm Ất Sửu, đại vận ở Tuất, Sửu Thìn phá, Thìn Tuất xung, thủy khố mở ra, thủy lớn kim chìm, chồng bệnh chết. Về sau dù đến vận Quan Sát, chỉ là do Sửu khố không mở, Quan Sát không thấu, mệnh chủ cũng chưa có tái hôn.

Nữ mệnh 1: Mậu Tuất/ Kỷ Mùi/ Mậu Tuất/ Bính Thìn. Tháng Mùi Ất mộc Phu tinh nhập mộ, ngày và giờ có Thìn Tuất xung, năm và tháng Mùi Tuất hình, hình khai Quan khố, cách thành Nguyệt Kiếp dụng Quan. Đại vận Đông phương, Quan tinh đắc địa, tuy nhiên Kiếp nặng Quan nhẹ, cách cục không cao, nhưng mệnh chủ từ sau khi 25 tuổi năm Quý Hợi kết hôn, tới nay chưa xảy ra tình trạng gì, vợ chồng đều làm ăn buôn bán nhỏ lẽ, sinh ra 3 nữ 1 nam, gia cảnh bình thường. Có thể thấy, mệnh chỗ này có Tài Quan nhập mộ gặp hình xung, xác thực không thể tìm lấy gặp hình xung mà luận.

Nữ mệnh 2: Kỷ Mùi/ Mậu Thìn/ Mậu Tuất/ Đinh Tị. Nguyệt lệnh Ất mộc Quan tinh ở Thìn không phải nhập mộ, ngược lại e ngại hình xung. Mệnh cục Thìn Tuất nhất xung, tổn hại phu tinh, phá Nguyệt Kiếp dụng Quan cách. Mệnh chủ 20 tuổi năm Mão thành hôn, 26 tuổi vận Tân Mùi năm Ất Dậu có tang chồng, cuối cùng về sau gặp cảnh cơ khổ đến già.

Nam mệnh 1: Ất Sửu/ Quý Mùi/ Bính Tuất/ Nhâm Thìn. Nguyệt lệnh thấu ra Ấn tinh, lại gặp hình xung thì phá mất Ấn cách, mộc là thần kinh, cho nên mệnh chủ là người mất trí, xuất thân ở gia đình bình thường.

Nam mệnh 2: Quý Sửu/ Kỷ Mùi/ Bính Thìn/ Mậu Tuất. Nguyệt lệnh Ấn tinh không thấu, Sửu Mùi xung khai Ấn khố, cách thành Thương quan phối Ấn. Mệnh chủ sinh ra ở gia đình quan chức. Nhận học vị Bác sĩ Pháp học. Đông phương trong Ấn vận làm quan tới Thiếu tướng trưởng khoa Cục Ngoại sự Quân ủy Trung ương.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Tiến khí thoái khí,
Mệnh vật tương tranh,
Tiến khí bất tử,
Thoái khí bất sinh.


Đại lục bình chú:
Ngũ hành vượng suy là do đắc căn cùng đắc khí cũng không phải để quyết định. Đắc khí cũng không phải lấy quyết định ở Nguyệt lệnh. Như mộc ở Hợi là trường sinh, trong Hợi có gốc mộc, là đã đắc căn lại đắc khí, ở Tý là đất mộc dục, thì chỉ đắc khí mà chưa đắc căn, ở Sửu là đất quan đới, cũng chỉ là đắc khí mà chưa đắc căn. Mộc ở Hợi là trường sinh, trước khi sinh ra, tất nhiên có một quá trình thai nghén rồi sinh dưỡng, gọi là Tiến khí, tức là mộc ở Tuất. Mộc ở Thìn tuy là suy, nhưng trong Thìn có thủy mộc, suy mà có lực, không phải là đúng suy. Mộc ở Tị thì hoàn toàn mất đi căn khí, gọi là Thoái khí, mới là đúng suy. Ngay lúc ngũ hành ở nơi trạng thái tiến khí , dù có vô căn, nhưng ở ngay lúc đầu Xuân là mầm mống thực vật, giúp cho hạt giống tiếp thụ ánh sáng cùng với mưa và sương mà sinh rễ nảy chồi, cho nên viết là Tiến khí bất tử. Ngũ hành lúc ở nơi trạng thái thoái khí, giống như sau mùa Thu lá vàng khô cháy, dù có bón phân tưới nước, cũng không thể hồi xanh chuyển vượng, cho nên viết là Thoái khí bất sinh. Vạn vật mừng sinh mà ghét tử, cho nên viết là Mệnh vật tương tranh.

Mệnh Lê Nguyên Hồng: Giáp Tý/ Giáp Tuất/ Đinh Tị/ Giáp Thìn. Nguyệt lệnh Tuất thổ tàng can không thấu, tức là lấy bản khí Mậu thổ làm dụng, cách thành Thương quan phối Ấn. Giáp mộc ở tháng Tuất tuy là vô căn, nhưng là tiến khí, tử mà không tử, gặp sinh liền khởi. Hỉ vận đến đất thủy mộc, được chỗ thích hợp, cho nên mệnh chủ học nghiệp có thành, đường quan lộ sáng tỏ, nhậm chức 2 đời tổng thống Dân quốc.

Mệnh Từ Càn: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Ngọ/ Kỷ Sửu. Trùng điệp Thương quan, hỉ gặp hai Ấn khắc chế, tuy nhiên cuối Thu mộc rụng, nhưng Giáp mộc ở tháng Tuất là tiến khí, gặp sinh mà khởi, cách thành Thương quan phối Ấn. Trong vận Đông phương, Ấn tinh đắc địa, mệnh chủ nhận chức Quan Bố chính ở Sơn tây.

Nam mệnh 1: Giáp Thìn/ Giáp Tuất/ Bính Thân/ Mậu Tuất. So với mệnh Từ Càn kém không có mấy, chỉ khác ở chi ngày có một chữ. Mệnh chủ sau khí tốt nghiệp chuyên môn sư phạm, một lúc thẳng tiến nhận chức giáo sư Trung học. Vận Mậu Dần, sau khi vợ đánh bạc thua mất hơn 10 vạn, tính đánh bạc vẫn không thay đổi, tiếp tục lấy mệnh ra đánh cuộc, và bị thua luôn, mệnh chủ chỉ còn biết là bỏ vợ. Ai ngờ vợ lại phản kháng, nói rằng anh ta ăn hối lộ phạm pháp, kết quả mệnh chủ buộc phải mất luôn cả công việc. Tại sao mệnh anh ta chỉ có thay đổi một chữ Thân kim mà danh vọng thì không thể như cái hình bóng của Từ Càn vậy? Bởi vì Tài tinh căn sâu, liền có thể hồi khắc tuế vận gặp đến Ấn tinh, do đó phá hoại cách cục Thương quan phối Ấn, cho nên, mệnh chủ lại gặp mất đi rất nhiều cơ hội thăng thiên, không thể phát quý. Lại cũng do Thê cung Tài hoại Ấn, cho nên là do vợ phá hoại sự việc.

Nam mệnh 2: Nhâm Tý/ Ất Tị/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. Sát Ấn đều thấu, cách luậnẤn dựa vào Sát sinh. Tiếc là Ấn tinh sinh ở tháng Tị là thoái khí, tuy có Sát sinh mà khó lấy sinh khởi. Mệnh chủ xuất thân ở một nông gia bần khốn, từ nhỏ tới lớn đều không thích đọc sách, mới mười mấy tuổi liền liên can tới việc trộm cắp. Vận Mậu Thân, năm Quý Dậu, là tham Tài hoại Ấn, do tội cưỡng gian mà bị xử lấy cực hình.

Nam mệnh 3: Nhâm Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Kỷ Hợi. Cũng là Sát Ấn đều thấu thành Ấn dựa Sát sinh cách. Do Ất mộc thoái khí, cách cục cực thấp, cho nên mệnh chủ không có đi học, cả đời lại ở vùng địa đầu biên cương mà đánh nhau, cuộc sống quá ư là bần khốn. Tốt ở Ấn tinh vô căn, đến vận Tây phương kim liền Tài tinh không thể phá Ấn, cho nên, mệnh chủ do cố thủ bổn phận, không đến nỗi làm người tà đạo.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Tài Quan nhập khố,
Bất xung bất phát,
Tứ trụ chi can,
Hỉ hành tương hợp.


Đại lục bình chú:
Chỗ này là nói Tài Quan nhập khố, cũng không phải là chỉ có Nguyệt lệnh, nhưng mà phàm tất cả vật nhập khố, không mở khai mộ khố, mọi vật bên trong đều không thể xuất ra. Cho nên nói, Tài Quan nhập khố, không xung không phát. Nhưng cách nói này là có phần không đúng, là vì vật ở trong khố không nhất định cần phải xung hình, cũng được thấu can. Lại nói, Tài Quan nhập khố, gặp đến xung hình cũng không nhất định lại phát, tất cả còn phải xem ở cách cục thành bại. Mặt sau hai câu lại nói, ở dưới tình huống giống nhau, can chi tứ trụ đều là hỉ hợp kị xung.

Ví như 《 Uyên Hải Tử Bình • Vận thông thi quyết 》chương mở đầu có nói: "Tam hội Tài Quan được thời vận, lụa là hương lý gặp ngày cưới." 《 Yêu Tường phú 》nói: " Can chi Tứ trụ, hỉ đất tam hợp, lục hợp." 《 Ái Tăng phú 》 nói: "Tam hợp, lục hợp, gặp thì cát nhiều họa ít." Tựa như là tuế vận chỉ cần gặp phải tam hợp, lục hợp, lại là lúc tam hợp Tài Quan cục, thì đều là việc tốt. Thực ra, can chi gặp hợp, có cát có hung, không thể sơ lược mà luận. Muốn luận đoán cát hung chuẩn xác, thì nhất định cần xem cách cục hỉ kị mà luận, hợp khử hung thần luận kị, hợp khử cát thần luận hung, hợp bán kị thần luận cát, hợp bán tướng hỉ thần luận hung, hợp động hỉ thần luận cát, hợp khởi kị thần luận hung, hợp mà cách thanh thì luận cát, hợp mà phá cách thì luận hung.

Nam mệnh1: Nhâm Thìn/ Đinh Mùi/ Tân Mùi/ Kỷ Hợi. Tháng ngày đều là Tài khố, thiên can Đinh Nhâm hợp Tài, cách thành dụng Tài phối Ấn. Vận Canh Tuất xung Thìn, cùng hình khai Tài khố, mệnh chủ kinh doanh nhiều lần gặp khó khăn, không thể phát tài. Sau khi vào vận Hợi, mệnh chủ làm đốc công thầu khoán, bắt đầu đại phát, tới nay đã là phú hào có ức vạn. Lại tại sao nói là mệnh Tài khố gặp hình xung là không phát, không gặp hình xung thì trái lại là đại phát chứ? Bởi vì mệnh cục có Tài tinh đã thấu, lại gặp xung hình thì thổ đa mộc chiết, dĩ nhiên khó lấy phát tài.

Nam mệnh 2: Mậu Thìn/ Kỷ Mùi/ Tân Dậu/ Nhâm Thìn. Ấn nhiều ấn vượng, lấy Thực Thương tiết tú làm cách, tuế vận hỉ Tỉ kiếp. Vận Canh Thân, mệnh chủ nhở được phúc ấm của cha mẹ, cuộc sống được nhận gấm vóc, lụa là cùng châu báu. Vận Tân Dậu, mệnh chủ đánh bạc phát tài lớn, mà danh dương tứ hải. Vận Nhâm Tuất hình khai nguyệt lệnh Tài khố, mệnh chủ một đường bại địa, về sau càng lâm vào cảnh tù tội mà không phát khởi. Tại sao lại hình khai Tài khố trái lại là không phát chứ? Bởi vì mệnh cục Tỉ kiếp có cường căn, Tài xuất ra thì bị thụ chế vậy.

Nam mệnh 3: Quý Mão/ Quý Hợi/ Quý Dậu/ Ất Mão. Hợi Mão hợp, hóa Kiếp thành Thương, lấy Dậu kim chế, cách thành Thương quan phối Ấn. Vận Tân Dậu 18 tuổi năm Tân Dậu, tuế vận cùng đến, mệnh chủ bị quân đội kiểm tra mà nhập ngũ. 22 tuổi năm Ất Sửu, Dậu Sửu hợp, mệnh chủ thành hôn. 25 tuổi năm Mậu Thìn, cùng trụ ngày thiên hợp địa hợp, mệnh chủ ly hôn. Tại làm sao mà thiên hợp địa hợp ở tuế vận, mệnh chủ gặp ly hôn chứ? Là do Mậu Quý hợp xuất thê tinh ra, mà 3 Quý tranh hợp 1 Mậu, vợ vượt qua quy cũ. Lại thêm Thìn Dậu hợp mà cùng Mão mộc xung chiến, mộc vượng kim khuyết, Ấn tinh thụ thương, cho nên ly dị.

Nam mệnh 4: Bính Thân/ Đinh Dậu/ Giáp Thìn/ Kỷ Tị. Vận Tân Sửu, năm Đinh Sửu, Tị Dậu Sửu tam hợp Quan cục, mệnh chủ bị người gạt mất 5000 nguyên, tức giận đến mức phải nhảy lầu, bởi vì tiền của là do nhiều năm tích góp lại. Tại sao tam hợp Quan cục sự việc lại không tốt chứ? Bởi vì Quan nhiều thành Sát, Bính Đinh hỏa lấy Tị làm gốc muốn chế Sát, sao không biết một lúc hợp Tị Dậu Sửu, Thực Thương bè đảng Sát mà tiết Tài để công thân, Thực Thương là tiền vốn, do đó mệnh chủ đầu tư gặp sai sót mà phá tài.

Nữ mệnh 1: Canh Thìn/ Mậu Tuất/ Canh Thìn/ Bính Tuất. Nguyệt lệnh Đinh hỏa phu tinh nhập mộ, Thìn Tuất xung mà xuất mộ, mệnh chủ gặp hôn nhân tốt ư? Không gặp. Bởi vì bát tự có Kiêu Ấn rất nặng, thổ nhiều hỏa tắt, xung có xuất ra cũng vô dụng. Thực tế, mệnh này trước 38 tuổi liên tục để tang 8 chồng, người gặp người sợ, thẳng đến đại vận Ngọ hỏa, Quan tinh đắc địa, chỗ mệnh chủ gặp được người chồng thứ 9 mới an nhiên vô hại.

Nữ mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Canh Thân/ Ất Dậu. Bát tự Đinh Nhâm hợp, Ất Canh hợp, Thân Tý hợp, tuế vận gặp vận Ất Mão, năm Ất Hợi, Hợi Mão Mùi tam hợp Tài cục, là có việc tốt ư? Không phải, mệnh chủ năm này bị tai nạn xe cộ mà tang thân, năm gần 28 tuổi. Thân cường gặp tam hợp Tài cục tuế vận không phát tài cũng đành, tại sao lại còn có đại họa sát thân chứ? Bởi vì Tài tinh tiết Thực sinh Quan, nhưng đồng thời Mão mộc lại hợp khắc Mùi thổ Ấn tinh, như vậy thì Quan tinh không có chế hóa, phá mất cách cục. Lại thêm tam hợp mộc cục xung Dậu kim là Dương Nhận, Tài Quan đều hao tổn, cho nên có họa tử nạn.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết