KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Bình chú: Hoàng Đại Lục

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Đề cương hữu dụng,
Tối phạ hình xung,
Xung vận tắc cát,
Xung dụng tắc hung.


Đại lục bình chú:
Nguyệt lệnh đề cương là chỗ đất ở của dụng thần, là hạt nhân đầu mối then chốt của cách cục, Nguyệt lệnh bị phá thì cách cục cũng theo đó mà bị phá, cách cục vừa bị phá, nhẹ thì nghèo hèn, bệnh tật, hình tang, nặng thì không chết cũng tàn tật, cho nên đề cương rất sợ hình xung. Trước tiên là mệnh cục, nếu như đề cương bị xung phá, đa số là mệnh nghèo, chết yểu. Tiếp theo là đại vận, xung phá đề cương thì hung họa lập tức đến. Tiếp nữa là lưu niên, dưới tình huống giống nhau, cách cục nếu thành, đại vận không quay lưng, thì không sợ lưu niên hình xung đề cương, trừ phi lưu niên cùng với kị, cừu thần hợp nhất thành thế lực lớn mạnh, đủ để xung phá đề cương.

Gọi là "Xung vận tắc cát, xung dụng tắc hung" ý là , có người lý giải là xung cùng quan hệ giống như bị xung, thực ra không phải vậy, bất luận là xung hay là bị xung, cuối cùng đều vẫn phải lấy lực lượng quyết định thắng bại, vượng cường xung suy nhược, thì suy nhược làm xung khởi vượng cường. Nên đại vận xung nguyệt đề, giống như nguyệt lệnh được tả hữu hộ vệ mà vững như thành đồng, đại vận có cái đầu, tiệt cước hoặc có một quân đội chiến đấu hăng hái mà lực yếu, thì đại vận không thể phá cách, gọi là dụng xung vận, lấy cát luận. Trái lại, nếu như là nguyệt lệnh hoặc có cái đầu, tiệt cước hoặc có một quân đội chiến đấu hăng hái, đại vận cùng mệnh cục hoặc lưu niên tập kết thành trận chiến dữ dội, thì tất có thể xung phá đề cương, gọi là vận xung dụng, lấy hung luận.

Đại vận xung đề cương, mỗi người chúng ta ai cũng có ở lúc khoảng 50 tuổi đến 60 tuổi đều có một bước đại vận như vậy, nhưng ai ở trong bước đại vận này đều phải gặp có đại nạn sinh tử chứ?
Không phải vậy, dưới đây có 5 tình huống thì không có đại nạn:
(1) Dụng xung Vận;
(2) Nguyệt lệnh dụng thần nhập khố không thấu, gặp đại vận xung hình xuất khố;
(3) Không sử dụng nguyệt lệnh dụng thần, hoặc mệnh có hai cách, thì không sợ xung đề cương phá cách;
(4) Đại vận cùng mệnh cục hình thành hợp cục có lợi, giải trừ nguy hiểm xung đề cương phá cách;
(5) Được lưu niên tới giải cứu.

Mời xem ví dụ thực tế:
Mệnh Vương Thế Trinh: Bính Tuất/ Canh Tý/ Giáp Thân/ Tân Mùi. Thiên can là Sát cần Thực chế cách, địa chi là Ấn dựa Sát sinh cách. 56 tuổi vào vận Bính Ngọ, cùng với đề cương là thiên khắc địa xung, 62 tuổi năm Mậu Tý, Thân Tý hợp mà xung Ngọ, gọi là xung vận, lấy cát luận, mệnh chủ trong 1 năm 2 lần chuyển biến, từ chức Phó Đô Ngự Sử thăng lên Binh Bộ Thị Lang, lại thăng lên Hình Bộ Thượng Thư. 64 tuổi năm Canh Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp hỏa cục xung nguyệt lệnh, gọi là xung dụng, thì lấy hung luận, mệnh chủ ở năm này bị bệnh chết.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Mệnh Vu Khiêm: Mậu Dần/ Đinh Tị/ Quý Mão/ Nhâm Tuất. Tòng Sát cách. Trung niên đến vận Canh Thân, Tân Dậu, hợp Tài thành Ấn, biến thành Ấn dựa Sát sinh cách, mệnh chủ đường quan lộ huy hoàng, từ thất phẩm lên hàng tam phẩm, nhận chức quan tuần phủ Hà Nam. 56 tuổi vào vận Quý Hợi, cùng đề cương là thiên khắc địa xung, Mậu Quý hợp hỏa, Hợi Mão hợp mộc lại sinh hỏa, vẫn lấy Tòng Sát cách luận. Bất lợi 59 tuổi gặp năm Đinh Sửu, Tị Sửu củng kim, phá mất Tòng Sát cách, nhưng do Ấn tinh không thấu mà khó lấy kết thành Ấn dựa Sát sinh cách, cho nên mệnh chủ đã mưu đồ phản nghịch bị tội xử tử.

Mệnh Chu Tất Đại: Bính Ngọ/ Bính Thân/ Kỷ Mão/ Kỷ Tị. Thương quan phối Ấn cách. 59 tuổi vào vận Nhâm Dần, cùng với đề cương thiên khắc địa xung, chỉ vì Dần Ngọ hợp mà chế Thương quan, không tổn hại cách cục, cho nên mệnh chủ có hỉ mà không có lo sầu, 60 tuổi năm Ất Tị thăng chức Sứ mật vụ ở trung ương, 62 tuổi năm Đinh Mùi lại hựu thăng quan thành Quang Lộc đại phu, được Thừa Tướng, 64 tuổi năm Kỷ Dậu lại thăng chức là Tả Thừa tướng, phong làm Quốc Công. Thẳng đến 70 tuổi thăng quan Văn Điện Đại học sĩ, lấy Ích Quốc Công về hưu.

Mệnh Hoàng Quang Thăng: Bính Dần/ Canh Dần/ Ất Dậu/ Đinh Sửu. Nguyệt lệnh thấu Thương, Dậu Sửu hợp thành Sát, cấu thành Thực Thương chế Sát. 60 tuổi vào vận Bính Thân, cùng đề cương thiên khắc địa xung, 61 tuổi năm Đinh Mão xung dậu kim, chế Sát quá nặng, mệnh chủ lấy chức Hình Bộ Thượng Thư cáo lão về hưu. 65 tuổi năm Tân Mùi, vào đại vận Thân, lưu niên thấu Sát, tăng cường lực cho Sát tinh, mệnh chủ tái nhậm chức Hình Bộ Thượng thư. 66 tuổi năm Nhâm Thân, lưỡng Thân xung lưỡng Dần, mệnh chủ lại xin được về hưu hồi gia, sau thọ đến 80 tuổi. Tại sao đều giống nhau là xung khắc đề cương, mệnh chủ chỉ là mỗi việc xin về hưu, không có đại tai đại nạn chứ? Bởi vì đề cương vượng cường, lấy hợp lại mộc hỏa, Thân kim không đủ để xung phá đề cương, nhưng hoặc nhiều hoặc ít đối với đề cương có tổn hại ở mức độ nhất định, cho nên là họa không lớn.

Mệnh Lý Bằng: Mậu Thìn/ Quý Hợi/ Ất Hợi/Bính Tuất. Khí Ấn tựu Tài cách. 52 tuổi vào vận Kỷ Tị, cùng đề cương thiên khắc địa xung, Tị hỏa là hỉ thần, nếu bị xung mất thì tất nhiên có họa. Tra lưu niên lúc sau 57 tuổi, lần lượt là Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, toàn là mộc hỏa thổ, không phải là thổ chế phục thủy, lại là mộc hóa tiết thủy, hợi thủy cuối cùng không thể xung hại Tị hỏa. Duy chỉ có năm Kỷ Tị, hai Tị xung hai Hợi, nguy cơ lộ rõ, nhưng thiên can mệnh cục tuế vận có ba thổ chế phục Hợi thủy, trong Tị có Mậu thổ cũng tương đối có lực, có khả năng bảo vệ Tị hỏa, do đó Hợi thủy không còn có khả năng xung hại Tị hỏa, cho nên "Lục tứ dân vận" rất lớn cũng không có thể mang theo anh ta là vị trí Thủ tướng để ầm ầm hạ xuống dưới. Chỗ này hoàn toàn là nhờ chỗ có lưu niên giải cứu cách gây nên.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Tam giả thấu lộ,
Nhật can yếu cường,
Ký căn hữu lực,
Phúc lộc vinh xương.


Đại lục bình chú:
Văn bản ở trên có hai chữ "Tam giả" là "Tam kỳ", xem ý nghĩa trên dưới của đoạn văn, chính là nói nguyệt lệnh, chưa nói đến cách cục cụ thể, tác giả không phải bỗng nhiên luận đến cùng với nguyệt lệnh không có chỗ quan hệ gọi là "Tam kỳ cách", mà là nối tiếp đoạn văn ở trên để thảo luận nguyệt lệnh, do vậy, nguyên văn tất nhiền là "Tam giả", tức là chỗ chi tháng tàng ba can. Nếu như chi tháng ba can cùng thấu, thì đề cương nhất định năng, do vậy yêu cầu "Nhật can yếu cường, ký căn hữu lực" (Nhật can nếu cường, nhờ căn có lực), mới có thể đảm nhận khởi dụng thần loại Tài Quan, nhận được phúc lộc.

Gọi là "Tam kỳ", tức là Tam Kỳ quý nhân, là một loại Thần Sát. Trên trời (Thiên can = Thiên nguyên) có tam kỳ là Giáp Mậu Canh, dưới đất (địa chi = địa nguyên) tam kỳ có Ất Bính Đinh, người ( nhân nguyên = can tàng trong địa chi) được tam kỳ là Nhâm Quý Tân.

Thí dụ như Nhật can là Giáp, can tháng là Mậu, can năm là Canh, địa chi có Tuất Hợi là Thiên Môn, tức là thiên can có Tam Kỳ quý nhân. Có thuyết là: "Nhân mệnh trị thử tam kỳ quý, tam nguyên cập đệ quan quần anh. Bất tác bồng lai tam đảo khách, dã ứng kim điện ngọc giai hành" (Sinh mệnh gặp Tam kỳ quý nhân, ba đời đỗ đạt đứng đầu quần hùng. Không làm khách của Bồng lai Tam đảo, thì cũng được bước lên bậc thềm của cung vàng điện ngọc) .

Thực sự như vậy ư? Chúng ta đừng ngại đi tìm hiểu một vài mệnh thực tế để xem:
Nam mệnh 1: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Dần/ Giáp Tuất. Mệnh này mù chữ, là lão nông bần khốn.
Nam mệnh 2: Canh Tý/ Mậu Dần/ Giáp Tuất/ Giáp Tuất. Mệnh văn hóa bậc Trung chuyên, là kỹ sư nông nghiệp bình thường.
Nam mệnh 3: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Dần/ Ất Hợi. Mệnh văn hóa bậc Cao trung, chuyên nhất làm thuê.
Nam mệnh 4: Canh Tý/ Mậu Dần/ Giáp Tuất/ Ất Hợi. Mệnh văn hóa bậc Cao trung, gia tộc lao động bình thường.
Nam mệnh 5: Canh Tuất/ Mậu Dần/ Giáp Ngọ/ Bính Dần. Mệnh Tiền Nhược Canh, Tiến sĩ, làm quan chức Lâm Giang Tri phủ, trung niên ngồi tù 37 năm.

Trên là tường thuật năm mệnh, mệnh Tam Kỳ thực ra thì không chỉ có nói rằng là loại này không lấy phương pháp cách cục để luận mệnh, là không thể đáng tin.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
《 Uyên Hải Tử Bình • Kế Thiện thiên 》nói: "Nam mệnh thân cường, ngộ tam kỳ vi nhất phẩm chi tôn" ( Nam mệnh thân cường, gặp Tam Kỳ là địa vị Nhất phẩm).

Nguyên chú là: "Bí quyết nói, nhật chủ cao cường, phú quý, Tài Quan Ấn thụ đều đủ, Giáp gặp Tân Kỷ Quý là đúng, Ất gặp Mậu Canh Nhâm có thể thấy, Bính gặp Quý Tân Ất là hiển lộ, Đinh gặp Nhâm Canh Giáp là thăng chức, Mậu hỉ Quý Ất Đinh, Kỷ gặp Nhâm Giáp Bính là Tam Kỳ, Canh Tân Nhâm Quý ví dụ, trước theo không phá, danh phát ở nơi cung điện". Có thể thấy, Tử Bình chỗ Kế Thiện thiên luận Tam Kỳ, thực ra Tam Kỳ là Tài Quan Ấn, không phải là các loại Giáp Mậu Canh, Ất Bính Đinh. Tất nhiên, tức là mệnh gặp Tài Quan Ấn là Tam Kỳ, cũng không đã không phải thân cường thì không thể, Lại không thể đều là địa vị nhất phẩm.

Trước tiên, theo cách lý luận ở trên mà nói, trong Thập thần là chế hóa lẫn nhau, Ấn hóa Quan Sát, Quan Sát hóa Tài, Tài hóa Thực Thương, Thực Thương hóa Tỉ Kiếp, Tỉ Kiếp chế Tài, Tài chế Ấn, Ấn chế Thực Thương, Thực Thương chế Quan Sát, Quan Sát lại chế Tỉ Kiếp, đã như vậy, nguyệt lệnh dụng thần thấu xuất, thì chỉ cần cùng với Tướng thần chế hóa thành cách là được, cùng với Nhật can cường nhược không có quan hệ trực tiếp. Ví như ba Tài Sát Ấn cùng thấu, chỉ cần Sát Ấn không có gây trở ngại cho nhau, Ấn có thể hóa Sát sinh thân tức là được, Nhật can bất tất phải cường. Ngoài ra, nếu là vấn đề Dụng, Tướng thần thanh thuần hỗn tạp, như Quan Sát hỗn tạp, không luận nhật can cường nhược đều lấy phá cách mà luận, nhất định phải được khử Quan lưu Sát hoặc khử Sát lưu Quan, mới có thể thành cách. Lại như chế hóa cùng có, cũng thuộc phá cách, cùng với Nhật nguyên cường nhược là không quan hệ. Lại như dụng thần nhiều, thì cần phải ức chế, Quan nhiều không quý, cần có Thực Thương ức chế; Tài nhiều là không có Tài, thì cần có Tỉ Kiếp ức chế; Ấn nhiều là vô phúc, cần Tài tinh ức chế …, chỗ này cũng đều cùng với Nhật can cường nhược là không có quan hệ trực tiếp. Cho nên, 《 Tinh Vi thiên 》ở chương mở đầu nói: "Phàm xem nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Gặp Quan xem Tài, thấy Tài mà phú quý; Gặp Sát xem Ấn, có Ấn lấy vinh hoa; Gặp Ấn xem Quan mà gặp Quan, 10 có 7 là có địa vị; Gặp Tài kị Sát mà có Sát, 10 có 9 là nghèo".

Lý này tại sao nói xem mệnh trước tiên cần xem Nhật chủ cường nhược, mà là nói thẳng cần "Chuyên luận cách cục" chứ? Tại sao không nói gặp Quan xem bản thân, gặp Sát xem Nhật nguyên chứ?

Rất là hiển nhiên, Nhật nguyên cường nhược cùng cách cục thành bại không có quan hệ trực tiếp, cần phải xem cách cục, lại chỉ cần xem tổ hợp dụng thần cùng tướng, hỉ thần là hiểu.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Mệnh Đỗ Nguyệt Sênh: Mậu Tý/ Canh Thân/ Ất Sửu/ Nhâm Ngọ. Nguyệt lệnh Tài Quan Ấn cả ba đều thấu, nhưng can năm Mậu thổ cái đầu khắc Tý thủy, thời thuơ ấu Ấn tinh bị tổn hại, rõ ràng là mệnh chủ sớm gặp tang cha mẹ, học nghiệp không thành. Nhưng bát tự có can giờ Ấn thấu thành cách, thì rõ ràng là mệnh chủ sau trung niên sự nghiệp gặp phải một lúc thành tựu. Kết hợp xem đại vận, trung niên là Giáp Tý vận, Giáp mộc có thể khử Mậu thổ hộ Ấn cứu cách, khử Tài đắc Tài, tất nhiên là danh lợi đại phát. Thực tế, mệnh chủ 3 năm tang mẹ, 5 năm tang cha, chỉ đến học đường vài tháng. Từ nhỏ đã từng bán trái cây mà sống. Sau vận Quý Hợi, sự nghiệp mệnh chủ dần dần có thế lực, vận Giáp Tý nhảy lên đỉnh cao, thành người đứng đầu số 1 số 2 ở đất Thượng Hải, đồng thời anh ta còn đảm nhận Viện Hành chính Tham nghị (Đời nhà Minh, dưới quan bố chánh, quan thông chánh, có chức quan tham nghị. Nhà Thanh, dưới quan thông chánh cũng là quan tham nghị. Thời kỳ dân quốc, tham nghị thường là chức vị nhàn tản), chức vụ Bộ Tổng Tư lệnh Thiếu tướng Tham nghị, phú quý song toàn. Ngẫm lại xem, mệnh này Nhật can Ất mộc hư phù vô căn, ở vận Giáp Tý cũng không có căn, lại không phải là tòng cách, tại sao mệnh chủ có dạng phúc lộc vinh xương chứ?

Mệnh Mao Thuận Sinh: Canh Ngọ/ Bính Tuất/ Giáp Thân/ Mậu Thìn. Nguyệt lệnh Sát Thực Tài cả ba đều thấu, nhật nguyên thất lệnh, lại không có cường căn, lại còn không có Ấn sinh, nhưng do Thực thần chế Sát cấu thành cách cục, chỉ cần Thực thần đến vượng địa, liền có thể phát phúc. Trong vận Canh Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp Thực thần cục, chế Sát mà sinh Tài, mệnh chủ làm lương thực cùng làm ăn mua bán thịt heo, dần dần đại phát, về sau mua 22 mẫu đất tốt, bản thân còn làm ra "Mao nghĩa thuận đường" lưu thông tiền phiếu, trở thành giàu nhất ở địa phương.

Mệnh Tôn Hóa Long: Giáp Thìn/ Bính Dần/ Tân Hợi/ Mậu Tý. Nguyệt thấu Tài Quan Ấn tam kỳ, nhật nguyên vô căn, vô khí. Đến vận Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Ấn tinh đắc địa có thể hóa Quan sinh thân, về sau mệnh chủ được Tiến sĩ, làm quan tới Phó sứ Án sá, đặc trách giám sát ở Sơn Tây. Làm quan 30 năm.

Mệnh nam: Kỷ Sửu/ Bính Dần/ Canh Dần/ Giáp Thân. Cũng là nguyệt lệnh Tài Quan Ấn đều thấu, cùng với mệnh Tôn Hóa Long gần giống nhau, mệnh này nhật nguyên có Sửu Thân là căn, Ấn tinh cũng có lực, nhưng mệnh chủ này chỉ là Phó cục trưởng Cục Ti pháp một Huyện, làm quan thất phẩm, mức độ phú quý kèm theo quan tứ phẩm đặc trách giám sát ở Sơn Tây, còn kém xa một đoạn. Tại sao Nhật nguyên có cường căn mà không bằng không có căn chứ? Nguyên nhân là do Sát cần Ấn hóa, Sát nặng Ấn nhẹ thì cách cao, mà mệnh Kỷ Sửu có Ấn tinh tương đối nặng, lại đến Tây phương kim vận Sát tinh lại càng nhẹ, cách cục liền thấp hơn so với mệnh của họ Tôn từ 2-3 bậc, cho nên không bằng họ Tôn. Cho nên đây không phải là vấn đề nhật nguyên cường nhược, mà vấn đề là giữa Sát cùng với Ấn.

(Hết tập 2)

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
( Tập ba )

Chính văn:
Thập can hóa thần,
Hữu ảnh vô hình,
Vô trung sinh hữu,
Phúc lộc nan bằng.


Đại lục bình chú:
"Thập can hóa thần" tức Giáp Kỷ hóa thổ, Ất Canh hóa kim, Bính Tân hóa thủy, Đinh Nhâm hóa mộc, Mậu Quý hóa hỏa. Ý tứ của bản văn chỗ này là Thập can hóa thần là “Hữu ảnh vô hình” ( có ảnh mà không có hình), "Vô trung sinh hữu” (trong không có sinh xuất hiện), khó lấy làm bằng chứng mà suy đoán phúc lộc. Nói cách khác, hóa khí cách có thể không luận. Cho nên, tác giả về sau để xuống dưới có mấy câu, đoạn văn ở dưới liền không luận tiếp cùng với hóa khí cách.
Chẳng lẽ Thập can hợp hóa lại theo “Hữu ảnh vô hình”, “vô trung sinh hữu”, thật sự cũng không thể suy đoán phúc lộc ư? Chỗ này không có hợp với quan điểm của Tử Bình.

Tử Bình 《 Hỉ Kị thiên 》nói: "Hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu" (Hình có thấy hoặc không thấy, không có thời thì không có).

《 Uyên Hải Tử Bình 》thì có các loại như "Đảo xung cách", "Tỉnh lan cách", "Triều dương cách" , đều là cách cục Hữu ảnh vô hình, Vô trung sinh hữu, nhưng đều là có thể lấy dựa vào vô hình mà suy đoán ra phúc lộc.

《 Thần Phong thông khảo • Thập Can tòng hóa định quyết 》 thì chỉ ra rất rõ là : "Phàm khán bát tự, tiên minh tòng hóa vi bản. Tòng hóa bất thành, phương luận tài quan. Tài quan vô thủ, phương luận cách cục. Phi cách phi cục, vô túc luận hĩ. Nhược nhân mệnh tòng hóa thành cách cục, tất vi phú quý chi mệnh. Phú vân: hỏa hư hữu diễm, mộc thịnh đa nhân, đắc tòng đắc hóa, định hiển thanh danh chi sĩ, cố dã" (Phàm xem bát tự, trước tiên cần phải rõ bản chất của tòng hóa. Tòng hóa không thành, mới luận Tài Quan. Không có Tài Quan, mới luận cách cục. Không cách, không cục, không đủ luận vậy. Nếu như mệnh tòng hóa thành cách cục, nhất định là mệnh phú quý. Phú nói: Hỏa hư có sáng, mộc thịnh thì giàu lòng nhân ái, được tòng, được hóa, định là quan hiển lộ thanh danh, là vậy). Ý tức là xem bát tự trước tiên cần phải xem tòng hóa cách, tòng hóa cách không thành, mới luận Tài Quan chính cách. Chính cách không lấy được, mới luận ngoại cách. Mệnh không nhập cách, thì không đủ để luận. Chỉ cần bát tự tòng hóa thành cách, nhất định là người phú quý. Cho dù bát tự sợ hỏa nhiều mà ánh sáng quá mãnh liệt, hoặc là mộc thịnh mà dừng lại không có tiết, nhưng nếu có thể cấu thành tòng hóa cách, thì tất nhiên là làm quan công danh hiển đạt.

Một thuyết hóa khí cách phúc lộc khó có bằng chứng, một thuyết hóa khí cách phú quý là tất nhiên, chúng ta tin cái nào chứ? Xem kết quả thực tế sau:

Nữ mệnh 1: Đinh Tị/ Quý Mão/ Quý Dậu/ Mậu Ngọ. Thiên can Mậu Quan không có Ấn hóa, không thể cấu thành Quan Ấn cách. May mắn ở Mậu Quý gần kề, tháng ở Mão mà giờ ở Ngọ, có thể cấu thành Mậu Quý hóa hỏa cách. Trong Bính Ngọ hỏa vận, khắc khử Dậu kim Ấn tinh, hóa hỏa thành công, mệnh chủ mua bán kinh doanh đồ trang phục, phát tài gần 1000 vạn. Nếu như lấy thân nhược hỉ Ấn luận, thì tất nhiên giải đoán sai lầm.

Nữ mệnh 2: Đinh Mùi/ Nhâm Tý/ Đinh Mão/ Quý Mão. Mệnh này nếu lấy theo cách thông thường là luận Quan Ấn cách, thì Quan không có Tài sinh, đại vận lại là Đông phương Quan tinh ở đất tử tuyệt, Ấn nặng Quan nhẹ, là có thể nói quả quyết là không có phú quý. Nhưng Đinh Nhâm hợp mộc, lấy hóa khí cách xem, thì vận Đông phương là chỗ thích hợp, bản thân mệnh chủ có một phen thành tựu. Thực tế, mệnh chủ ở trong vận Đông phương buôn bán rượu, phát tài hơn 100 vạn.

Nam mệnh 1: Bính Ngọ/ Đinh Dậu/ Tân Mùi/ Bính Thân. Nếu như lấy Nguyệt Kiếp dụng Quan cách luận, thì đại vận là Bắc phương thủy địa, Quan Sát gặp tử tuyệt, tất nhiên là không thể phú quý. Nhưng mà, mệnh chủ ở hai vận Canh Tý, Tân Sửu 20 năm, kinh thương thành công, phát tài tính ra cả 100 triệu. Tại sao mệnh chủ có thể ở vận Quan Sát gặp tử tuyệt mà đại phát tài chứ? Nguyên nhân chỉ có một, đó là bát tự cấu thành Bính Tân hóa thủy cách, lấy Quan Sát là bệnh, đại vận thủy thổ có thể khử bệnh cách cục, do đó mời có gặp kết quả này.

Nam mệnh 2: Đinh Mùi/ Tân Hợi/ Bính Tý/ Đinh Dậu. Mệnh này Tài Quan quá nặng, nếu lấy thân nhược hỉ Ấn Tỉ mà luận, thì mệnh chủ kị hành Tây phương kim vận mà hỉ hành Nam phương hỏa vận. Nhưng mà sự thực là, mệnh chủ ở trong vận Tây phương kim Sát kẻ địch lại lập công, làm quan tới chức Thiếu tướng. Vào vận Nam phương gặp năm Kỷ Sửu tức là chiến bại bị bắt, sau này toàn bộ vận lý Nam phương mệnh chủ đều trải qua ở trong nhà giam. Tại sao lại như vậy chứ? Bởi vì mệnh cục kim thủy đắc thế, cấu thành Bính Tân hóa thủy cách. Vận Kỷ Dậu, Mậu Thân, thiên can Mậu Kỷ thổ tiết hỏa sinh kim, địa chi Thân Dậu kim tiết thổ sinh thủy, khử mất hóa thủy cách là bệnh của cách cục, cho nên mệnh chủ mới có vũ chức xuất chúng. Nam phương vận phá mất hóa thủy cách, cho nên thân hãm vào nhà lao.

Nam mệnh 3: Quý Tị/ Kỷ Mùi/ Đinh Mão/ Nhâm Dần. Bát tự có Quan Sát vô căn, không thấy Tài tinh, đại vận lại nghịch hành Đông phương Thực Thương vượng địa, loại mệnh này chẳng lẽ gặp phú quý ư? Theo lẽ thường là không gặp. Nhưng vì Mão Mùi hợp mộc, Đinh Nhâm hợp mộc, cấu thành Đinh Nhâm hóa mộc cách, cho nên mà mệnh chủ ở trong vận Mậu Ngọ, Đinh Tị, Bính Thìn không có chỗ biểu hiện, ở trong vận Ất Mão mộc vận trở thành chủ doanh nghiệp nỗi tiếng ở địa phương, tài phát tính ra hơn 100 vạn.

Tường thuật 5 mệnh kể trên, hóa khí cách vẫn còn tồn tại, chỉ cần hợp hóa thành công, vận hành không trở mặt, đều là mệnh hoặc phú hoặc quý. Hóa thần không phải là Hữu ảnh vô hình, Vô trung sinh hữu , mà là hai loại ngũ hành sau khi hợp hóa mà thành vật, giống như trong sinh hoạt hiện tại hàng loạt sản phẩm hợp thành một dạng sản phẩm phổ biến mà tồn tại chân thực.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Thập ác đại bại,
Cách trung sở kị,
Nhược ngộ tài quan,
Phản thành phú quý.


Đại lục bình chú:
"Thập ác đại bại" là một loại Thần Sát. Phàm bát tự có trụ ngày là Giáp Thìn, Ất Tị, Nhâm Thân, Bính Thân, Đinh Hợi, Canh Thìn, Mậu Tuất, Quý Hợi, Tân Tị, Ất Sửu ở 1 trong 10 ngày này, là phạm thần sát "Thập ác đại bại". Tại sao người sinh ra trong 10 ngày này từ trong bụng mẹ bỗng chốc liền dính vào loại hung thần ác sát chứ? Cổ nhân giải thích nói, là bởi vì người sinh ra trong 10 ngày này Lộc gặp phỉa Tuần Không, thí dụ như người sinh ngày Giáp Thìn, Ất Tị, Giáp Lộc ở Dần, Ất Lộc ở Mão, mà trong tuần Giáp Thìn thì Dần Mão là Không vong, cho nên người sinh ngày Giáp Thìn, Ất Tị liền gặp "Lộc nhập Không Vong". Tác giả cho rằng loại "Lộc" này là đại biểu quan lộc, y lộc, một khi gặp Tuần Không, liền thuộc về mệnh không mang hai chữ y lộc là mệnh bần tiện, mà tuyệt đối không thể tránh khỏi, cho nên lấy tên là "Thập ác đại bại" . Tất nhiên, tác giả lại cho rằng, nếu như loại thần sát này gặp hai chữ Tài Quan, thì trái lại trở thành phú quý, lại được thần sát rất tốt.

Vấn đề là, hai chữ "Tài quan" này tác giả là chỉ Nguyệt lệnh là hai cách Tài Quan, hay là chỉ bản thân ngày hôm đó do mang Tài Quan? Nếu như là vế thứ hai, như vậy, 10 ngày kể trên thì có 5 ngày là Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Thân, Canh Thìn, Ất Sửu là mang Tài tinh, còn 2 ngày Đinh Hợi, Tân Tị lại mang Quan tinh, là rất rõ ràng, tác giả chỉ rõ không phải loại tình huống này, mà là chỉ rõ tình huống nguyệt lệnh là Tài Quan.

Loại thần sát này thật ra có thể sợ như vậy ư? Nếu như nguyệt lệnh không gặp Tài Quan, thì mệnh thật là ngày "Thập ác đại bại" ư? Mời xem ví dụ thực tế:

Mệnh họ Vương chuyên kinh doanh địa sản: Giáp Thìn/ Bính Dần/ Giáp Thìn/ Bính Dần. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhưng mệnh chủ nghề nghiệp là kinh doanh địa sản, phát tài đếm khoảng 10 triệu. Tượng loại này là "Thập ác đại bại" chỉ sợ là rất nhiều người hoang tưởng đều suy nghĩ là có.

Mệnh Tôn Thừa Tông: Quý Hợi/ Giáp Dần/ Giáp Thìn/ Nhâm Thân. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhưng mà mệnh chủ 41 tuổi năm Giáp Thìn là bảng nhãn cao trung, làm quan ở Hàn lâm. Về sau làm quan tới Binh Bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ.

Mệnh Lưu Nghiêu Khanh: Quý Tị/ Tân Dậu/ Canh Thìn/ Giáp Thân. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", thế nhưng, mệnh chủ lại ở 32 tuổi năm Ất Sửu được Tiến sĩ, nhận chức Ngự Sử tới giám sát đường Vân Nam, vừa có thanh danh, vừa có hiếu.

Mệnh Từ Hi: Ất Mùi/ Đinh Hợi/ Ất Sửu/ Kỷ Mão. Nguyệt lệnh không có Tài Quan, phạm ngày "Thập ác đại bại", nhưng mà mệnh chủ chính là không có bảng hiệu đứng sau rèm Hoàng Đế, danh vọng của mệnh nữ này trở thành Phượng Hoàng e rằng đều hoan hỉ loại "Thập ác đại bại" sao?

Mệnh nam: Đinh Hợi/ Mậu Thân/ Ất Sửu/ Nhâm Ngọ. Nguyệt lệnh dù có Tài Quan, nhật nguyên cũng là phạm "Thập ác đại bại", nhưng mệnh chủ lúc 6 tuổi đã vì bệnh tê liệt, sau thành tàn tật. Sau khi 16 tuổi một mực lang bạt ở bên ngoài, đến già cũng không đến nỗi làm mang tiếng cho họ hàng, cả nhà đều không thành đạt. Tại sao chỗ này mang "Thập ác đại bại" mệnh có Tài Quan lại không có chút nào là gặp phú quý chứ? Không phải, là do nguyên nhân khác, là do Đinh Nhâm hợp nhất, phá mất Quan Ấn cách, lại thêm đại vận nghịch hành, Ấn tinh lại hành đất tử tuyệt, cách không thành, cho nên mới có sự việc không thành.

Có thể thấy, "Thập ác đại bại" cũng không có chỗ tên gọi biểu thị kinh khủng như vậy, nó chỉ là một loại thần sát bình thường. Giống như chỗ 《 Tử Bình Chân Thuyên 》nói, thần sát cũng không ảnh hưởng tới ngũ hành vượng suy, cường nhược, cũng không ảnh hưởng tới cách cục thành bại, cao thấp. Do vậy, chúng ta không thể sử dụng thần sát để suy đoán nhân mệnh phú quý hay bần tiện. Mệnh phạm "Thập ác đại bại" , không nên sợ hãi, cũng không nên vui mừng, nhất thiết đều phải xem cách cục thành bại hay cao thấp mà nói. Mệnh mang "Thập ác đại bại" mà người bần tiện, nhất định là do bát tự không thành cách cục; mệnh mang "Thập ác đại bại" mà người phú quý, nhất định là do bát tự thành cách, thành cục, cả hai đều cùng không có liên quan tới ngày "Thập ác đại bại" .

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Cách cách suy tường,
Dĩ sát vi trọng,
Hóa sát vi quyền,
Hà sầu tổn dụng.


Đại lục giải thích:
Cách cục có nhiều loại, có đôi khi một bát tự lại có 2 cách, 3 cách, vậy trong đó loại cách cục nào quan trọng nhất chứ? Là Sát Quan cách. Sát Quan cách cùng lúc tồn tại, thì lại lấy Sát cách làm trọng. Tại sao chứ? Bởi vì Thất Sát là vật công thân, mệnh mang Thất Sát, thì giống như nằm bên cạnh mãnh hổ, nếu đầu tiên không lấy chế phục, thì có lúc mà mệnh khó giữ được, thì sao mà có tâm trí để suy nghĩ nói chuyện danh lợi hôn nhân chứ? Cho nên “Cách cách suy tường”, là cần phải lấy Sát cách làm trọng là đầu tiên. Thứ đến là Chính Quan cách, bởi vì Chính Quan là đại biểu cho danh dự, địa vị, quyền lực, chế độ cùng luật pháp. Chỉ cần mỗi con người sinh hoạt ở trong quần thể xã hội, dù ở bất cứ nơi nào thì cũng cùng ảnh hưởng bởi sự quản thúc của nhà nước. Xúc phạm ở chỗ Quan đại biểu cho sự vật, thì phải gặp đến sự công kích của quần thể xã hội, nhẹ thì chịu xã hội cưỡng bức, nặng thị phải bị quần thể tước đoạt tài sản, có khi đến cả sinh mệnh. Bởi vậy, Chính Quan tính quan trọng chỉ đứng sau ở Thất Sát.

Cho nên 《 Uyên Hải Tử Bình • Bảo pháp nhị 》có nói: "Phàm cách đương dĩ Sát Quan ngôn chi." 《 Tam Mệnh thông hội • Luận Chính Quan 》nói: "Hựu viết quan tinh bất tất chuyên nê vu nguyệt lệnh chi thần, hoặc nguyệt can, hoặc niên nhật thời chi can, chỉ nhất xứ hữu, bất tằng tổn thương, giai khả thủ dụng" ( Lại nói Quan tinh không nên chấp nê ở thần nguyệt lệnh, hoặc can tháng, hoặc can năm , ngày, giờ, chỉ một nơi có, không bị tổn thương, đều có thể lấy làm dụng). Ý là muốn nói, phàm bát tự chỉ cần có Sát Quan thành cách, bất kể đúng hay không đúng là nguyệt lệnh dụng thần, đều cần phải trước tiên lấy Sát Quan cách này. Chỉ cần năm, ngày, giờ có Sát Quan thành cách, thì không sợ tổn hại nguyệt lệnh dụng thần, ý chỗ này cũng là "Hóa sát vi quyền, hà sầu tổn dụng" .
Có mệnh sư ôm lấy quyết định nguyệt lệnh dụng thần mà không hiểu biến thông, một mặt bám chặc lấy ở thiên can nắm quyền ti sự , hoặc chỗ vấn đề gọi là "Bình hành", "Điều hậu", "Thông quan" để lấy "Dụng thần", không hiểu đạo “Cách cách suy tường” lấy Sát Quan là phương pháp đầu tiên để thủ cách, dạng này sẽ tồn tại xuất hiện một loại bát tự ở trên mà suy đoán sai lầm.

Như mệnh Ngô Đại Đình, sinh vào ngày 8, tháng 12, năm 1824, giờ Thìn, mệnh thức là : Giáp Thân/ Đinh Sửu/ Bính Dần/ Nhâm Thìn. 《 Tam Mệnh thông hội • Nhân Nguyên dụng sự ca 》nói: "Sửu cung cửu nhật quý chi dư, trừ khử tam tân giai thuộc kỷ." Ý tức là tháng Sửu trước 9 ngày là Quý thủy dụng sự, tiếp theo 3 ngày là Tân kim dụng sự, còn lại 18 ngày là Kỷ thổ dụng sự. Tra 《 Vạn niên lịch 》có thể biết, năm này ngày 17, tháng 11 âm lịch là giao tiết Tiểu Hàn, tới tháng 12, ngày 8, cộng lại là 21 ngày, gặp lúc Kỷ thổ dụng sự, cũng tức là Thương Quan dụng sự. Nếu như chúng ta chấp nhất lấy Kỷ thổ Thương quan làm dụng thần, như vậy, có thể lấy cách cục chỉ có Thương quan phối Ấn cách. Xem lý thuyết, mệnh chủ nếu đến Đông Bắc phương thủy mộc vận mới có thể phát phúc. Nhưng mà, mệnh chủ lại ở Tị vận, 42 tuổi năm Ất Sửu phụng chỉ phép vua tới trông coi nghề làm muối ở Phúc Kiến, chính thức bước vào con đường làm quan. Vào vận Nhâm Ngọ lúc 43 tuổi năm Bính Dần thăng chức Tuần phủ Đài Loan,cùng được phong tước Nhị phẩm. Mệnh chủ ở trong vận Nhâm Ngọ một đường đảm đương chức quyền, thẳng đến 53 tuổi vào vận Quý sau đó qua đời. Thử nghĩ, Ngọ vận chính là Ấn tinh tử địa, Dần Ngọ hợp mà hóa Ấn thành Kiếp, mệnh chủ tại sao có thể có địa vị là Tuần phủ Đài Loan chứ? Chỗ này là dụng Thương quan luận cách mà thật sự là không có phép giải thíc. Thực ra, mệnh này tháng thấu Nhâm Sát, tuy có thể dụng Giáp Ấn hóa Sát, cũng có thể lấy Đinh hỏa hợp Sát, vận Nhâm Ngọ chính là Đinh hỏa đất đắc Lộc, hợp Sát có lực, cho nên mà mệnh chủ mới có thể giữ địa vị làm quan lớn trấn giữ ở biên cương.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Lại như Từ Nhạc Ngô chỗ《 Tử Bình túy ngôn • Yểu thương mệnh 》đưa ra ví dụ một nam mệnh: Đinh Dậu/ Nhâm Dần/ Giáp Dần/ Ất Sửu.

Từ thị giải thích nói: "Sách nói rằng, hỏa mộc thiết kị mai căn. Giáp Dần, là hoạt mộc vậy. Sinh ở đầu mùa Xuân, mộc còn non mừng có hỏa ấm là vinh, kị kim đến là địch làm tổn thương. Năm và giờ có Dậu Sửu hội cục, may mắn được Đinh hỏa xuất can để cứu. Cho nên sinh ở gia đình phú quý. Không như Đinh Nhâm hợp khử dụng thần, vận hành Tân Sửu, lúc nhỏ nhiều bệnh. Vận Canh Tý, năm Canh Thân chết, là do mộc bị kim thương vậy". Ý của ông ấy là, mệnh này mộc còn non cho nên kị kim mà hỉ hỏa, may mắn có Đinh hỏa khắc Dậu kim, mới có thể sinh ở gia đình phú quý. Vận Canh Tý năm Canh Thân chết yểu, là do mộc bị kim khắc phá hại. Thực ra, nếu xem theo cách này thì 10 phần đều sai lầm. Tử bình thủ cách, không luận điều hậu, chỉ lấy Quan Sát cùng với nguyệt lệnh thần ti sự làm dụng định cách. Mệnh này nguyệt lệnh thấu ra Đinh hỏa, tức là dụng thần, ý là không do ở điều hậu vậy. Đinh Nhâm hợp mà hóa mộc, dụng thần hóa hư, không thể lập thành cách. Lại xem năm và giờ có Dậu Sửu hợp Sát chế Kiếp, cách thành Nguyệt Kiếp dụng Sát cách.

Ở đoạn văn phía trên của《 Tứ Ngôn độc bộ 》có nói: "Nguyệt lệnh kiến lộc, bất trụ tổ ốc, nhất kiến tài quan, tự nhiên phát phúc." Ý tức là Nguyệt lệnh là Tỉ Kiếp thì không có dụng thần, cho nên mà khó có được di nghiệp tổ tông. Nhưng mà có thấy Tài Quan chế Kiếp, tức có thể hưởng phúc tổ tông. Mệnh này chính là do có chi năm là Dậu Quan chế Kiếp, cho nên mà mới sinh ở gia đình phú quý. Lý này là Đinh Nhâm hợp, vừa đúng lúc do Nhâm thủy hợp Đinh thành mộc, Đinh hỏa không thể khắc chế Dậu kim, thì mới được lấy bảo toàn Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Nhưng mà Từ thị lại nói trước là "Không như Đinh Nhâm hợp khử dụng thần", tiếp theo lại tự mâu thuẫn với chỗ nói : "May mắn được Đinh hỏa xuất ra can để cứu giúp", tựa như là Nhâm thủy cũng không có hợp khử mất cái gọi là "Dụng thần" Đinh hỏa vậy. Tới vận Tân Sửu tại sao mệnh chủ"Lúc nhỏ nhiều bệnh", không phải là nguyên nhân do"Đinh nhâm hợp khử dụng thần", mà là Đinh Nhâm hợp mộc hình thành Tỉ Kiếp kháng lại thế Quan tinh, ở cách có tổn hại, do đó nhiều bệnh. Mệnh chủ ở vận Canh Tý năm Canh Thân chết yểu, cũng không phải do "Mộc bị kim thương", mà là kim bị chìm ở đất thủy, Thân Tý hợp thủy, tướng thần do bị hóa hư. Là kim bị thủy mộc tổn hại, mà không phải là mộc bị kim hại.

Mệnh Trần Hữu Niên: Tân Mão/ Canh Dần/ Giáp Tý/ Giáp Tuất. Xem phương pháp Từ thị luận mệnh, mệnh này cũng thuộc mộc non hỉ hỏa kị kim. Nhưng mà, mệnh chủ 31 tuổi năm Nhâm Tuất được Tiến sĩ, nhậm chức chủ sự Hình Bộ. Vận Bính Tuất, 42 tuổi năm Quý Dậu do phải gặp tổn thất ở triều đình tranh giành, không nói rõ thất bại mà dẫn đến bệnh phải từ chức. Thẳng đến vận Ất Dậu, 53 tuổi, năm Ất Dậu phục hồi lại chức, một đường quan chức liên tiếp thăng lên, tới 62 tuổi năm Quý Tị nhậm chứ Lại Bộ thượng thư. Sự thực chứng minh, Từ thị nói mộc non hỉ hỏa kị kim là không đủ để tin, bởi vì mệnh này cũng không phải do ở vận hỏa vượng mà là ở vận kim vượng, thăng chức liên tục. Lấy Tử Bình cách cục luận, mệnh này thì thuộc ở tiêu chuẩn Nguyệt Kiếp dụng Sát cách. Kiếp nặng Sát nhẹ, hỉ ở đất Sát vượng, do đó đắc ý ở Tây phương vận. Có thể thấy, luận mệnh cần lấy cách cục làm chủ, lấy Sát Quan là ưu tiên đứng đầu, không cần suy nghĩ nói đến mộc nộn ( non) hỉ hỏa kị kim gì cả.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Sát bất ly Ấn,
Ấn bất ly Sát,
Sát Ấn tương sinh,
Công danh hiển đạt.


Đại lục bình chú:
Thất Sát vi hung thần, tốt ở tấn công thân, tất cần có chế hóa. Thất Sát không có chế, nhẹ thì không quý, nặng thì không yểu cũng bần. Sát là nghề võ, Ấn là văn hoa, lấy Ấn hóa Sát, thì có thể hóa cương thành nhu, hóa ác thành thiện, khiến cho người có cả văn lẫn võ, công danh hiển đạt. Có Sát không có Ấn thiếu tài văn chương, có Ấn mà không có Sát thì thiếu uy phong. Bởi vậy, Thất Sát hỉ nhất là có Ấn hóa, cho nên viết Sát bất ly Ấn, Ấn bất ly Sát. Tuy nhiên, ngoại trừ lấy Ấn hóa Sát, vẫn còn có lấy Thực Thương chế Sát, lấy Kiếp Nhận hợp Sát, nhưng mà hóa Sát là lấy đức báo oán, hóa địch thành bạn bè; còn chế Sát là Giáng long phục hổ, là chỗ ta sử dụng; hợp Sát thì là mượn hắn để kiềm chế đối thủ, đều không thể thu kết quả hóa Sát hoàn mỹ. Cho nên mệnh thư có nói một thuyết là: "Hợp Sát bất như chế Sát, chế Sát bất như hóa Sát".

Nam mệnh 1: Mậu Tý/ Giáp Tý/ Mậu Tý/ Giáp Dần. Can thấu hai Sát, không có Ấn hóa Thực chế, nếu lấy Tòng Sát cách luận, thì đại vận là Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, một mạch không phải là hỏa tức là thổ, Tòng Sát cách cũng không thành. Cho nên mệnh chủ cả đời bần khốn dị thường, bà già con nít đều là bị bệnh tâm thần.

Nam mệnh 2: Bính Dần/ Canh Dần/ Canh Tuất/ Bính Tuất. Nguyệt lệnh thấu Sát, gặp Sát xem Ấn, chỉ có chi giờ là Tuất Ấn có thể lấy hóa Sát, can năm Bính Sát không có chế, là mệnh không yểu cũng bần. Vận đầu Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, có Tân kim hợp Sát, Nhâm Quý thủy chế Sát, mệnh chủ một mạch thuận lợi toại nguyện, học nghiệp có thành. Vận Giáp Ngọ, Sát đến vượng địa, can Thất Sát không có chế mà lại công thân, mệnh chủ đôi mắt bị mù, theo chỗ này liền ở trong hắc ám vô tận đuổi quãng đời còn lại.

Nam mệnh 3: Bính Tuất/ Tân Mão/ Canh Dần/ Tân Tị. Bát tự một khối Tài Sát, lấy chi năm Tuất có Ấn hóa Sát, thì Mão mộc khắc Tuất thổ, phá hoại Ấn tinh, phá Sát Ấn cách, không có quý khí vậy. Chỉ có lấy Tân Kiếp hợp Sát, nhưng mà gặp đại vận Nam phương, Tân kim thất địa, không có lực hợp Sát, cách cục quá thấp. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp tiểu học thì lang bạt giang hồ, ở trọn trong vận Nam phương không có gì pha lẫn để giúp danh đường, kinh thương thì lấy mắc nợ vốn không còn, hôn nhân thì lấy kết thúc ly dị. Sau vào vận Tây phương, Tân kim đắc địa, hợp Sát có lực, mệnh chủ kinh doanh buôn bán các loại bất động sản mà phát tài.

Nam mệnh 4: Nhâm Ngọ/ Nhâm Dần/ Canh Tuất/ Nhâm Ngọ. Địa chi tam hội Sát cục, chỉ là do Sát không thấu can, lại còn có Nhâm thủy chế Sát, cho nên Tuất thổ không thể hóa hỏa, có thể hóa Sát ở địa chi, lại kiêm dụng thiên can Thực Thương chế Sát. Sơ vận Quý Mão, Giáp Thìn, xung khắc Tuất Ấn, mệnh chủ xuất thân bần khốn, 18 tuổi năm Canh Tý phụ thân cùng chị gái bị chết đói do ở tội ác trong khi vận động "Đại dược tiến". Sau vận Ất Tị, Sát vượng sinh Ấn, mệnh chủ dần dần quật khởi, từ Giáo sư Phổ thông thăng tới Bí thư Huyện ủy. Vận Bính Ngọ, Sát đến vượng địa, Sát Ấn tương sinh, mệnh chủ làm quan thăng Bí Thư Đảng ủy tự trị một Châu, tiến đến thăng lên làm phó Bí thư Tỉnh ủy một tỉnh. Vận Đinh Mùi năm Mậu Dần, mệnh chủ làm quan tới Bí thư Tỉnh ủy. Đúng như chỗ gọi là "Sát Ấn tương sinh, công danh hiển đạt" vậy.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Quan Sát trọng phùng,
Chế phục hữu công,
Như hành vượng địa,
Ngộ chi bất hung.


Đại lục bình chú:
Tử Bình luận mệnh, quý ở cách cục thanh thuần, tiện ở hỗn tạp. Cho nên 《 Tam Mệnh thông hội • Luận Thiên Quan 》nói: "Ngũ hành gặp chi tháng là Thiên Quan, chỉ có một vị ở địa chi, phần đa thì không tốt. Tứ trụ thuần Sát có chế, định ở địa vị Nhất phẩm, sơ lược thấy một vị Chính Quan, Quan Sát hỗn tạp trái lại là tiện." Ngoại trừ các loại Tòng Sát, Hóa Khí là cách cục đặc thù, thông thường cách cục bình thường thì không nên có Chính Thiên hỗn tạp, trong đó đặc biệt Quan Sát hỗn tạp là đại kị. Cho nên gặp phải Quan Sát nặng mà hỗn tạp, hỉ nhất là có chữ thanh cách, hoặc Thực Thương, hoặc Kiếp Nhận, hoặc khử Sát lưu Quan, hoặc khử Quan lưu Sát, mệnh đều có thể phát phúc. Sát Quan hỗn tạp chỉ cần có chế, thị không sợ hành đất Sát vượng, Sát càng vượng thì thành tựu càng lớn. Nếu là Sát Quan hỗn tạp không có chữ thanh cách, lại hành đến đất Sát vượng, thì họa hoạn rất nặng, cách cái chết là không xa vậy.

Nữ mệnh 1: Quý Hợi/ Nhâm Tý/ Đinh Sửu/ Nhâm Dần. Can đầu một khối Quan Sát hỗn tạp, tuy nhiên sớm vận là Giáp Dần, Ất Mão là ấn vận, có thể đủ hóa Sát sinh thân, nhưng mà Quan Sát hỗn tạp là bệnh khó khử, cho nên mệnh chủ xuất thân là bần hàn, chưa tốt nghiệp sơ trung đã bước chân vào xã hội, cho tới nay vẫn làm nữ bồi bàn ( kẻ hầu bàn làm kĩ nữ, xướng ca, mua vui cho khách).

Nữ mệnh 2: Quý Dậu/ Nhâm Tuất/ Đinh Tị/ Quý Mão. Can đầu cũng là một khối Quan Sát, hỉ Đinh Nhâm hợp nhất, khử Quan lưu Sát, cách cục thì thanh. Cho nên mệnh chủ sau khi kết hôn nhất tâm theo chồng dạy con, không hề tai tiếng, chồng họ Thái rất nhân từ, làm quan tới chức Mật sứ ở trung ương, mệnh chủ được phong làm Quảng Bình Quận phu nhân.

Nữ mệnh 3: Ất Dậu/ Quý Mùi/ Đinh Dậu/ Nhâm Dần. Nguyệt lệnh thấu Ấn, cách thành Ấn dựa Sát sinh. Đinh Nhâm hợp, khử Quan lưu Sát, cách chính cục thanh. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp cao trung, thì trước sau đều đảm nhận Xã trưởng, rồi Phó trưởng Huyện, Phó bí thư Huyện ủy, thẳng đốn vận Đinh Hợi lúc 38 tuổi năm Quý Hợi đất Sát vượng, thăng nhậm Phó trưởng tự trị một Châu ( cấp bậc chính Sở). Hôn nhân bình ổn, sự nghiệp đắc ý.

Nữ mệnh 4: Ất Mùi/ Tân Tị/ Mậu Tuất/ Giáp Dần. Quan Sát tương phùng, nhưng mà có Tân kim khử Quan lưu Sát, ở cách là không có tổn hại. Chỗ tiếc là, đại vận trước Nam sau Tây, là Sát tinh ở đất tử tuyệt, cho nên mệnh chủ dù có hôn nhân ổn định, nhưng sinh hoạt lại rất khó khăn. Bản thân mệnh chủ là Đội trưởng Đội phụ nữ Sinh sản, chồng làm phó bí thư chi bộ Đội Sinh sản, vợ chồng cả đời lao động không ngừng, thu nhập lại rất thấp.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Thời Sát vô căn,
Sát vượng thủ quý,
Thời Sát đa căn,
Sát vượng bất lợi.


Đại lục bình chú:
Gọi là "Thời Sát" tức là trong Tử Bình có "Thời thượng nhất vị quý cách", hay gọi là "Thời thượng nhất vị Độc Sát cách" . 《 Uyên Hải Tử Bình 》nói: "Nói Nhất vị quý là, chỉ có can giờ thấy một vị mới là quý, hoặc nếu năm, tháng, ngày lại có, trái lại là người khổ cực lao dịch vậy. Như trụ giờ có một vị Thất Sát, bản thân cần phải tự vượng, mà ba nơi thì có nhiều chế phục, thì hành vận Thất Sát vượng, hoặc tam hợp đắc địa thì mới phát. Nếu không có chế phục, thì cần phải hành vận chế phục mới phát. Hoặc gặp Sát vượng mà không có chế, thì họa phát sinh vậy". Ý là rất rõ ràng, lại là Thời thượng nhất vị độc Sát cũng cần chế phục, mệnh cục có chế phục thì cần phải hành đến đất Sát vượng, hoặc có vận tam hợp Sát cục, nếu mệnh cục không có chế phục, thì cần phải hành đến vận chế phục. Sợ nhất là Sát nhiều, Sát vượng, lại không có chế phục, thì họa hoạn cùng phát sinh vậy. Nhưng mà 《 Tứ Ngôn độc bộ 》 lý lẽ chỗ này ý lại cũng không nói đến chế phục, chỉ nói Nhất vị độc Sát đến vận Sát vượng thì quý, phần đa Sát đến đất Sát vượng thì không có lợi.
Chẳng lẽ Nhất vị Độc Sát không có chế phục cũng không thể phát quý ư? Chẳng lẽ phần đa Sát có chế phục cũng bất lợi ư? Chúng ta hãy xem ví dụ thực tế:

Chỗ《 Uyên Hải Tử Bình 》đưa ra Mệnh Chiêm Thừa Tướng: Nhâm Ngọ/ Canh Tuất/ Giáp Ngọ/ Canh Ngọ. Mệnh này có trụ năm, giờ đều là Sát, nhưng thiên can có Nhâm thủy hóa, địa chi có Ngọ hỏa chế, đại vận Đông phương là Thực Thương vượng địa, thì chế Sát có lực, cho nên mệnh chủ có thể địa vị là Thừa tướng.

Mệnh Sử Ngụy Vương: Giáp Thân/ Bính Dần/ Ất Mão/ Tân Tị. Tân Sát có Thân Tị hai căn, nhưng có Bính Tị hỏa chế Sát.
Mệnh Lý Thừa tướng: Kỷ Tị/ Đinh Mão/ Bính Ngọ/ Nhâm Thìn. Tuy chỉ có Thời thượng nhất vị độc Sát, nhưng có Kỷ thổ chế Sát, Đinh hỏa hợp Sát.
Mệnh Trịnh Thượng thư : Canh Dần/ Nhâm Ngọ/ Mậu Dần/ Giáp Dần. Thời Sát có ba Dần là căn, nhưng nguyệt lệnh có Ngọ hỏa hóa Sát.
Mệnh Du Thị Lang: Nhâm Thân/ Quý Sửu/ Kỷ Sửu/ Ất Hợi. Thời thượng nhất vị độc Sát, nhưng chi ngày là khố của Thực Thương, là Ôm Thực mà chế Sát.
Mệnh Lưu Đô Thống: Đinh Hợi/ Ất Mùi/ Ất Tị/ Tân Tị. Tân Sát có hai Tị là căn, nhưng can năm có Đinh Tị hỏa chế Sát.
Mệnh Tống Thượng Thư: Canh Thìn/ Bính Tuất/ Mậu Tuất/ Giáp Dần. Thời thượng nhất vị độc Sát, nhưng có nguyệt lệnh Bính hỏa hóa Sát.
Mệnh Phạm Thượng Thư: Tân Tị/ Tân Sửu/ Kỷ Mão/ Ất Hợi. Thời Sát có Mão Hợi hai căn, nhưng trụ năm tháng có Tân kim chế Sát.

Theo các ví dụ mệnh tường thuật kể ở trên, thời Sát không có luận là căn nhiều hay căn ít, đều cần phải có chế phục mới có thể thành cách. Nếu như không có chế phục thì sao? Chúng ta lại xem tiếp các ví dụ sau:

Nam mệnh 1: Mậu Tuất/ Kỷ Mùi/ Ất Mão/ Ất Dậu. Thời thượng nhất vị độc Sát, không có chế hóa, vận đến Tây phương đất Sát vượng, mệnh chủ không có đi học, không có công việc ổn định, sinh hoạt bình thường, không có quý khí, lại còn có con chẳng ra gì.

Nam mệnh 2: Bính Thìn/ Mậu Tuất/ Ất Mão/ Ất Dậu. Thời thượng độc Sát, có căn ở Tuất Dậu, nhưng không có chế hóa, không thể nhập cách, cho nên mệnh chủ là kẻ nhân sĩ chôn vùi trí tuệ.

Nam mệnh 3: Mậu Tý/ Kỷ Mùi/ Giáp Tý/ Canh Ngọ. Thời Sát vô căn, vận hành Tây phương kim địa Sát vượng, mệnh chủ lúc còn nhỏ bệnh hoạn về viêm phổi nghiêm trọng, cả đời không hết bệnh. Vận Canh Thân, năm Giáp Ngọ, 6 tuổi có tang mẹ. Mệnh chủ học nghiệp không thành, cuối cùng bản thân chỉ làm nghề nông. Vận Giáp Tý sinh hoạt kham khổ không nói hết. Tại sao mệnh Thời Sát vô căn đến đất Sát vượng mà không quý trái lại là tiện chứ? Nguyên nhân là do ở Tý Ngọ xung, lại thêm đại vận đến phương Tây, Ngọ hỏa đến đất tử địa, Canh Sát không có chế mà phá cách vậy. Canh kim phá cách, cho nên bệnh phổi khó khỏi.

Nam mệnh 4: Bính Thân/ Giáp Ngọ/ Ất Mão/ Ất Dậu. Thời Sát có hai căn Thân Dậu, nhưng có nguyệt lệnh Ngọ hỏa chế phục, chỉ tiếc là mở bước đại vận là Ất Mùi, Ngọ Mùi hợp thì Thất Sát không có chế, mộc hỏa đều bị thương, khiến cho mệnh chủ đôi mắt bị mù. Sau vận hành Tây phương, Ngọ hỏa tử địa, không có lực chế Sát, mệnh chủ cùng người vợ mù lòa lấy nghề xoa bóp để mưu sinh, sinh hoạt 10 phần là bần khốn, không có con.

Nam mệnh 5: Nhâm Ngọ/ Ất Tị/ Canh Tuất/ Tân Tị. Thời Sát đều có căn ở trụ năm, tháng, ngày, chỗ mệnh chủ gọi là "Tân khổ lao dịch chi nhân" ( người lao động vất vả) ư? Không phải vậy. Mệnh chủ là cây Dương thụ của xóm làng, sau khi tốt nghiệp trường quân đội của Hoàng gia, đã thông qua nhiều lần đảm nhận chức vụ quan trọng trong quân giới, sau đó đảm nhận chức Tổng trưởng Hải quân, Chủ tịch chính phủ Tỉnh Phúc kiến. Tại sao mệnh Thời Sát đa căn cũng có thể đại quý như vậy chứ? Bởi vì can có Nhâm chế, chi có Tuất hóa, chỉ cần Thất Sát có chế hóa, thì Sát càng nặng mà thành cách càng cao, quý khí càng lớn.

Từ 5 ví dụ ở trên cho thấy, Thời Sát không luận căn nhiều hay ít, đều cần phải có chế phục, mới có thể thành cách. Có chế không sợ Sát nặng căn nhiều, vẫn phú quý xuất chúng. Chỉ sợ Thất Sát không có chế, không có luận thân cường hay thân nhược, đều thuộc mệnh phá cách. Do đó, 《 Tam Mệnh thông hội • Thời thượng nhất vị quý 》nói: "Thời phùng thất sát bản vô nhi, thử lý nhân gian tử tế suy, tuế nguyệt thời trung như hữu chế, định tri hữu tử quý nhi kỳ" ( Giờ gặp Thất Sát vốn không nhỏ, lý này người đời cần cân nhắc mà suy, trong năm tháng giờ có chế, mà còn xác định là có con quý). Thử nghĩ, Thất Sát vốn là đại biểu con cái, tại sao nói "Thời thượng thất sát bản vô nhi" chứ? Tại sao lại nói "Tuế nguyệt thời trung như hữu chế", thì tất nhiên sẽ sinh quý tử chứ? Đạo lý là rất rõ ràng, thì là không có luận thân cường hay thân nhược, Thời Sát đều là cần có chế, không có chế thì phá cách, cũng không có con cái, có chế thì thành cách, nên sinh quý tử. Tất nhiên, không thể đem Thất Sát chế thái quá, nếu không có con cũng không quý vậy.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Chính văn:
Bát nguyệt Quan tinh,
Đại kị Mão Đinh,
Đinh Mão khắc phá,
Hữu tình vô tình.


Đại lục bình chú:
Lý này lấy Giáp mộc sinh ở tháng Dậu làm ví dụ, thuyết minh cách Chính Quan, gặp xung khắc thì phá cách. Gọi là "Dụng chi chính quan bất khả thương" được. Dậu kim Quan tinh một là sợ Mão xung, hai là sợ Đinh hỏa Thương quan khắc, Quan cách vốn là có tình quý cách, nếu gặp xung khắc thì biến thành vô tình mà phá cách vậy. 《 Uyên Hải Tử Bình • Chính Quan thi quyết 》nói: "Chính khí quan tinh nguyệt thượng suy, vô xung vô phá tối vi kỳ, trung niên tuế vận lai tương trợ, tương tương công hầu tổng khả vi" ( Suy từ can tháng chính khí Quan tinh, không xung không phá đứng đầu hiếm có, trung niên Tuế Vận đến tương trợ, có thể đứng đầu bậc Công Hầu). Ý tức là nguyệt lệnh Quan tinh không phá mà thành cách, thì thành quý mệnh, phá thì không quý vậy.

Lý này vấn đề là có chi tiết, cho dù Dậu kim Quan tinh ở địa chi, Đinh hỏa Thương quan ở thiên can, thì cần xem đường sinh khắc bình thường, thiên can là Đinh hỏa Thương không tới địa chi Dậu kim, trừ phi là Đinh Dậu loại tổ hợp cùng trụ. Nhưng mà đã từng có ở sách cổ, cổ nhân nói Đinh hỏa, không nhất định đều là chỉ có thiên can, rất nhiều lúc cũng bao quát cả ở địa chi. Ví như địa chi có Ngọ hỏa, tuy nhiên thiên can không thấu Đinh hỏa, nhưng mà trong Ngọ có Đinh hỏa cũng có thể lấy thương khắc Dậu kim Quan tinh vậy. Thậm chí như Tuất thổ, gặp Đinh hỏa cũng có thể thông qua Tuất hại Dậu mà thương khắc Dậu kim Quan tinh. Tất nhiên, nếu như địa chi không có Thương quan khắc Quan, cũng không phải Đinh Dậu loại tổ hợp cùng trụ, như vậy, Đinh hỏa không thể trực tiếp thương khắc địa chi Dậu kim được, nói cách khác chỉ cần đường sinh khắc có ngăn trở, hoặc có chữ giải cứu Dậu kim, Đinh hỏa liền không thể Thương hại Quan mà phá cách.

Một nam mệnh: Quý Mão/ Tân Dậu/ Giáp Tý/ Kỷ Tị. Mão xung Dậu, nhưng được Tị Dậu hợp mà giải xung, Quan Ấn cách không bị phá. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp đại học thì nhậm chức ở phòng làm việc quản lý thành phố của chính phủ. Vận Đinh Tị dù có thấu xuất Đinh hỏa Thương quan, nhưng có Quý thủy hộ Quan, đường quan lộ mệnh chủ bình thản, không trải qua nguy hiểm, 41 tuổi năm Giáp Thân thăng quan cấp chính xứ.

Một nữ mệnh: Giáp Thìn/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Đinh Mão. Tháng 8 Quan tinh, đều thấy Mão Đinh, có đúng hay không liền phá cách chứ? Không có. Bởi vì Mão Tuất hợp, giải cứu Mão Dậu xung cùng Dậu Tuất hại. Đinh hỏa ở can giờ không thể trực tiếp khắc Dậu kim. Cho nên, mệnh chủ sau khi tốt nghiệp trung chuyên liền công tác ở Xí nghiệp quốc doanh, vận Ngọ năm Bính Tý từ Xí nghiệp quốc doanh điều chuyển về phòng ban chính phủ. 34 tuổi gặp năm Mậu Dần, Dần Ngọ Tuất tam hợp Thương quan cục khắc Quan, Mậu Quý hợp mà tổn hại Ấn, phá mất Quan Ấn cách, mệnh chủ bị xung đột với thủ trưởng mà từ chức, lại còn tách sống riêng với chồng, sau đó ly dị.

Mệnh Hoàng Dĩ Lâm: Đinh Tị/ Kỷ Dậu/ Giáp Tý/ Mậu Thìn. Mặc dù năm thấu Đinh hỏa Thương quan, chỉ vì Đinh hỏa sinh Kỷ thổ chuyển thành sinh Dậu kim, liền không khắc Quan tinh, cách thành Quan Ấn tương sinh. Cho nên địa vị mệnh chủ là Vũ Xương Tri phủ.

Mệnh Lưu Tư Vấn: Kỷ Mão/ Bính Tý/ Bính Ngọ/ Canh Dần. Nguyệt lệnh Chính Quan, may mắn có Dần Ngọ hợp mà không xung Tý, can năm Thương quan không thể trực tiếp khắc phá nguyệt lệnh Quan tinh, thành Quan Ấn cách. Tây phương vận Tài vượng sinh Quan, về sau mệnh chủ được Tiến sĩ, một đường Quan vận hanh thông, nhiều năm nhậm chức Ngự sử bên phải thủ đô Nam Kinh. Canh vận năm Quý Mùi lúc 64 tuổi thăng quan Hộ Bộ Thượng thư.

Có thể thấy rằng, tháng 8 Quan tinh, tuy kị Mão Đinh, nếu có cứu ứng, quý cách không tổn hại. Còn có, cho dù là bát tự phá mất Quan cách, chỉ cần có thể cấu thành khử Quan hội tụ Thực cách, cũng vẫn còn hữu tình, chỉ là phú mà không quý thôi. Chỉ có loại khử Quan Ấn mà không hết, mà bát tự Quan Ấn cách lại không thể thành lập, mới là cách đúng vô tình.

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
Nam mệnh 1: Bính Tuất/ Ất Mùi/ Mậu Thân/ Canh Thân. Vốn là Quan Ấn cách, chỉ vì Mùi Tuất hình, Ất Canh hợp, phá mất Quan Ấn cách, tốt ở đại vận Tây Bắc, Ấn tinh vô khí mà không thể khởi dụng, cách thành khử Quan tựu Thực. Cho nên mệnh chủ ở trong vận Canh Tý, Tân Sửu tạo ra được cơ nghiệp, đại phát vài trăm vạn, giàu có một phương.

Nam mệnh 2: Giáp Thìn/ Mậu Thìn/ Quý Mão/ Quý Hợi. Quan không có Ấn hóa, lại có Thương khắc, là khí Quan tựu Thực cách. Vận Canh Ngọ, Tân Mùi, Ấn tinh chế Thương hóa Quan, cách biến thành Quan Ấn tương sinh. Mệnh chủ sau khi tốt nghiệp cao trung làm việc tại Công ti Y Dược ở huyện, không có chỗ biểu hiện. Vào vận Nhâm Thân, Thương quan khử Quan, mệnh chủ từ chức tự mở ra hiệu thuốc, đến 10 năm, mỗi năm thu nhập hơn 10 vạn.

Nam mệnh 3: Tân Mùi/ Canh Tý/ Bính Tuất/ Giáp Ngọ. Nguyệt lệnh Quan tinh, Ấn tinh cao thấu ở can giờ, không thể trực tiếp hóa Quan sinh thân, Quan Ấn cách không thành lập. Mùi thổ Thương quan khắc khử Tý Quan, cấu thành khử Quan tựu Thực. Mệnh chủ học được y thuật tổ truyền, tự mở phòng thuốc, hành nghề y cứu thế, về sau Nam phương Thực Thương vượng địa, trở thành danh y một phương, đông khách như chợ, mỗi ngày nhận điều trị không hết việc.

Nam mệnh 4: Quý Mão/ Giáp Tý/ Bính Tuất/ Kỷ Sửu. Năm tháng có Quan Ấn tương sinh, tiếc là Tý Sửu hợp, Giáp Kỷ hợp, Quan Ấn đều tổn hại, phá mất Quan Ấn cách. Lại do đại vận nghịch hành Tây phương kim địa, Quan được Tài sinh, khử Quan không hết, cách không thành, cho nên mệnh chủ học nghiệp không thành, là lão nông nghèo khổ, trung niên có tang vợ, về già thì cô đơn.

Và một nữ mệnh: Quý Mão/ Giáp Tý/ Bính Tuất/ Giáp Ngọ. Cũng gần giống với mệnh nam ở trên, chỉ khác trụ giờ, không có Thương quan hợp phá Quan Ấn, thành lập Quan Ấn cách. Tuy nhiên đại vận Đông Nam, Quan tinh không vượng, nhưng mệnh chủ cũng có thể có địa vị là Sở trưởng Tòa Án một Huyện.

(Hết)

25.10.2013

descriptionBình chú: Hoàng Đại Lục - Page 2 EmptyRe: Bình chú: Hoàng Đại Lục

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết