Luận Thiên Tài
Sao gọi là Thiên Tài? Ví dụ như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ. Không phải chỗ mang Thê, chính là Tài của mọi người vậy. Thiết kỵ có tỷ muội huynh đệ phân đoạt, trụ không có Quan tinh, họa hoạn bách xuất.
Kinh viết: Thiên Tài hỉ lộ, cũng không sợ tàng, duy chỉ sợ phân đoạt, cùng lạc Không Vong, ở đây một, đem quan không thành, đem tài không vững. Như Tài nhược tất đợi trải qua đất vượng là vinh, Tài thịnh mọi việc đều thuận, nhưng sợ thân thế không có lực, không thể đảm nhận. Thiên Tài cách, chủ người khảng khái, không có lận tài, cùng người có tình mà đa trá, nếu như đắc địa, không chỉ tài phong, mà còn có thể vượng quan, lấy Tài thịnh tự sinh Quan, vận hành vượng tướng, phúc lộc đều có, một khi gặp đất Quan, liền có thể phát phúc. Trong trụ vốn óc mang Quan tinh, liền lấy mệnh tốt xem, nếu huynh đệ nghịch xuất ra, dẫu có nhập đất Quan, phát phúc tất mù mịt. Thiên Tài chỗ nguyệt lệnh mang là tối trọng, trong trụ không nên thấy nhiều. Trụ năm có Thiên Tài sinh vượng, trong trụ nguyệt lệnh thông khí, chủ nhận sản nghiệp ông bà chú bác phong thịnh, hoặc là sản nghiệp ngoại tổ nuôi dưỡng. Đại để cần nhật chủ hưng vượng, Tài tinh sinh vượng, vận hướng đất Tài vượng là phát phúc. Nếu thấy hình xung phá hại, Tỉ Kiếp phân đoạt, hoặc Tài tinh thái suy, nhật chủ thái nhược, hoặc Tài đa sinh Sát, đều là mệnh phá tổ lao đao. Phàm nguyệt lệnh có Tài, chủ thiếu niên phú quý, nếu giờ sinh không đắc địa, hoặc có Kiếp Bại, vận lại đến hung địa, về giá phá hết tổ tài, cuối cùng thân khốn cùng, trước phú sau bần. Nếu năm tháng vốn không có, ngày giờ mang Tài, chỗ khác không có Kiếp Bại xung khắc, thì chủ tự thành lập gia đình, trung niên đến già đại phát. Nếu trong trụ Tài đa thân nhược, thiếu niên lại qua đất hưu bại, lần lượp gặp nhiều chuyện không toại ý, trung niên đến về già bỗng lâm đất phụ mẫu, hoặc tam hợp có thể trợ giúp bản thân, thì bỗng nhiên phát hưng. Nếu thiếu niên thừa vượng, đến già thoát cục, không chỉ thủ đường cùng bệnh tật, mà còn khởi lấy thị phi, lấy tài tư lợi cho bản thân, cũng gây ra phỉ báng vậy. Nếu tứ trụ tương sinh, không mang quý cách, không gặp Không Vong, hựu lại vận vượng, tam hợp Tài tinh, đều là quý mệnh, còn phúc lộc ít hay nhiều, tùy theo cách khinh hay trọng mà nói.
Lại viết: Phàm nhân mệnh có 2 vị Tài, thân nhược không ngại, vốn là dụng Chính Tài, thân vượng phát tài, vốn dụng Thiên Tài, thân vượng thoát tài.
Lại nói: Thiên Chính nhị Tài, hỉ kỵ giống nhau, duy chỉ có hỉ Quan tinh hay không hỉ Quan tinh có khác một chút, Có Chính Tài nếu không có Thiên Tài, thực trọng Thiên Tài, thì phúc dầy, rất sợ Kiếp bại Tỉ kiên, ở năm là tối trọng, ở tháng là hơi thứ, còn một danh là Cô Thần, một danh là Trục Mã, chủ khắc thê hại tử, phá tài bần bạc, lại đề phòng âm tặc tiểu nhân đồng loại hại nhau, trong trụ vốn phạm kỵ này, vận hành đất Tài vượng, cũng có thể phát phúc, lại hành Tỉ Kiếp, thoái bại mà phải bỏ mạng, gặp quan có phá bại.
《 Thông Minh phú 》 nói: Trụ tháng Thiên Tài, không Kiếp không Bại, phú giáp nhân gian.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thiên Tài thấu lộ, khinh tài hiếu nghĩa, thích người cung phụng, thích nói thị phi, là tham tửu sắc, đều thuộc như vậy.
《 Kinh Thần phú 》 nói: Thiên Tài thân vượng, Con buôn tìm người giàu có.
《 Áo Chỉ 》 nói: Thiên Tài có ích thọ duyên niên.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Xuất hiện Thiên Tài, ít yểu vợ chính, phần đa yêu thiếp.
Cổ ca viết:
Thiên Tài vốn là Tài mọi người,
Can chi tối kỵ huynh đệ đến,
Thân cường Tài vượng đều là phúc,
Nếu mang Quan tinh canh diệu thay!
Lại nói:
Thiên Tài thân vượng cần Quan tinh,
Vận nhập đất Quan phát lợi danh,
Tỷ muội đệ huynh phân đoạt khử,
Công danh không toại họa sinh theo.
Lại nói:
Thiên Tài Tài vị phát tha hương,
Khảng khái phong lưu tính phải cường,
Biệt lập gia viên hai ba xứ,
Nhân danh nhân lợi nhà mình mang.
Thời thượng Thiên Tài
《 Hỉ Kỵ Thiên 》 nói: Thời thượng Thiên Tài, sợ phùng huynh đệ, như ngày Giáp kiến giờ Mậu Thìn hoặc Giáp Tuất. Hỉ kiến Tân Quan, Nhâm Quý sinh trợ, kỵ Canh Sát, Ất Kiếp, trong trụ không nên thấy tiếp chữ Mậu Kỷ, nếu thân thái vượng, vận đông phương Dần Mão thì mất tài, còn lại theo ví dụ này suy. Chỗ này cùng thời thượng Thiên Quan cách giống nhau, chỉ cần một vị, không nên gặp nhiều, Thiên nguyên thấu ra là tốt, chỗ tàng trong chi là thứ, trụ có Quan Ấn tương trợ, nhật chủ kiện vượng, liền lấy mệnh tốt xem. Rất sợ năm tháng xung phá, huynh đệ bối xuất, thì không đủ phúc khí.
Cổ thơ nói:
Thời thượng Thiên Tài xung tối kỵ,
Huynh đệ bối nghịch đều không nên,
Hỉ hành thân vượng đất Quan Lộc,
Chỗ khác không thấu mới là quý.
Khí mệnh Tòng Tài
《 Độc Bộ 》 nói: Khí (Khí là bỏ) mệnh Tòng Tài, cần phải hội Tài, nếu gặp căn khí, mệnh tổn là không sai. Giả như Đinh sinh tháng Dậu, trụ có nhiều Canh Tân, nhật can vô khí, chỉ được Khí mệnh mà Tòng, vận nhập Bắc phương đất Tài Quan vượng, chính là nhập cách, hành nam là gặpp tai.
Cổ ca nói:
Nhật can vô khí Tài đầy bàn,
Khí mệnh tòng theo là phúc thai,
Vận vượng Tài Quan đều phúc quý,
Như phùng căn trợ lại thành tai.
Nhật tọa Thiên Tài
Như Mậu Kỷ thổ khắc thủy là Tài, Thìn là thủy mộ vậy.
Cổ ca nói:
Can năm khắc dưới là Thiên Tài,
Nơi gặp khắc mộ chính khố khai,
Tài nhập giờ khố nhiều lụa thóc,
Hiệu là kim vật tích thành đôi.
Như mệnh Tất Trạng nguyên: Kỷ Tị, Quý Dậu, Canh Thìn, Giáp Thân là vậy.
Hợp luận Thiên Chính Tài
《Tinh Kỷ 》:
Có Sinh thành Tài, như Giáp Ất kiến Mậu Kỷ thổ là Tài, toạ trên Thân Tý Thìn sinh vượng khố, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tý can chi hợp thành là vậy. Phàm mệnh nhập quý cách, ngoại trừ quý, cần phải là đại phú, vẫn trải qua nhiều lần đảm nhiệm lúa tiền; nếu không nhập quý cách, lại không có Phúc thần trợ, cũng là phú ông trăm họ. Nếu tự sinh tự vượng, như người Giáp thấy Mậu Ngọ, Kỷ Hợi, chủ phú. Còn lại loại suy theo chỗ này.
Có Sinh Hợp Tài, như các loại người Giáp thấy Mậu Quý, người Kỷ thấy Quý Mậu, người Canh thấy Giáp Kỷ, chủ thành lập phú quý.
Có Tử Mẫu Tài, như người mệnh mộc thấy tháng hỏa, ngày giờ là thổ, chủ cả đợi gặp nhiều chuyện hỉ sự.
Có loại Tài Sát, như người Dần Ngọ tuất thấy Ất Canh, người Tị Dậu Sửu thấy Đinh Nhâm, người Thân Tý Thìn thấy Mậu Quý, người Hợi Mão Mùi thấy Giáp Kỷ, có một danh nữa là U Vi Sát, chủ danh lợi đều có.
Có Tài hội Sát, người Dần Ngọ Tuất thấy Tân Sửu, người Tị Dậu Sửu thấy Ất Mùi, người Thân Tý Thìn thấy Bính Tuất, người Hợi Mão Mùi thấy Mậu Thìn, chỗ này là thần thê tài tụ hội, gặp là giàu có cùng có vợ đẹp có nhiều của cải, lại đề phòng vợ lấy độc dược hại mệnh.
Có Danh vị Tài, chính là Thực thần thấy trong khố, như người Mậu Tý hỏa thấy Canh Tuất, Mậu Thực Canh, hỏa khố ở Tuất, hoả khắc kim là Tài, phùng chỗ này thì cả đời nhận lộc.
Có Trường sinh Tài, như Giáp dụng Mậu Kỷ là Tài kiến Mậu Thân, Quý dụng Bính Đinh là Tài kiến Bính Dần, loại này phần đa là được tài từ bên ngoài.
Lại viết:
Thuật giả đa số lấy các loại như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ là Tài, không biết Giáp Kỷ kiến Bính Tân, Bính Tân kiến Mậu Quý là Chân Tài, sinh chỗ hữu khí vượng tướng, chủ phú thịnh. Nạp âm từ bản can lại thấy chân ngũ hành, như người Ất Hợi trong tháng ngày giờ thấy Canh, Ất Hợi nạp âm là hỏa, Ất Canh là chân kim, can đầu tất nhiên là Tài vậy, chỗ này danh là Thiên Tài, chủ giàu có dư dã. Nếu nạp âm lại khắc chế can đầu, như Đinh Mão hỏa lại có thể chế Ất Canh kim, chỗ này danh là Quỷ Tài, chủ cả đời được thế tài, hoặc là hào kiệt dựa vào quan tư mà khởi gia. Mậu Dần, Mậu Thân gặp Bính Tân, Ất Dậu, Ất Mão được Mậu Quý, đúng như vậy. Thêm lại mang Thìn Tuất Sửu Mùi, là chủ nghệ thuật, nhận thế tài lớn.
Sao gọi là Thiên Tài? Ví dụ như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ. Không phải chỗ mang Thê, chính là Tài của mọi người vậy. Thiết kỵ có tỷ muội huynh đệ phân đoạt, trụ không có Quan tinh, họa hoạn bách xuất.
Kinh viết: Thiên Tài hỉ lộ, cũng không sợ tàng, duy chỉ sợ phân đoạt, cùng lạc Không Vong, ở đây một, đem quan không thành, đem tài không vững. Như Tài nhược tất đợi trải qua đất vượng là vinh, Tài thịnh mọi việc đều thuận, nhưng sợ thân thế không có lực, không thể đảm nhận. Thiên Tài cách, chủ người khảng khái, không có lận tài, cùng người có tình mà đa trá, nếu như đắc địa, không chỉ tài phong, mà còn có thể vượng quan, lấy Tài thịnh tự sinh Quan, vận hành vượng tướng, phúc lộc đều có, một khi gặp đất Quan, liền có thể phát phúc. Trong trụ vốn óc mang Quan tinh, liền lấy mệnh tốt xem, nếu huynh đệ nghịch xuất ra, dẫu có nhập đất Quan, phát phúc tất mù mịt. Thiên Tài chỗ nguyệt lệnh mang là tối trọng, trong trụ không nên thấy nhiều. Trụ năm có Thiên Tài sinh vượng, trong trụ nguyệt lệnh thông khí, chủ nhận sản nghiệp ông bà chú bác phong thịnh, hoặc là sản nghiệp ngoại tổ nuôi dưỡng. Đại để cần nhật chủ hưng vượng, Tài tinh sinh vượng, vận hướng đất Tài vượng là phát phúc. Nếu thấy hình xung phá hại, Tỉ Kiếp phân đoạt, hoặc Tài tinh thái suy, nhật chủ thái nhược, hoặc Tài đa sinh Sát, đều là mệnh phá tổ lao đao. Phàm nguyệt lệnh có Tài, chủ thiếu niên phú quý, nếu giờ sinh không đắc địa, hoặc có Kiếp Bại, vận lại đến hung địa, về giá phá hết tổ tài, cuối cùng thân khốn cùng, trước phú sau bần. Nếu năm tháng vốn không có, ngày giờ mang Tài, chỗ khác không có Kiếp Bại xung khắc, thì chủ tự thành lập gia đình, trung niên đến già đại phát. Nếu trong trụ Tài đa thân nhược, thiếu niên lại qua đất hưu bại, lần lượp gặp nhiều chuyện không toại ý, trung niên đến về già bỗng lâm đất phụ mẫu, hoặc tam hợp có thể trợ giúp bản thân, thì bỗng nhiên phát hưng. Nếu thiếu niên thừa vượng, đến già thoát cục, không chỉ thủ đường cùng bệnh tật, mà còn khởi lấy thị phi, lấy tài tư lợi cho bản thân, cũng gây ra phỉ báng vậy. Nếu tứ trụ tương sinh, không mang quý cách, không gặp Không Vong, hựu lại vận vượng, tam hợp Tài tinh, đều là quý mệnh, còn phúc lộc ít hay nhiều, tùy theo cách khinh hay trọng mà nói.
Lại viết: Phàm nhân mệnh có 2 vị Tài, thân nhược không ngại, vốn là dụng Chính Tài, thân vượng phát tài, vốn dụng Thiên Tài, thân vượng thoát tài.
Lại nói: Thiên Chính nhị Tài, hỉ kỵ giống nhau, duy chỉ có hỉ Quan tinh hay không hỉ Quan tinh có khác một chút, Có Chính Tài nếu không có Thiên Tài, thực trọng Thiên Tài, thì phúc dầy, rất sợ Kiếp bại Tỉ kiên, ở năm là tối trọng, ở tháng là hơi thứ, còn một danh là Cô Thần, một danh là Trục Mã, chủ khắc thê hại tử, phá tài bần bạc, lại đề phòng âm tặc tiểu nhân đồng loại hại nhau, trong trụ vốn phạm kỵ này, vận hành đất Tài vượng, cũng có thể phát phúc, lại hành Tỉ Kiếp, thoái bại mà phải bỏ mạng, gặp quan có phá bại.
《 Thông Minh phú 》 nói: Trụ tháng Thiên Tài, không Kiếp không Bại, phú giáp nhân gian.
《 Tâm tướng phú 》 nói: Thiên Tài thấu lộ, khinh tài hiếu nghĩa, thích người cung phụng, thích nói thị phi, là tham tửu sắc, đều thuộc như vậy.
《 Kinh Thần phú 》 nói: Thiên Tài thân vượng, Con buôn tìm người giàu có.
《 Áo Chỉ 》 nói: Thiên Tài có ích thọ duyên niên.
《 Thiên Lý Mã 》 nói: Xuất hiện Thiên Tài, ít yểu vợ chính, phần đa yêu thiếp.
Cổ ca viết:
Thiên Tài vốn là Tài mọi người,
Can chi tối kỵ huynh đệ đến,
Thân cường Tài vượng đều là phúc,
Nếu mang Quan tinh canh diệu thay!
Lại nói:
Thiên Tài thân vượng cần Quan tinh,
Vận nhập đất Quan phát lợi danh,
Tỷ muội đệ huynh phân đoạt khử,
Công danh không toại họa sinh theo.
Lại nói:
Thiên Tài Tài vị phát tha hương,
Khảng khái phong lưu tính phải cường,
Biệt lập gia viên hai ba xứ,
Nhân danh nhân lợi nhà mình mang.
Thời thượng Thiên Tài
《 Hỉ Kỵ Thiên 》 nói: Thời thượng Thiên Tài, sợ phùng huynh đệ, như ngày Giáp kiến giờ Mậu Thìn hoặc Giáp Tuất. Hỉ kiến Tân Quan, Nhâm Quý sinh trợ, kỵ Canh Sát, Ất Kiếp, trong trụ không nên thấy tiếp chữ Mậu Kỷ, nếu thân thái vượng, vận đông phương Dần Mão thì mất tài, còn lại theo ví dụ này suy. Chỗ này cùng thời thượng Thiên Quan cách giống nhau, chỉ cần một vị, không nên gặp nhiều, Thiên nguyên thấu ra là tốt, chỗ tàng trong chi là thứ, trụ có Quan Ấn tương trợ, nhật chủ kiện vượng, liền lấy mệnh tốt xem. Rất sợ năm tháng xung phá, huynh đệ bối xuất, thì không đủ phúc khí.
Cổ thơ nói:
Thời thượng Thiên Tài xung tối kỵ,
Huynh đệ bối nghịch đều không nên,
Hỉ hành thân vượng đất Quan Lộc,
Chỗ khác không thấu mới là quý.
Khí mệnh Tòng Tài
《 Độc Bộ 》 nói: Khí (Khí là bỏ) mệnh Tòng Tài, cần phải hội Tài, nếu gặp căn khí, mệnh tổn là không sai. Giả như Đinh sinh tháng Dậu, trụ có nhiều Canh Tân, nhật can vô khí, chỉ được Khí mệnh mà Tòng, vận nhập Bắc phương đất Tài Quan vượng, chính là nhập cách, hành nam là gặpp tai.
Cổ ca nói:
Nhật can vô khí Tài đầy bàn,
Khí mệnh tòng theo là phúc thai,
Vận vượng Tài Quan đều phúc quý,
Như phùng căn trợ lại thành tai.
Nhật tọa Thiên Tài
Như Mậu Kỷ thổ khắc thủy là Tài, Thìn là thủy mộ vậy.
Cổ ca nói:
Can năm khắc dưới là Thiên Tài,
Nơi gặp khắc mộ chính khố khai,
Tài nhập giờ khố nhiều lụa thóc,
Hiệu là kim vật tích thành đôi.
Như mệnh Tất Trạng nguyên: Kỷ Tị, Quý Dậu, Canh Thìn, Giáp Thân là vậy.
Hợp luận Thiên Chính Tài
《Tinh Kỷ 》:
Có Sinh thành Tài, như Giáp Ất kiến Mậu Kỷ thổ là Tài, toạ trên Thân Tý Thìn sinh vượng khố, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tý can chi hợp thành là vậy. Phàm mệnh nhập quý cách, ngoại trừ quý, cần phải là đại phú, vẫn trải qua nhiều lần đảm nhiệm lúa tiền; nếu không nhập quý cách, lại không có Phúc thần trợ, cũng là phú ông trăm họ. Nếu tự sinh tự vượng, như người Giáp thấy Mậu Ngọ, Kỷ Hợi, chủ phú. Còn lại loại suy theo chỗ này.
Có Sinh Hợp Tài, như các loại người Giáp thấy Mậu Quý, người Kỷ thấy Quý Mậu, người Canh thấy Giáp Kỷ, chủ thành lập phú quý.
Có Tử Mẫu Tài, như người mệnh mộc thấy tháng hỏa, ngày giờ là thổ, chủ cả đợi gặp nhiều chuyện hỉ sự.
Có loại Tài Sát, như người Dần Ngọ tuất thấy Ất Canh, người Tị Dậu Sửu thấy Đinh Nhâm, người Thân Tý Thìn thấy Mậu Quý, người Hợi Mão Mùi thấy Giáp Kỷ, có một danh nữa là U Vi Sát, chủ danh lợi đều có.
Có Tài hội Sát, người Dần Ngọ Tuất thấy Tân Sửu, người Tị Dậu Sửu thấy Ất Mùi, người Thân Tý Thìn thấy Bính Tuất, người Hợi Mão Mùi thấy Mậu Thìn, chỗ này là thần thê tài tụ hội, gặp là giàu có cùng có vợ đẹp có nhiều của cải, lại đề phòng vợ lấy độc dược hại mệnh.
Có Danh vị Tài, chính là Thực thần thấy trong khố, như người Mậu Tý hỏa thấy Canh Tuất, Mậu Thực Canh, hỏa khố ở Tuất, hoả khắc kim là Tài, phùng chỗ này thì cả đời nhận lộc.
Có Trường sinh Tài, như Giáp dụng Mậu Kỷ là Tài kiến Mậu Thân, Quý dụng Bính Đinh là Tài kiến Bính Dần, loại này phần đa là được tài từ bên ngoài.
Lại viết:
Thuật giả đa số lấy các loại như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ là Tài, không biết Giáp Kỷ kiến Bính Tân, Bính Tân kiến Mậu Quý là Chân Tài, sinh chỗ hữu khí vượng tướng, chủ phú thịnh. Nạp âm từ bản can lại thấy chân ngũ hành, như người Ất Hợi trong tháng ngày giờ thấy Canh, Ất Hợi nạp âm là hỏa, Ất Canh là chân kim, can đầu tất nhiên là Tài vậy, chỗ này danh là Thiên Tài, chủ giàu có dư dã. Nếu nạp âm lại khắc chế can đầu, như Đinh Mão hỏa lại có thể chế Ất Canh kim, chỗ này danh là Quỷ Tài, chủ cả đời được thế tài, hoặc là hào kiệt dựa vào quan tư mà khởi gia. Mậu Dần, Mậu Thân gặp Bính Tân, Ất Dậu, Ất Mão được Mậu Quý, đúng như vậy. Thêm lại mang Thìn Tuất Sửu Mùi, là chủ nghệ thuật, nhận thế tài lớn.