KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Tăng Ái phú

Giàu không giàu ở thuần túy, bần không bần ở chiến tranh. Quý không quý ở tú thực, tiện không tiện ở phản thương.
Văn chương rực rõ, Quý Mã hội ở Học Đường. Tấm lòng to lớn, thủy hỏa hợp với tình tính. Mưu sâu lo xa, Đức tinh cư ở cung Trầm tĩnh. Nghệ thuật tinh vi, Đế Tọa quán thủ văn chương. Cát phúc sinh vượng Lộc Mã, yểu cầu đủ toàn bộ tinh thần. Khôi Cương có cơ linh biến, Ly Khảm là cửa thông minh. Quý nhân Lộc Mã nếu gặp, Kiếp Nhận Không vong cũng xa. Trường sinh khả ái rước lấy Quý nhân, suy bại ghét sợ gặp tiểu nhân. Tứ cung hội tụ loạn, là người bất nhân bất nghĩa. Ngũ hành tương sinh, là trung là hiếu. Ấn Lộc ở vị trí hình xung, tâm loạn thân mang. Ngày giờ cư trong Quỷ khố, lo nhiều vui ít. Nhật can vượng mà ít tai hoạ, Tài mệnh suy mà gặp nhiều chông gai. Y thực bôn ba, là do xứ vượng gặp khắc. Lợi danh thành bại, quý địa phùng tổn thương. Họa phúc cả đời, dựa vào ở ngày giờ. Một năm cát hung, dựa vào ở khí vận. Phúc tinh có khí, mà biến động thăng thiên. Tuế khắc vận hung, mà người tan tài tán. Đại vận nguy mà sinh bách họa, lưu niên cát loại trừ nghìn tai ương. Không có tuyệt đến vận tuyệt, tài mệnh khuynh nguy. Cầu sinh được sinh, danh lợi xứng toại. Tam hợp lục hợp, phùng cát nhiều hung ít. Thất Sát tứ hung, gặp thì họa thâm phúc thiển. Gia quan tiến chức, định vì năm hội lộc. Điền sản ngày càng tăng, tất là đất hợp Tài. Tuế Quân xung áp chủ hung tai, đại vận thụ thương biết ít cát. Tuế nên sinh Vận, Vận hỉ sinh Thân. Cả ba vị tương sinh, một năm toại ý. Tài Quan đều vượng, ứng làm quan hiển đạt. Tài Thực đều vinh, sao lo ở bạch ốc? Lộc nhập đất tụ sinh, có thể biết phú quý. Mã bôn đất Lộc vượng, có thể nói vinh hoa. Muốn lấy giao quan lợi tức, phải biết lục hợp tương phùng. Can giờ mang Lộc triều nguyên, định chủ an nhiên nhận phúc. Tháng suy giờ vượng, tuổi trẻ mập phì. Bản trọng Chủ khinh, cuối cùng thân phiêu đãng. Thói quen thủ lợi ở chợ búa, tất là vì xứ vượng phùng Tài. Bỗng nhiên hiển đạt thành gia, định là trong Hình kiến Quý. Chủ Bản nắm thời, được cõi âm phù trì. Quý Lộc có tình, vì quân tử mà hợp cát lợi. Nam thương Bắc lữ, định vì thông Mã đạo. Đông phiến Tây trì, tất là lợi vận xe chuyển. Nhật can khốn nhược, Bá Ngưu oán than trời xanh. Lộc Mã suy vi, Nhan Tử khó tránh đoản mệnh. Hung không hung ở Nhận, cát không cát ở can cường. Mã liệt Tài vi, nam đào nữ tẩu. Thiên La Địa Võng, không họa cũng nhiều tai. Đường cùng phùng Kiếp, nguy hiểm tất phạm tự hình. Tuyệt xứ phùng Tài, vợ khó ứng cân đối với già. Đại hao Tiểu hao, đa số là vì cờ bạc mà mất nhà. Quan phù Tử phù, tất chủ có lúc tụng ngục. Hoặc tứ trụ lại gặp tuyệt, tam mệnh hình thương khó tránh hình phạt tù tội, cuối cùng cũng bị xăm mặt. Nếu phùng Ngũ Quỷ, sét đánh cọp vồ là không sai. Lại gặp bầy hung sát, đoán định ác ương hoành tử. Nữ nhiều dâm tiện, nam tất xương cuồng.

Hoặc hỏi tính tình con người, hiền ngu thiện ác.

Trước tiên suy Quý Sát vượng suy, mới nghiên cứu cơ xảo linh biến. Tâm cao là Khôi Cương là họa, tính thuận là Lục Hợp là cát tường. Xem người phóng khoáng nhàn hạ, gặp sao Hoa Cái Cô Hư. Thế hệ được nhờ thế lực bá đạo, phạm quyền Thiên Quan Kiếp Nhận. Kiếp Nhận sinh thô tục keo kiệt, lại lộ ra cơ mưu hiểm độc. Mưu lược hơn người ở Nhâm Quý, uy mãnh tất Bản ở Bính Đinh. Giáp Ất thuận mà nhân từ đại lượng, Canh Tân suy mà quả đoán không cứng rắn. Gặp Cô tù là không có tinh thần, phá bại ngộ chi đa sơ tiển. Hình chiến là ngu ngoan, an tĩnh là hiền tuấn. Táo bại là hỏa thịnh, ẩn nhẫn là kim nhiều. Kim thủy nắm lệnh mà còn tương sinh, hỏa thổ phùng thời mà tương trợ. Không lao tâm mà y thực tự đủ, không phí lực mà mưu sinh tự thành. Lại nếu có Đức thần tương phù, định là quê nhà tôn sùng. Lộc Quý củng vị, tất nhiên dương danh trên đài các. Chỗ lo là phúc không phúc, chỗ sợ là thành không thành. Phúc hay không phúc, là xứ cát gặp hung. Thành không thành, là cách cục thấy phá. Tổn thương cách thì tổn thương phúc, phá cách thì rước họa. Thí dụ như mầm cây gặp mùa thu khô hạn, mà mùa đông kho thóc hư không. Hoa bị sương mùa xuân, mà mùa hạ không thành quả. Mưu trí tuy có thừa, bỏ dụng thì không thành. Dẫu có cơ xoay chuyển trời đất, mà kiến công lập nghiệp không có thành công. Sao không thấy Lệ Sinh nấu nhừ đế nghiệp, Phạm Tăng ung thư sống lưng. Uyên Minh Đông quay về, Tử Mỹ Tây không còn. Mạnh Kha không gặp, Phùng Diễn không quay lại. Mãi Thần thiếu củi mà hành ca, Giang Cách khổ hàn mà ngồi đọc. Bởi vì có mầm mà không nở, nở mà không có quả. Lại gặp thương bại thái quá, một phúc chẳng qua chỉ là cắt rơm hái củi. Dẫu có bách nghệ đa năng, khó tránh tật khổ cơ hàn. Khốn ở kênh rạch, khiến cho mệnh như vậy mà thôi. Ngưng chìm không thành, sao nhọc oán than? Muốn hỏi phú quý đều thắng, sao cho phép chứ? Không lớn ở tư cơ, không ở tú thực. Đạt thánh đạt hiền, vô thời thì không có. Rất phú rất quý, từ xưa đều như vậy. Hoặc sinh trong Sát cục, văn cao võ hiển. Hoặc cư dưới quan đái, sự nghiệp đại tài. Nếu như chỗ này huyền diệu, làm sao suy đoán? Trước tiên luận ở trong Học Đường, Tam kỳ Tứ phúc. Thứ khảo sát bên ngoài cách cục, nhất cát nhị nghi. Như Kỷ Mùi thấy Giáp Tý là cát tường, Nhâm Thìn thấy Đinh Tị là cát. Nhâm Tý Bính Ngọ, chủ người phong quang nho nhã. Tân Dậu Bính Thân, là người tuấn tú vinh hoa. Âm dương hoàn toàn dựa vào thuần mỹ, tạo hóa tối hỉ tương sinh. Khó biện Nhật Nguyệt tinh hoa, khó đo Kim đường Ngọc quỹ. Được là vinh, gặp là quý.

Nếu luận hiền ngu tối sáng, chẳng qua là tạo hóa bề trên vui vẻ.

Vật có vinh khô, làm người sao không có thành bại? Giả như Phượng sinh ra Trĩ, Xà hóa thành Long. Hoa Lan không đứt ở cỏ cây, khô mộc sinh từ chỗ núi vậy. Trẻ quý già tiện, đầu khốn sau hanh, đều là do đại vận suy vượng, thay đổi dẫn đến phú quý. Cách cục thuần mà chuyển tạp, khốn đốn tàn thương. Vận hành lúc già mà đắc thời, vãn cảnh ưu du. Phòng vận bất trắc gian nguy. Là lấy mùa có xuân có thu, tháng có tròn có khuyết. Thường xem người có phúc ấm, bản thân tang mà định buồn chán. Lại thấy người cày ruộng, một vận thông mà rất hiển. Tước lộc nhiều năm, bỗng chốc tang thành tro bụi. Đến thời vận, cùng giờ tương ngộ. Gặp sinh vượng, vị tất không có hung. Có tình thông, vô tình thì không thông. Có hợp là cát, có xung là hung. Quan Ấn lâm Tuế, định biết làm quan tiến triển. Gặp vận Thực Tài, thứ dân cũng hứa vinh xương. Hoặc có ít vinh dựa vào tổ phụ, nhờ tôn trưởng mà quý. Lại có rủ tóc khó khổ, đến già không nơi nương tựa.
Bởi do tứ trụ vượng suy, chỗ do đại vận tốt xấu. Sao không thấy mộc khô héo, dù có gặp mùa xuân vẫn không vinh. Ngọn cây xanh tốt, tuy trải qua gió sương mà không bại. Ngày giờ lại kém hơn năm tháng, định không có xuống dưới một chút. Giờ sinh hướng về vượng khí, về già tất có phúc. Xưa có đẽo gọt ngọc, giá trị là liên thành. Thế người có cô lập, tự thành gia kế. Như tôi rèn luyện mà không tổn, sau năm hàn mà không héo. Tiêu Tức diệu ở biến thông, họa phúc nên khảo sát suy vượng. Thứ để ngỏ hầu quân tử, cùng làm gương là may mắn.

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Tiêu Tức phú
( Lạc Lục Tử chú, Dục Ngô cư sĩ giải thích. )

Nguyên Tiên thiên là nhất khí, bẩm thanh trọc là tự nhiên. Được Tam Tài làm thành tượng, truyền bốn khí để thành năm.
( Tạo hóa vốn từ sơ khai nguyên thủy, là từ chỗ sinh tam mệnh vậy. Tam mệnh lấy can làm Lộc, gọi là Thiên Nguyên; lấy chi là mệnh, gọi là Nhân Nguyên; lấy nạp âm là thân, gọi là Địa Nguyên. Chỗ này cổ nhân nhìn thấy tạo hóa, cho nên làm theo thiên địa và thể âm dương, phối tứ trụ mà thành bát tự. Chỗ này là nghĩa nói đầu của Lạc Lục Tử vậy. )

Lấy Can làm Lộc, Hướng Bối định kỳ bần phú; lấy Chi làm mệnh, nói thuận nghịch theo tuần hoàn.
( Can như can mộc, chi như chi mộc. Nói chung, can dương mà chi âm vậy; phân ra nói, can chi đều có âm dương vậy. Lộc thập can, gửi trong 12 địa chi, dương đạo thuận hành, âm đạo nghịch chuyển, đều từ Trường Sinh mà đếm, gặp bản âm lâm quan lấy ở chỗ này. Chỗ này là dương sinh âm tử, âm sinh dương tử, là lý tự nhiên vậy. Lấy Can là Lộc mà suy, thì có Hướng Bối. Như Giáp lộc ở Dần, gặp Sửu thì gọi là Hướng, thấy Mão thì gọi là Bối. Cho nên trước Lộc một thần là Dương Nhận, sau Lộc một thần gọi là Khố Lộc. 《Kinh 》nói: Hướng lộc thì Sinh, Bối Lộc thì Tử. Chỗ này gọi là lấy Hướng Bối định kỳ bần cùng phú ! Còn nói rõ lấy Chi là mệnh, nói rõ là có thuận nghịch. Như dương nam âm nữ, từ tháng sinh mà thuận hành; âm nam dương nữ, từ tháng sinh mà nghịch hành. Con người chịu nhận khí âm dương thuận nghịch, ở trong chỗ can chi, xoay vòng tròn, tuần hoàn qua lại, như vận chuyển hàn lạnh bốn mùa mà vô cùng tận vậy. Cho nên viết, lấy chi là mệnh, nói rõ thuận nghịch xoay thành vòng tròn. Đàm Oánh viết: Suy Can Lộc có Hướng Bối, nghiên cứu cát hung có nông sâu. Bối, là nghịch, có thể định là bần; Hướng, là thuận mà biết phú. Nhưng mà không ở một đường quỹ đạo, cũng có lúc gặp Bối Lộc mà không bần. Vì vậy, chi làm Nhân Nguyên, vận đồ được mất, nữ đưa nam hứng, chuyển giao tốt xấu, hội cát hội hung, định tác dụng vậy. )

Vận hành, thì một ngày 10 năm; chính là chiết trừ 3 ngày 1 năm. Tinh hưu vượng cho là Diệu, cùng thông biến hoá cho là Huyền.
( Trước tiên nói can chi, là định bát tự vậy. Hành vận là tối yếu nhất trong Tam mệnh, cho nên đứng đầu phép này, con người dùng chỗ này. Vận hành, thì một ngày 10 năm; Chiết trừ, chính là 3 ngày một năm. Phép này cổ nhân dùng lập vận vậy. Chiết trừ phải hiểu số thực lịch, mệnh có tiết khí nông sâu khác nhau, có vận thì sinh thì tiết thay đổi lẫn nhau, trung gian hoặc là hưu hoặc là vượng, phải cùng bát tự phù hợp. Có Hỷ là sinh vượng còn Ác là hưu bại, có hợp hưu bại mà sợ sinh vượng, thiên biến vạn hóa, không phải đạt huyền thông Tiêu Tức, dùng hết cái kỳ diệu của tạo hóa, ai có thể cùng ở đây? Cho nên viết: Hóa mà cắt gọi là Biến, cắt mà được gọi là Thông, là được lý lẽ Thông Biến vậy. Nghĩa cát hung tồn tại chỗ này, cho nên có thể vi diệu là hàng đầu, là thập toàn thập mỹ. )

Kỳ cũng là khí, tương lai là tiến, thành công là thoái. Như Rắn ở bụi, như Lươn ở bùn.
( Khí, là khí ngũ hành vậy, lan truyền ở bốn mùa. Như mùa xuân mộc vượng, hỏa tướng, thổ tử, kim tù, thủy hưu, đón lấy lâm quan, đế vượng, Tương lai là tiến; lấy Bối là hưu phế, tử tuyệt, Thành công là thoái. Khí ngũ hành, tiến thoái xoay vòng, hành vận con người, thường cư một thần, tương lai đã tiến, vượng là thoái, dụng nắm quyền là phúc, dụng không nắm quyền là vô ích. Nếu khí ngũ hành đã qua là thoái, Rắn Lươn đều thuộc loại hoả, hỏa tới tù tử là thổ, hưu phế là tro bụi. Ba thú ở trong Tị là Rắn, là Lươn, là Giun, cho nên biết Rắn Lươn là hoả, tới từ tù hưu phế, thì ở bụi ở bùn là thổ tiến mà hoả thoái vậy.

Oánh Hòa thượng viết: Lươn, Giun là thuộc loại thủy thổ, cư ở bụi nhơ tất là buồn lo. Đằng Xà là thần tro lửa, làm vui ở xứ nhơ bẩn. Phương lấy loại tụ, vật phân theo bầy, chỗ muốn thuận là cát; chỗ nghịch là hung, tức là vật có thể xem tạo hóa vậy. Hành vận con người, tuy đồng một cung, mà khí có tiến thoái, vị trí không có khác; còn mệnh có sinh tử, thấy kỳ không thể không tinh hưu vượng, cùng thông biến vậy. Là hiểu thuyết này.)

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Kỳ cũng là có, là theo không mà lập có; Kỳ cũng là không có, trời buông Tượng theo chữ.
( Chỗ này là chính khí ngũ hành rõ ràng, là theo không có mà lập có, cho nên dựa vào thiên tượng ngũ tinh để làm sáng tỏ. Bởi vì, ban đầu vật truyền bá, cái nào là có? Sau Thái Cực, cái nào là không có, có xuất phát từ cái không có, không có sinh từ chỗ có. Thành tượng trời, thành hình ở đất, gặp biến hóa vậy. )

Kỳ cũng là Thường, lập Nhân lập Nghĩa; Kỳ cũng là Chuyện, có thấy có nghe.

( Ngũ hành, ở trên trời là Ngũ Tinh, ở dưới đất là Ngũ Nhạc, ở con người là Ngũ Tạng, mà được phát triển là Ngũ Thường, đạo thường đã có lâu đời. 《 Dịch 》 viết: Đạo lập trời, gọi là âm và dương; đạo lập đất, gọi là nhu và cương; đạo lập con người, gọi là nhân và nghĩa. Đạo con người, không phải nhân và nghĩa thì không thể lập vậy. 《Thư 》 viết: Nhị ngũ sự, một là nói tướng mạo, hai là lời nói, ba là đối xử, bốn là nghe, năm là nhớ. Ngũ thường, ngũ sự, đều là ngũ hành biến hóa, cùng với nhân sự là tương thông. Tính tình của con người thành hay mất, biết động hay tĩnh, đều không thoát khỏi con số này. Hoặc thấy hoặc nghe, như kim mộc thủy hỏa thổ là thấy, còn âm thanh Cung Thương Giác Chuỷ Vũ là nghe; tướng mạo, lời nói, nghe nhìn, suy nghĩ là thấy; còn cung kính, mưu mô, tài ba là nghe. Bởi vì dụng ngũ hành, rất là không thể thắng hết, không phải vì kẻ sĩ sáng suốt, ai có thể tinh xác mà âm thầm nhớ chứ? )

Sùng là báu vật, Kỳ là quý vậy. Tướng tinh Phù Đức, Thiên Ất gia lâm; bản chủ hưu tù, hành tàng ẫn giấu.
( Sùng, là ngược lại với thấp hèn. Kỳ (lẻ), là đối với Ngẫu (chẵn). Vật đã tích lũy mà cao, cao gọi là Sùng, ở ngũ hành, là trên sinh dưới vậy. Vật lấy không và ngẫu là kỳ; ở ngũ hành tách ra chính là bầy vậy. Tướng tinh, là Nguyệt tướng vậy. Đức, là Thiên, Nguyệt Đức vậy. Thiên Ất, là quý thần vậy. Năm sinh là Bản, ngày sinh là Chủ, hưu tù là nói đối xứng với sinh vượng. Năm, tháng, ngày, giờ sinh mệnh con người, tứ trụ có ngũ hành, trên sinh dưới. Có Tam Kỳ, Ất Bính Đinh lại mang thêm Tướng tinh, Đức quý. Chủ Bản ở sinh vượng đắc địa, chỗ gọi là cát tướng giao lâm, mà phúc đến thành khánh, chỗ này là mệnh rất quý. Trước có nói Sùng Kỳ là báu vật quý, sau nói Chủ Bản kị hưu tù, thấy Sùng Kỳ là khó gặp, lấy Chủ Bản là thiết yếu, còn nói loại phương thần sát là thứ yếu. Biết mệnh trước tiên là lấy ngũ hành, sinh vượng là thượng, Tướng tinh Đức quý cộng thần sát là tối cát vậy. Từ viết: Nói Sùng là lấy Chủ Bản. Phàm trong mệnh thần nắm thọ, nắm Tài, nắm họa phúc, cũng gọi là Sùng. Kỳ là lấy Lộc Mã mà nói, phàm Tài Quan, Ấn Thực ở trong mệnh, cũng gọi là Kỳ. Đức là Đức ở chi ngày, Thần là lục hợp vậy. Như năm Nhâm Dần, tháng Canh Tuất, ngày Quý Mão, giờ Ất Mão, tháng 9 Tướng ở Mão, phù kỳ ngày sinh; ngũ hành tháng 9, kim thổ lục hợp, Mão Tuất hợp, Ất Canh hợp, Mậu Quý hợp. Ngũ hành như vậy, đều không ở đất hưu bại, là quý. Nghĩa câu phú dường như không phải. )

Đến như Câu Trần đắc vị, không thiếu chữ Tín để thành công; Chân Vũ đương quyền, biết là đại tài mà phân chia thuận lợi.
( Chỗ này đưa ra thủy thổ, còn lại để ví dụ. Lấy Câu Trần là thổ, ở ngũ thường cũng là Tín. Thần Chân Vũ chính là thủy, ở ngũ thường cũng là Trí. Tín cũng là đủ để đạt đến Thánh nhân; Trí cũng là đủ để viết ra Đạo. Dụng ngũ hành, duy nhất là chỗ này. Đắc vị, như Mậu Kỷ sinh tháng 7, Mẫu ở đất Tử, Đương quyền, như Nhâm Quý sinh tháng 7, là Tử ở nhà Mẫu. Hai vật như nhau, cho nên đều sinh ra ở thân vậy. Họ Từ lấy Mậu Kỷ tọa lâm Dần Mão, cùng Hợi Mão Mùi; Nhâm Quý tọa lâm Ngọ Tị, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, dưới có đủ Quan Ấn, Lộc Mã, vượng tướng, mộ khố gọi là Đắc vị đương quyền. Dường như cùng câu nghĩa là có nghịch nhau. Không bằng chỉ lấy thổ sinh ở tứ quý, còn thủy gặp ba tháng mùa Đông là đúng. )

Bất nhân bất nghĩa, Canh Tân cùng Giáp Ất giao soa; hoặc thị hoặc phi, vương quý cùng Bính Đinh tương úy.
(Lời nói ở trên là Đương quyền đắc vị, thì không có Giao soa, không có Tương úy vậy. Nếu Giáp thấy Canh, Ất thấy Tân, Bính thấy Nhâm, Đinh thấy Quý, giống như hai nữ cùng sống chung, hai nam ở cùng chỗ, không hợp âm dương, không thành hỷ khánh vậy. Canh Tân chủ Nghĩa, Giáp Ất chủ Nhân, lấy giao nhau, cho nên nói là bất nhân bất nghĩa. Bính Đinh chủ Lễ, Nhâm Quý chủ Trí, lấy tương úy, cho nên hoặc thị hoặc phi. Nếu Canh hợp ở Ất, Tân hợp ở Bính, cương nhu cùng đón nhau, gồm đủ nhân nghĩa, không phải là giao soa vậy. Nếu Bính thấy Quý Quan, Đinh hợp Nhâm lộc, thì thành âm dương tương phối, là Thủy Hỏa ký tế, không phải là tương úy vậy. Hoặc lấy Giáp Thân, Ất Dậu là bất nhân, Canh Dần, Tân Mão là bất nghĩa, bởi vì Dần Thân Canh Thân giao soa, Mão Dậu Ất Tân ám chiến; Bính gặp Nhâm, thì Bính không phải là Nhâm; Đinh phùng Quý, thì Quý không phải là Đinh, Tý Ngọ cùng như vậy, Tị Hợi cũng vậy. Phàm 10 gặp một ngày này, mới có thể nói. )

Cho nên bản thân tiên hiền khiêm tốn, xứ tục cầu tiên. Sùng buộng thì định bỏ quan; Quy đạo, là thủy phủ cầu huyền.
(Nhân nghĩa trái với ở chỗ được mất, thị phi thường vướng ở vinh khô, vì vậy thường dùng không biết, bèn không có nghĩ ngơi, cho nên nói có bản thân Tiên hiền khiêm tốn, ở xứ tục cầu tiên, bỏ những thứ yêu thích, ít ham muốn dục vọng cá nhân. Hoặc tôn thờ để diệt hỏa bốc cao, hoặc trở về lấy bổ ích Thận tinh, giữ lấy tinh thần bên trong, ngoại trừ dối trá xằng bậy, đạt vật ta không có, minh sắc không cứu cánh, hẳn là vậy. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Là biết ngũ hành thông đạo, thủ dụng nhiều cửa. Lý ở hiền nhân, loạn ở bất tài. Thành ở diệu dụng, bại ở bất lực.
( Đạo không ở không còn, vật không ở không không hợp, ngũ hành biến hóa, thông ở đại đạo, chỗ nào không nên, thủ dụng không là một, cho nên gọi là nhiều cửa. Như biết lấy để sữa định, thì trước tiên phải bắt tay đi tìm. Bản thân không tỉnh ngộ, sao có thể đến chỗ này? Cho nên người có đức, có thể hiểu hết lý tính, đạt đến diệu dụng ngũ hành; Ngu là mất, cuối cùng rồi cũng mê muội., mà không có chỗ được. Có thể để nuôi lấy phúc, không thể bại để lấy họa. 《Dịch》 viết: Người không cẩu thả, đạo không uổng được. )

Kiến bất kiến chi hình, không có thời không có; tư tưởng trừu bất trừu, liên tục muôn đời.

( Kiến bất kiến chi hình, Như Thập can Lộc ký gửi ở 12 chi, hình có thấy và không thấy cùng nhau tồn tại ở chỗ này. Giáp lộc ở Dần, rõ ràng Dần là Kiến lộc; không thấy Dần mà thấy Tuất, vốn lấy Ngũ Tý Độn đến Tuất thấy Giáp Tuất, trở thành Lộc Đường của Giáp, chỗ này gọi là Bất kiến lộc. Giáp lấy Tân là Quan, Tân lộc ở Dậu, Giáp được kim kê Dậu, rõ ràng Dậu là Kiến Quan; không thấy Dậu mà thấy Mùi, lấy Thiên Quan độn Giáp nhập bầy Dê (Mùi), ở Mùi có Tân, chỗ này gọi là Bất kiến Quan. Tư tưởng trừu bất trừu, như khí dương sinh ở Tý vượng ở Mão cuối cùng ở Ngọ, khí âm sinh ở Ngọ vượng ở Dậu cuối cùng là ở Hợi, dương sinh thì âm tử, âm biến thì dương hóa, Tý Ngọ chính là âm dương bắt đầu hoá sinh, cuối cùng là vô cực vậy. Âm cực thì dương sinh, dương cực thì âm sinh, khí từ trong Tý Ngọ, nói Giáp chen lấn tách ra, xuất nhập chặt chẽ, qua lại bất tận, giống như sợi tơ liên kết, nghĩa như liên tục muôn đời. 《 Thái Huyền 》nói: Kiến bất kiến chi hình, trừu bất trừu chi tự, là ngày dời tháng đổi, nóng đi lạnh đến, phế rồi lại hưng, lại ngừng lại vượng, một rõ một mờ, một co một duỗi, liên tục tồn tại, không có lúc nào là không có. Bởi vì âm dương ngũ hành, có thấy không thấy, có mất không mất, lý lẽ huyền diệu, là cơ phát tiết, không có gì là không có, không lúc nào không như vậy, tự có Thiên Địa Nhân đến nay, thì như vậy, phải tỉnh ngộ như thế nào. )

Là lấy Hà Công sợ kỳ Thất Sát, Tuyên Phụ sợ kỳ Nguyên Thần. Nga Mi trình bày theo ba đời, kẻ sĩ hoàn toàn không nhiều; Quỷ Cốc truyền bá Cửu mệnh, xem tinh sao quy ước. Nay muốn tập hợp nhiều nhà, có thể phát qua phiến diện, là lấy chưa giải khúc thông, diệu là cần phải thần ngộ.
( Nguyên Thần, Thất Sát, là đứng đầu hung sát. Mệnh bẩm ngũ hành, hoạ này ai trốn? Thời xưa thánh hiền, như Hà Thượng Công, rơi vào cõi tiên vậy; Văn Tuyên Vương, lrất tài ba vậy, vẫn sợ Nhị Sát, huống chi bề dưới? Vì vậy, viết sách cứu thế, cát hung họa phúc, nói cho mọi người lúc còn manh nha. Nga Mi tiên truyền lại ba đời, không phải không tinh vậy; Quỷ Cốc Tử truyền bá Cửu mệnh, không phải không thông vậy. Chỉ nói kể huyền hoặc, âm u áo diệu khó biết, cho nên nói, xem tinh sao mà quy ước, không nhiều kẻ sĩ. Ba đời, là nói Thân Lộc Mệnh vậy. Cửu mệnh, là hai cung Thân Mệnh, hai vị Lộc Mã, năm sinh, Thai, nguyệt, ngày, giờ vậy. Lạc Lục Tử tập hợp tham khảo yếu chỉ của nhiều nhà, có bỏ qua thành kiến, chỉ thấy phát sinh tâm đắc, giải thích nhiều nghĩa chữ “Huyền”, diệu cơ khúc thông, là ở học giả giác ngộ mà biến thông, vì thế là tốt vậy.)

Thần xuất từ Lan Dã, Ấu mộ chân phong. Nhập diệu tứ vô huyền hồ, thần du hành không hóa trượng. Tức là Nhất khí đã ngưng tụ, Tiêu là ngũ hành mà thông đạo.
( Thần là xưng đối với vua. Lan Dã, là địa danh, ghi từ chỗ xuất ra. Ấu mộ chân phong, là chí lớn vậy. Huyền hồ hóa trượng, là câu chuyện Hồ Công bỏ cháu đích tôn, người xưa xưng gọi tên rất hay, ân hận bản thân không có tài năng. Bên ngoài đoạn tuyệt chỗ ham muốn, bên trong không có chỗ suy nghĩ. Tức là Nhất khí đã ngưng tụ, Tiêu là ngũ hành đến chỗ thông đạo, cho nên viết bài Phú này có danh gọi là《 Tiêu Tức 》. Bởi vì tạo hóa có Tiêu có Tức, cho nên nói như vậy. )

Càn Khôn lập loài Đực Cái, kim mộc định kỳ cương nhu; ngày đêm đổi nhau là Quân Thần, lúc Thanh Xích là phụ tử.
( Chỗ này tạo hóa Tiêu Tức là đại quy mô. Càn thuộc dương, là thiên đạo, là quân đạo, là phu đạo; Khôn thuộc âm, là địa đạo, là thần đạo, là phụ đạo. Càn lấy Động làm thể, gọi là Ích Hộ ( mở cửa); Khôn lấy Tĩnh làm thể, gọi là Hạp Hộ (đóng cửa). Càn Khôn lập âm dương, giống đực hợp với giống cái, cả hai cấu kết nhau, vì thế ngũ hành biến hóa ở trong đó vậy. 《Dịch 》lấy Càn Khôn, đúng nghĩa như vậy. Nhân là nhu Nghĩa là cương, chủ chỗ tính tình của kim mộc. Một âm một dương, cương nhu đẩy nhau. Chỉ có cương mà không có nhu, thì không thể sinh biến; chỉ có nhu mà không có cương, thì không thể sinh hóa. Ban ngày là cương, sinh biến để tiến, ban đêm là nhu, sinh hóa để thoái. Tích tụ cương nhu mà thành biến hóa, theo ngày đêm mà thành tiến thoái. Ban ngày là dương theo tượng là Quân (vua); ban đêm là âm theo tượng là Thần (bề tôi). Đạo ngày đêm, là kỳ có Tiêu Tức; kỳ có được Doanh (đầy) Hư (trống rỗng); kỳ có phân chia âm u sáng tỏ; kỳ có số sinh tử. Một Thái (tốt) một Phủ (xấu), một Tổn (giảm) một Ích (tăng). Bởi vì giữa nhau có chung thủy, mới cũ thay đổi lẫn nhau, dẫn đến vinh nhục, tự đến phúc lộc, nếu không có cũng nhiều căn nguyên như vậy. Thần ngũ hành gọi là Đế, Đông phương Thanh Đế là cha; sinh phương Nam Xích Đế là con. Lý lẽ Thanh, Xích, là cha truyền đạo cho con vậy. Nói trong âm dương ngũ hành, có đạo Quân Thần, Phụ Tử, Phu Phụ tồn tại ở chỗ này. Nội dung chính là tạo hóa, là thông đạo luân lý làm người vậy.)

Không thể chỉ tuân thủ một đường, không thể một lý mà suy. Thời có Đông gặp viêm nhiệt, Hạ có lúc cỏ gặp sương; loài có Âm Thử tê băng, Thần Quy túc hoả.
( Chỗ này là nói đạo âm dương ngũ hành, kỳ diệu khó thông, bí ẩn khó lường, không thể chỉ tuân thủ một đường, một lý mà suy. Như đông hàn hạ nhiệt, chỗ này là lý thường tình, là chính thời vậy. Nếu Đông gặp viêm nhiệt, Hạ cỏ gặp sương, thì không phải thời (Thời là thời tiết) vậy. Không phải thời kỳ mà hành lệnh, là có thể trói buộc lẽ thường chăng? Thử (Chuột) hỏa Quy (Rùa) băng, chỗ này có lý, thích hợp với loài vậy. Âm Thử tê băng, Thần Quy túc hoả, là không phải loài vậy. Chỗ không phải loài mà ở, là có thể luận một đường chăng? Thường dễ nghiên cứu, bất thường thì khó cùng, tạo hóa sao dễ nói chăng? Người Trâu (tên quốc gia thời Chu, nay ở vùng huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) thổi luật, mà hàn cốc hồi xuân; hiếu phụ hàm oan, mà tháng 6 sương bay, từ xưa đến nay ghi lại thiên tai, loại này quá nhiều, không thể nói âm dương ngũ hành không thay đổi vậy. Lông Hoả Thử, se lại thành vải bố; mỡ băng tằm, giẫm đạp mà làm tấm thớt, chỗ này là biết thời đại vậy. 《 Thần Dị Kinh viết: Bắc phương có tầng băng vạn dặm, dầy cả trăm trượng, có con chuột nặng vạn cân, lông dài hơn cả thước, chỗ này ẩn giấu ở trong, chính là Âm Thử tê băng vậy. 《 Nhĩ Nhã 》 viết: Một ngày Thần Quy, 10 ngày Hoả Quy. Quách Phác nói giúp: Trời sinh ra thần vật, các loài Quy (con Rùa), có thể chơi với lửa, là Thần Quy túc hoả vậy. Từ Tử Bình chỉ ra Đông Chí Nhất Dương sinh, Hạ Chí Nhất Âm sinh, chính là Đông phùng viêm nhiệt, Hạ thảo tao sương. Lấy Quý lộc ở Tý làm nhân nguyên, Bính lấy Quý làm Quan Ấn; Mậu lộc ở Tị là nhân nguyên, Quý lấy Mậu làm Quan Ấn, là Âm Thử tên băng, Thần Quy túc hoả, e rằng không phải nghĩa của Phú.)

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Là lấy Âm Dương hãn trắc, chí vật nan cùng. Đại để tam đông ít nóng, mùa hạ dương nhiều. Họa phúc hữu nhược kỳ tường, thuật sĩ hi kỳ bát cửu.
(Đoạn văn trên nói Đông nhiệt Hạ sương, băng Thử hỏa Quy, không phải là âm dương thường lý, loài vật cảm xúc lẫn nhau, cho nên nói Hãn trắc nan cùng. Chỗ này phản chiếu phá tan đoạn văn ở trên, nói mùa có đông phùng viêm nhiệt, đại để là ba tháng mùa đông ngày tất thiếu vậy; hạ thảo tao sương, đại để mùa hạ dương tất nhiều vậy. Hàn thử đã có thường kỳ, âm dương có thể lén nhìn áo diệu, hoạ phúc lúc này lấy lý suy, hiển cát tường lấy loài đáp ứng. Thuật sĩ chuyên môn luận tam mệnh, ngũ hành, hành niên tuế vận, gặp vận vượng tướng đắc vị là Thái (tốt), thoái vận hưu tù thất vị là Phủ (xấu). Chỉ nói thông thường, khát khao có thể đạt đến được 8, 9 vậy. Nhân mệnh ứng hành niên, tuế vận, họa phúc, nếu như cát tường thay đổi, đếm vật khó tận, ép buộc thuật sĩ, trong 10 phần, chỗ này lý cũng khó hi vọng đạt đến 8,9. Bởi vì thiên địa không có bảo toàn công lý, huống chi ở người chứ? Cũng thông vậy. )

Hoặc nếu sinh phùng đất hưu bại, trẻ tuổi cô cùng; về già gặp đất kiến vượng, lâm tuổi dừng lại. Nếu là đầu hung sau cát, lấy nguyên trọc mà lưu thanh; đầu cát cuối hung, loại căn ngọt mà đời sau đắng.
(Thân tuy theo vận, tất giả vận để giúp thân, thế phải đúng thời, cũng giả thời mà thừa thế. Sinh phùng tuế cường, vận phù hợp ở xứ đất vượng; về già gặp năm suy, vận đúng thích hợp ở đất vây khốn. Chính là tùy theo tiêu tức phù hợp, giống như hưu vượng. Tuổi trẻ ngưng diệt, mà về già hưng long, gọi là Nguyên trọc lưu thanh vậy. Tuổi trẻ kiến vượng mà về già không nơi nương tựa, gọi là Căn ngọt mà đời sau đắng là vậy. Nếu là đo lường vận khí, nghiên cứu kĩ căn nguyên, trước xét căn cơ dầy mỏng, kiêm hiểu vận hạn thủy chung. Tuy nói bách phát bách trúng, cũng có thể hi vọng được 8,9 phần. Đại để nhân mệnh, lập năm là vua. Kỳ Thai, tháng, ngày, giờ, theo thứ tự trở xuống. Cho nên viết, lấy tứ trụ là Quân phụ (vua cha), là chủ tể cát hung, mà lập kỳ Niên (năm) vậy. Hiểu bản khí vận, suy nền tảng thực hư, mà thủ kỳ Nguyệt (tháng). Xem điềm an nguy, xét căn ngọt đắng, mà thủ kỳ Nhật (ngày). Định gốc quý tiện, quyết kỳ sinh tử, mà thủ kỳ Thời (giờ). Mới phân ấu ấm (phúc ấm lúc trẻ), nghiên cứu lập tiền, mà thủ kỳ Thai (Thai nguyên). Nguyệt quản Sơ chủ (đầu), Nhật quản Trung chủ (giữa), Thời quản Mạt chủ (cuối), Niên là tổng quản. Cần phải gộp đủ đầu cuối, tương ứng trước sau, thì phú quý lưỡng toàn, tài lộc song hiển. Không có khác đầu cát cuối hung, đầu hung cuối cát cậy, nhưng mà không dễ có được vậy. Hoặc chỉ có giữa cuối hưng long, cũng có thể trở thành thực mệnh. )

Quan hồ manh triệu, Sát dĩ kỳ nguyên, Căn tại Miêu tiên, Thực tòng Hoa hậu.
(Thuyết đàm mệnh, lấy Thai là rễ, lấy tháng là mầm, lấy ngày là hoa, lấy giờ là quả. Nghiên cứu rễ có thể biết mầm, thấy hoa sau đó biết quả, là thánh nhân xem lấy điềm báo trước, thấy ở lúc chưa manh nha (phát sinh), tức là xét căn nguyên, thì biết giống nòi vậy. Từ viết: Muốn biết cát hung ở bên trong vận, trước tiên xem căn nguyên thắng bại. Căn nguyên có quý, thì vận lâm quý là tất quý; căn nguyên có tài, thì vận lâm tài mà phát tài; căn nguyên có tai, thì vận lâm tai là sinh tai. Lời nói này cũng hiểu thông.)

Thai sinh nguyên mệnh, tam thú định tổ tông; Luật Lữ Cung Thương, Ngũ Hổ độn luận kỳ thành bại.
(Chú: Ống luật Lữ: làm bằng trúc, dùng để hiệu chỉnh âm thanh cao thấp trong âm nhạc, sau dùng từ 'Luật Lữ' để gọi chung về âm luật)
(Thú có 36 vị, chi xếp 12 thần. Thứ tự mà phân bố, 1 thần 3 thú. Người Tý có Chuột Dơi Chim, người Sửu có Trâu Cua Cá Sấu, người Dần có Hổ Hồ ly Báo, người Mão có Thỏ Mèo Chồn, người Thìn có Rồng Thuồng luồng Cá, người Tị có Rắn Lươn Giun, người Ngọ có Ngựa Hươu Nai, người Mùi có Dê Chim Ưng Nhạn, người Thân có Khỉ Vượn Tinh tinh, người Dậu có Gà Quạ Trĩ, người Tuất có Chó Sói Sài, người Hợi có Heo Thỉ Thê (giống như heo rừng)《 Ngưng Trùng Tử nói: Tượng thần tức là Thiên Lục, chủ đại phú quý; Không phải Tượng thần, là Thiên Vân không lộc. Cụ thể lấy hình thần, đoán tính khí. Thai sinh nguyên mệnh, như nói người sinh Giáp Tý, sinh tháng Quý Dậu, Thai nhập Giáp Tý, là đúng nguyên mệnh. Lại như người sinh Ất Sửu kim, tháng sinh Kỷ Mão, Thai phùng Canh Ngọ thổ, là thổ sinh kim. Hai thuyết hợp lại xem, ý không xa lắm. Hoặc viết: Lấy năm thủ tháng, lấy tháng thủ Thai, xem 3 chỗ được loài, gọi là Tam Thú. Có hay không có Thôn đạm thương hình, thì có thể định xuất xứ tông môn.
Dương lục là Luật, Âm lục là Lữ, ngũ âm gọi chung là Luật Lữ. Luật Lữ hợp nhau, phân chi định can, ngũ hành hợp là ngũ âm, là do Giáp Kỷ Cung thổ độn khởi Bính Dần, Ất Canh Thương kim độn khởi Mậu Dần, Bính Tân Vũ thủy độn khởi Canh Dần, Đinh Nhâm Giác mộc độn khởi Nhâm Dần, Mậu Quý Chuỷ hỏa độn khởi Giáp Dần. Ngũ âm (là năm bậc âm giai cổ xưa: Cung, Thương, Giác, Chuỷ, Vũ, cũng gọi là Hợp, Tứ, Ất, Xích, Công) khởi từ Dần, Dần là đầu 12 tháng, đứng đầu nhị lục thì chi thủ dã. Thành bại cát hung con người, là bắt đầu từ chỗ này. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Không hợp có hợp, hậu học khó biết. Được một phân ba, tiền hiền không ghi.
(Đạo lập ở 2, thành ở 3, biến ở 5, mà số thiên địa, xếp đủ 10 vậy, là số chẵn mà thôi. Không hợp có hợp, như Giáp và Kỷ hợp, trụ không thấy Kỷ mà gặp Ngọ, bởi vì trong Ngọ có Kỷ lộc. Dần và Hợi hợp, trụ không thấy Hợi mà gặp Nhâm, bởi vì trong Hợi có Nhâm lộc. Lại như, Dần Ngọ Tuất hợp, trụ không thấy Dần mà gặp Giáp, bởi vì trong Dần có Giáp lộc. Được một phân ba, như Giáp gặp Kỷ là nhất hợp, gặp Ngọ là nhị hợp, gặp Hợi là tam hợp, chỗ này chính là được một lộc mà phân ba lộc. Cùng ở trước có nói Kiến bất kiến chi hình, trừu bất trừu chi tự, lý là quán xuyên nhau vậy. Lý Hư Trung luận can chi hợp toàn cách: 5 vị Niên, Nguyệt, Nhật, Thời, Thai, có thể hợp toàn can chi, nói Tý thì ở Sửu, nói Dần thì ở Hợi, nói Giáp thì ở Kỷ, nói Ất thì ở Canh. 5 vị Can Lộc, như mang Giáp Ất Bính Đinh Mậu, tự nhiên khởi hợp Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. 12 chi nếu mang Dần Mão Thìn Tị Ngọ, tự nhiên khởi hợp Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, hoặc ở Tý Sửu Mùi có thêm Lộc Mã, thì thập can thập nhị chi đều hợp đủ vậy. Từ viết: Không hợp có hợp tức là các loại như Hình hợp, Sửu Tý diêu Tị cách, được một, đã thấy có Dần hình Tị, Sửu phá Tị, mà Bính Mậu bị hình phá mà xuất ra, thì liền phân ra ba mà được, là tam hợp Tị Dậu Sửu vậy. Cổ dụng viết: Hổ sinh bôn Tị Trư Hầu tẩu, Dương kích Trư Xà tự nhiên vinh. Giải thích như vậy cũng hiểu thông. )

Niên tuy phùng ở Quan đái, còn có dư tai; đầu vận đến ở đất suy, vẫn mở ra tiên phúc.
(Niên, là Thái tuế vậy. Vận, là đại vận vậy. Niên tuy phùng ở Quan đái, vẫn còn dư tai gặp bạo bại; Vận tuy đến ở đất suy, vẫn còn mang tiên phúc quan vượng. Chỗ này nguyên do hành vận có thuyết 5 năm trước sau, nghĩa văn hai câu qua lại là có thấy lẫn nhau. )

Đại đoạn Thiên Nguyên suy nhược, cung cát chưa đủ lấy là vinh, Trung Hạ hưng long, quẻ hung không thể thành kỳ xấu.
(Thiên Nguyên, là thập can vậy. Can lấy sinh vượng là vinh, nếu suy bệnh tử mộ tuyệt, thì thiên can suy nhược, dù chỗ lâm cung phần có cát. Như được loại Tài Quan, Tướng tinh, Thiên Ất, cũng chưa đủ lấy là vinh. Trung, là địa chi vậy. Hạ, là nạp âm vậy. Trung Hạ đều lâm đất ngũ hành hưng vượng, dù bát quái phân định là hung, cũng không thể dẫn đến tai hoạ. Từ viết: Phàm mệnh, Thiên Nguyên lâm đất Tài Quan, mà sinh ra không đắc thời, bản khí suy nhược, ngũ hành trên dưới, hưu vượng lại không cứu nhau, dù cung gặp Lộc Mã là cát, cũng không đủ lấy là vinh. Như lấy Canh Tân sinh ở mùa xuân, vị trí khác có hỏa khắc kim, kim thấy Dần Mão Giáp Ất là Tài, bởi vì mộc gặp hoả vượng hại kim, mà kim lại không đắc lệnh, tuy cung thuộc Tài cát, mà lại phát hung họa là vậy. Trung, là Nhân nguyên. Hạ, là chi nguyên. Như Đinh lấy Nhâm là Quan Ấn, Trung Hạ có Lộc Mã kiến vượng thành khánh, tuy hỏa lâm tuyệt địa, trung hạ lại nhận quý. Thành giám viết: Lộc tuy tuyệt mà kiến quý. Đào Chu nói: Tuyệt lộc vong Tài, không là điềm hung vậy. Hoặc lấy nhất cát tam sinh thuộc Cửu cung, ngũ quỷ tuyệt mệnh thuộc Bát quái. Cũng hiểu. )

Nếu gặp tôn hung ti cát, cứu cũng vô công; tôn cát ti hung, phùng tai tự khỏi. Lộc có tam hội, Tai có ngũ kỳ.
(Lập năm là Tôn, mượn Thai, Nguyệt, Nhật, Thời lấy thứ. Đại vận là tôn, mượn thời kỳ 6 tuổi, tiểu vận làm thứ. Nếu gặp bản mệnh cùng đại vận đất đức hợp ở kiến vượng, kỳ tuế vận, nhật, thời hung mà không thể là hung. Đại vận cùng bản mệnh tranh chiến ở đất tử tù, kỳ tuế vận nhật thời, cát mà không đủ là cứu. Cho nên viết vậy. Lộc có tam hội, là trường sinh, đế vượng, khố vậy, là đất rất cát. Tai có ngũ kỳ, là suy, bệnh, tử, bại, tuyệt, là đất rất hung. Bởi vì nói Lộc là đối xứng với Tai, lộc không phải là can lộc, nên linh hoạt mà xem. Học giả ngày nay, cứ đưa ra lấy tam hợp, mà lấy kim phùng Tị Dậu Sửu, mộc cư Hợi Mão Mùi, hỏa gặp Dần Ngọ Tuất, thủy gặp Thân Tý Thìn, thì cho là lộc có tam hội, không phải vậy. Từ viết: Lấy nội ngoại tam nguyên trong bát tự, có đắc lực nhất là tôn, tức là dụng thần vậy. Dụng thần không thể tổn thương, như có tổn thương, thì cho dù cát ở vị trí khác, cũng không thể cứu. Nếu năm tháng ngày giờ, nội ngoại tam nguyên tuy có khắc chiến, nhưng không tổn ở tôn, tức là phùng tai tự khỏi vậy. Lại cấp thiết chỗ tiêu tức tổn thần, chủ cát hung ở đâu, hại mệnh thì thân tai, hại thê thì thê tai, hại quan thì quan mất. Nói có lý, nhưng chữ Tôn Ti ít hiểu. )

Hung nhiều cát ít, loại như hào đầu Đại Quá; phúc thiển họa thâm, như hào 5 Đồng Nhân.
(Mệnh hung nhiều cát ít, là hưu tù vô khí, cho nên không hợp ở chỗ dụng. Có loại hào đầu Đại Quá, là nói Hào từ, hào sơ lục, rõ ràng là mượn dùng, không có. Lục âm nhu, mới không có Quá Nhân, hào đầu ở dưới, không phải lúc đầy hứa hẹn, có thể ở ẩn mà trốn tránh, đạo cảnh giác người cẩn thận vậy. Phu Tử viết: Thận, là tư thuật vậy, ngày xưa, không có chỗ nào mất vậy. Chính là ý này vậy. Mệnh phúc thiển họa thâm, là lấy ngũ hành tương khắc mà vô khí, cũng không nên mưu vọng tiến dụng, thí dụ như hào 5 ở trong quẻ Đồng Nhân nói: Hào Đồng Nhân khóc trước, mà sau cười, đại sư gặp nhau khắc. 《 Tượng 》 viết: Trước Đồng Nhân, lấy thẳng giữa vậy. Có thể thấy đường thẳng khó đi, ý là cảnh giới con người lấy từ khắc vậy. )

Nghe hỉ không hỉ, là Lục Giáp Khuy (thiếu) Doanh (đầy); lúc lo không lo, dựa vào ngũ hành cứu trợ.
(Nghe hỉ, là nói lấy đầy. Doanh, là ích vậy. Không hỉ, là nói lấy thiếu. Khuy, là tổn vậy. Đạo Tổn Ích, là từ Lục Giáp mà suy, hoặc lấy Không Vong là thần thiên địa hư thoát. Mệnh lục dương sợ ở cung dương, mệnh lục âm sợ ở cung âm, tuế vận hành niên gặp Lộc Mã Quý nhân, mà ở Không Vong, ngũ hành khuy doanh chế lẫn nhau, gọi là nghe hỉ không hỉ vậy. Lúc lo không lo, là ngũ hành ở xứ hưu phế phùng sinh, như mộc được Giáp Thân Quý Tị vậy. Giả như người Mậu Thân được Đinh Dậu, hung bạo đánh người tự hình. Đinh Dậu là hỏa tử, hóa hoả là thổ, đạo Tử truyền Mẫu, người Giáp Dần đến vận Thân, xung hình phản ngâm, Lộc Mã đều tuyệt, là chỗ chế vượng kim, độn thấy Nhâm Thân là can cứu. Thần thuật nói: Tuyệt xứ phùng phụ mẫu, biến tai thành phúc là vậy. Tôi thấy ngũ hành Lục Giáp, nói hoặc nguyên mệnh bát tự có khuy, có doanh, có cứu, có trợ, hoặc hành vận lưu niên có khuy, có doanh, có cứu, có trợ, không thể chấp định. Khuy Doanh, là nói hoặc cát hoặc hung vậy. Cứu trợ, là nói chế hung phù cát vậy.)

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Bát Cô lâm ở Ngũ Mộ, Tuất Mùi đông hành; Lục Hư ở dưới Không Vong, tự Càn nam thủ.
(Trong tuần Giáp Tý, Tuất Hợi là Không Vong, đối xung là Lục Hư, là Thìn Tị vậy. Lấy ví dụ Tuất Hợi là vị trí Càn kim, ở cực Tây góc Bắc, Giáp Tuất Giáp Thân, tự thủ cung Càn, cho nên Dần Thân Tị Hợi đất Tứ Cô, Thìn Tuất Sửu Mùi là đất Ngũ Mộ, hướng Tuất Mùi mà đông hành, thuận Không Vong mà nghịch chuyển. Hoặc lấy Bát Cô, trừ Thìn Tuất Sửu Mùi là ngũ hành mộ, còn lại thần Bát Âm, Cô Hư, Cô lâm ở mộ. Như người Thân Dậu, Cô Thần ở Hợi, còn Quả Tú ở Mùi. Ngũ hành Mộ, gửi ở trong 4 khí, khí đều theo từ Nguyệt kiến mà ra. Tuất và Mùi hành đông, là mộ của hỏa mộc, mộc sinh từ Hợi, hỏa khởi từ Dần, khí hỏa mộc, đông hành đều thủ từ Dần, mà cuối cùng tàng ở Tuất Mùi mộ. Như người sinh Ất Sửu, lấy Hợi là Lục Âm chính Không Vong, Hợi xung Tị là Lục Hư, Hợi là quẻ Càn, Tị là cung Tốn. Tị là thần thủ nam phương, cho nên nói Lục Hư ở dưới Không Vong. Cô đã đông hành, Hư là tây hồi, cả hai thường đối nhau. Chỗ này tổng luận tên thần sát ở trong 12 chi, thuận đạo xoay vòng, Cô Hư Không Vong Ngũ Mộ, là tối yếu trong nhân mệnh vậy.)

Thiên Nguyên nhất khí, định hầu bá thiên vinh; Chi làm Nhân nguyên, vận thương đồ nhi được mất.
(Lấy Can là Lộc, cho nên Thiên Nguyên thanh tú, cát tướng gia lâm, người gặp là quý vậy. Lấy chi là Mệnh, cho nên chi nguyên thuần túy, tứ trụ tỉ hòa, người gặp là phú vậy. Chỗ này là thiên địa phân chia, can chi phân biệt vậy. Thiên Nguyên nhất khí, không phải như nhau, nay chỗ đàm mệnh, lấy tượng thiên can, cho nên nói Nhất khí. Là nói chỗ Thiên can lộc vậy. Lộc cần kèm theo Thiên Đức Quan Ấn Quý Thực, ngũ hành trong tứ trụ, kiêm đắc khí sinh vượng là rất quý. Xưa nhà Thương, tường lấy Nhân nguyên. Định tài vật được mất, phải xem có khí, vô khí, phải xét tiến thần, thoái thần, cho nên đoạn văn dưới nói: Tài mệnh hữu khí. Tài tuyệt mệnh suy. Còn nói đối với định vận, định là quyết định, vận là lưu chuyển, nghĩa đều có chỗ lấy vậy. )

Nếu xem Tài mệnh hữu khí, phùng bối lộc mà không bần; nếu cũng Tài tuyệt mệnh suy, dẫu có Kiến Lộc mà không phú.

(Sinh mệnh con người lấy Tài mệnh làm chủ, ngũ hành chỗ khắc, gọi là TÀI. Hữu khí, ;à nói Tài và mệnh đều được ở đất ngũ hành sinh vượng, tuy tứ trụ bối lộc, khiến cho không có Quan, cũng không đến nỗi bần tiện. Nếu mệnh và Tài đều vô khí, tuy được tháng Kiến Lộc, có khiến cho tiểu quan, cũng không thể dến chỗ phú quý. Giả như Canh Dần mộc khắc Bính Tuất thổ là Tài, thổ vượng ở Tuất, thân mệnh nhị mộc đến đông nam, Tuất tuy bối Thân Canh Lộc, vì Tài mệnh có khí, cho nên không bần. Lại như người sinh Giáp Thìn hoả, được Bính Dần hỏa, lấy kim là Tài, tuyệt ở Dần, Thìn thổ đến Dần là mệnh quỷ, kiêm thông Không Vong, là Tài tuyệt mệnh suy, tuy nguyệt kiến tọa Lộc, vì Tài mệnh vô khí, cho nên không phú. Trước có nói lấy can làm lộc, hướng bối định kỳ bần phú, bởi vì chỉ 2 cung Tài Mệnh, đều nên vượng địa. Không những bát tự, hành vận cũng vậy. Từ nói: Vì Tài Mệnh hữu khí, như Giáp Ất kiến tháng Tị Ngọ, Kiến Lộc bất phú, như Giáp Ất sinh tháng Dần Mão. Nên hợp lại xem. )

Nếu là Thân vượng Quỷ tuyệt. Tuy phá mệnh mà sống thọ; Quỷ vượng Thân suy, phùng kiến mệnh mà yểu thọ.
(Phá mệnh sống thọ, là lấy bản mệnh vượng cung phùng Quỷ tuyệt vậy. Như hỏa ở cung Tị gặp thủy, mộc cư đất Dần phùng kim, thổ hướng đất Thân gặp mộc, kim quy về Hợi phùng hỏa. Phùng kiến mệnh mà yểu thọ, là lấy bản mệnh ở đất suy mà gặp Quỷ vượng vậy. Vì thổ đến trong Dần thấy mộc, hỏa quy về đất Hợi phùng thủy, kim ở đất Tị gặp hỏa, hỏa cư ở Thân gặp kim, đều thủ lấy nạp âm. Lý ngũ hành thụ chế là yểu, chế vật là thọ. Xưa nói: Kiến mệnh chủ thọ dài, phá mệnh chủ yểu thương. Cho nên Trúc Luân Kinh nói: Kiến mệnh chưa hẳn thọ dài, phá mệnh chưa hẳn yểu thọ. Chỗ này là do Lạc Lục Tử tiêu tức vậy. Thiên Nguyên luận quý, Nhân nguyên luận phú, Tài Mệnh luận bần phú, Thân Quỷ luận thọ yểu, đều chỉ ra một lần mà nói vậy. )

Bối Lộc trục Mã, thủ đường cùng mà thê lương; Lộc Mã đồng hương, không Tam Thai cũng Bát Tọa.
( Chú thích: Tam Thai 三台 sao Tam-thai. Sách thiên văn nói sao ấy như ngôi Tam-công 三公, cho nên trong thư từ tôn ai cũng gọi là thai. Như gọi quan trên là hiến thai 憲台, gọi quan phủ huyện là phụ thai 父台, gọi các người trên là thai tiền 台前 đều là theo cái nghĩa đó; Bát toạ cũng vậy, ý chỉ quan lớn)
(Lộc, là tước lộc vậy. , là xe ngựa vậy. Nhân mệnh coi trọng Lộc Mã, cho nên trước có nói, Lộc Mã đều có thể dẫn đến phú quý. Như Lộc bối (quay lưng) mà đi, Mã trục (xua đuổi) mà tán, cả hai đều mất, cho nên lấy đường cùng mà thê lương. Bối, như âm dương nghịch nhau, không phải cái gọi là Hướng vậy. Trục, như rượt đuổi tan rã, không phải cái gọi là Truy tìm vậy. Như người Quý Hợi gặp tháng giêng Giáp Dần, Quý lộc ở Tý, lấy Dần là bối; Lộc Mã ở Tị, lấy Dần hình; trước vì bị hình mà đuổi ngựa đi, sau vì bối mà không thể cập lộc, Mã ở phía trước, Lộc ở phía sau, đuổi ngựa về phía trước, lộc lại không đến, chờ lộc ở phía sau, ngựa lại xa dần, chỗ này đúng là xung Lộc cản Mã trái ngược với Lộc Mã đồng hương. Dụng nhật can độn Lộc, can giờ độn Mã, vốn tìm Ngũ Tý độn, thì có thể biết. Giả như người Canh Ngọ, được ngày Nhâm Thìn, giờ Đinh Mùi, thì Đinh Nhâm lấy Canh Tý độn đến Mậu Thân, bởi vì Canh lộc Ngọ mã cùng ở trên Thân, cùng bản mệnh gặp nhau càng tốt. Lại như người Giáp Thân, tháng Đinh Sửu, ngày Kỷ Hợi, giờ Bính Dần, giờ sinh ở trên Đế Tọa, hội cùng Lộc Mã kiêm Giáp Thân, Kỷ Hợi, Bính Dần đều nhận ngũ hành thanh vượng sinh khí, cho nên ứng gặp về già có phi thường, cho nên vị trí đến Tam Công, thọ hơn 70 tuổi. Từ nói: Lấy Lộc là Quan, Mã là Tài, kiến Thương quan là Bối Lộc, kiến Tỉ Kiếp là Trục Mã. Như người Giáp sinh mùa xuân, mùa hạ, Thiên Nguyên lại mang Bính Đinh, Giáp Ất, hoặc Hợi Mão Mùi đồng hương. Là các ngày Nhâm Ngọ, Quý Tị, ví dụ trụ có Đinh Kỷ Bính Tuất quy phùng Sửu Tị, hợp lại cùng xem. )

Quan sùng vị hiển, định biết đất giáp lộc. Tiểu Doanh đại khuy, sợ e rằng ở đất Kiếp tài.
(Giáp lộc tức Củng lộc, như Quý Sửu được Quý Hợi vậy. Kiếp, là Kiếp Sát, như Đinh Sửu gặp năm Bính Dần, thủy lấy hoả khắc là Tài, Bính Dần là hoả tự sinh, có thể gọi là Tiểu doanh. Người Sửu lấy Cô Kiếp ở Dần, Sửu thổ bị Dần mộc chế, là Tài hóa Quỷ, vì vậy gọi là Đại Khuy. Tam mệnh lấy Tài vượng là tốt, người lấy có Tài là phúc. Nếu gặp Kiếp địa, cho dù Lộc mệnh có 1, 2 chỗ tốt, cũng khó tránh lỗi nặng. Từ luận: Giáp lộc, như ngày Quý Sửu giờ Quý Hợi, không thể trên bản lộc là thủ tuế hợp hóa hại nhau, càng không thể khắc phá thiên can, xung động địa chi, là giáp quý không được, quý khí chạy mất, cho nên đất phúc tụ, không thể tổn thương; đất họa tụ, không thể không bại. Ngũ can dương thấy ngũ can âm là Kiếp tài, ngũ can âm thấy ngũ can dương là Bại tài. Kiếp hung ở bại, giải thích rất hay. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Tháng sinh mang Lộc, nhập thế tôn cư hiển hách; trọng phạm Kỳ Nghi, kín đáo ôm khí xuất bầy.
(Vương Đình Quang giải thích: Tháng sinh mang Lộc, lấy tháng sinh là nguyên vận, mang Thiên Lộc khí sinh vượng, thuận hành vận, chủ cả đời ôn hậu, là phúc nhiều nhất. Đưa ra tháng sinh và ngày sinh, giờ sinh thì có thể biết vậy, ngũ hành tứ trụ cùng mang lộc lẫn nhau, kiêm nhận khí sinh vượng là quý.
Oánh Hòa Thượng giải thích: Mệnh mộc lộc nguyên cùng tháng sinh cùng tìm ngày sử dụng. Như người Canh Tý, tháng Giáp Thân, nếu được ngày Ất Canh, là tiện dụng Bính Đinh chống đỡ Giáp Thân vậy.
Từ Tử Bình giải: Người Giáp Ất, sinh mùa thu; người Bính Đinh, sinh mùa đông; tức là chính khí Quan tinh, tháng sinh mang, thì khí phụ tử là cận lộc quý, lại cần bên trong ngày sinh, thiên nguyên tự vượng, giờ sinh không ở hưu phế, hành niên lại ở đất lộc, là tháng sinh mang lộc.
Tôi thấy: Ngày Mậu Kỷ phùng tháng Ất Tị, ngày Nhâm gặp tháng Kỷ Hợi, ngày Quý phùng tháng Mậu Tý, can chi mang Quan lộc, hoặc chỗ năm ngày giờ tọa chi, được tọa can tháng, ví dụ lấy ngày Nhâm Dần gặp tháng Giáp Thìn, ngày Tân Dậu gặp tháng Tân Tị, vào làm quan Định tôn cư hiển hách. Trọng phạm Kỳ Nghi, theo Vương Đình Quang giải thích: Ất Bính Đinh là Tam Kỳ, Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý là Lục Nghi, thập can dụng 9, mà độn tới Giáp thì gọi là Nghi. Như người Ất Tị, gặp tháng Tân Tị, ngày Tân là Nghi, Ất là Kỳ. Ất lấy Tân Tị là sinh thành Quan, lại tọa Quan lộc, trường sinh, Học Đường, 2 Tị chính là Trọng phạm Kỳ Nghi. Kỳ Nghi, là âm dương thiên địa ngẫu hợp, khí anh tú vậy. Oánh Hòa Thượng thì lấy Giáp Mậu Canh Ất Bính Đinh, làm phương pháp Thiên Địa Nhị Nghi. Lý Đồng thì lấy Tý gia Dần, đếm thuận đến năm tháng thấy bản mệnh. Tôi thì xem Độn Giáp luận Tam Kỳ Lục Nghi, Vương Đình Quang giải thích là đúng. Từ đây trờ lên là luận căn cơ quý mệnh; từ đây trở xuống, là nói trong vận hội ngộ. Ở dưới có nói rõ )

Âm nam dương nữ, thời xem năm xuất nhập; âm nữ dương nam, lại xem Tuế Nguyên thần.
(Phân biệt nam nữ, nam tôn nữ ti. Dương vị bản nam, âm vị bản nữ, nay nói là âm nam dương nữ, là mất thứ tự vậy. Đã mất thứ tự, thì vận là có thuận nghịch. Năm đại vận xuất nhập, ứng gọi điều bất trắc. Dương nam âm nữ, đều đắc kỳ nghi. Năm đại vận thiên biến, lại xem loại Nguyên Thần sát, cho nên là nói cát hung, sinh ở động là vậy. Hành vận là tối yếu của tam mệnh, Từ Tử Bình giải thích chỗ này rất rõ. Nguyên Thần, là thần lúc sinh vốn là có cho Quan Ấn. Trước có nói năm xuất nhập, chỗ này là luận Tuế Nguyên Thần, lý không có hai. Về phần luận tiết khí thiển thâm (nông sâu), Tài Quan hướng bối, chỗ tiền nhân đều không có truyền vậy. )

Cùng tương phùng sinh địa, nêu thoái thân mà ẩn tránh. Hung hội cát hội, phục ngâm phản ngâm, Âm thác Dương sai, thiên xung địa kích.
(Chỗ này nói ở trong vận chỗ gặp cát hung, họa phúc, sinh địa tương phùng. Oánh Hòa Thượng thì lấy bản niên trường sinh bị gặp Quỷ vượng, như kim phùng Ất Tị hỏa, thổ gặp Canh Thân mộc, hỏa thấy Giáp Dần thủy, mộc phùng Tân Hợi kim. Vương Đình Quang thì lấy đạo ngũ hành lần lượt có cha con, cha khoẻ thì con nhỏ, con cường thì cha suy, con lại cùng xứ, là con đã đến vậy, cha đã thành công, tự nên thoái lui, là biết nó sinh ta là Hưu, là vị trí con thay cha vậy.

《 Dịch 》nói: Chấn là trưởng nam dụng sự, còn Càn là cha lui về Tây Bắc. Cũng là lý này. Từ Tử Bình thì lấy người sinh Canh Tân, đến vận Thân Dậu, lấy hỏa là Quan lộc, hỏa đến Thân Dậu là bệnh tử; lấy mộc là Tài Bạch, mộc đến Thân Dậu là tử tuyệt; Quan Tài đều không có, tức là nói Kiến Lộc không phú vậy. Sợ không phải là nghĩa câu phú. Hành niên tuế vận Lộc Mã, 5 xứ đều ở đất sinh vượng, cộng lại đều phù nguyên mệnh của ta, gọi là Cát hội; cộng lại mà khắc nguyên mệnh của ta, gọi là Hung hội. Phục ngâm, là đại vận cùng nguyên mệnh giống nhau, Phản ngâm, là đại vận cùng nguyên mệnh trái nghịch nhau. Lấy âm gặp âm viết là Thác, lấy dương gặp Dương viết là Sai. Nhân mệnh có âm dương bác tạp, vận người có âm dương giao soa, nguyên mệnh cùng vận ở đông nam, mà gặp Thái Tuế ở tây bắc, gọi là Thiên xung. Nguyên mệnh cùng vận ở tây bắc, mà gặp Thái Tuế ở đông nam, gọi là Địa kích. Cát hội Hung hội, là nói vận gặp phục ngâm phản ngâm, âm thác dương sai, thiên xung địa kích, trong đó cũng có cát hội, hung hội vị tất đều là hung vậy. Như mệnh Giáp Tý kim, phục ngâm, Canh Tý thổ là cát, Mậu Tý hỏa là hung. Phản ngâm, Mậu Ngọ hỏa là hung, Canh Ngọ thổ là cát. Tây bắc xung đông nam, chủ động thay đổi xuất nhập, là trong xung ngoài vậy. Đông nam xung tây bắc, tuy xung mà không động, là ngoài xung trong vậy. Gặp chỗ này, đều chủ bất ninh, trong đó cát hung cùng tồn tại. Âm Dương thác sai, thì là thuần âm thuần dương, không sinh không thành, chỗ lấy nhiều Kỳ (lẻ) mà không có Ngẫu (chẵn). Hoặc viết: Thiên xung địa kích, chính là thiên can địa chi, đại vận cùng nguyên mệnh xung kích nhau, không phải chuyên chỉ đất ngũ hành âm dương tuyệt diệt vậy. Tuế vận gặp chỗ này, lại thêm đến phản, phục ngâm, thì có thể biết là hội hung. Tứ trụ bao gồm cả trên, dẫu quý mà không thọ. )

Hoặc phùng Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Địa Võng, Thiên La, Tam nguyên Cửu cung, phúc đạt thành khánh, họa cũng nguy nghi, phù này cấp tốc, ức là trì trệ.
(Chỗ này nói hành vận chỗ gặp đúng thần vậy. Trước Mệnh 4 thần viết là Tứ Sát, chính là Dần Thân Tị Hợi tứ xung Kiếp Sát vậy. Trước Mệnh 5 thần viết là Ngũ Quỷ, chính là người Tý thấy Thìn, người Hợi thấy Mão vậy. Hoặc chỉ Tứ Sát là Thìn Tuất Sửu Mùi, Ngũ Quỷ là ngũ hành gặp khắc. Lục Hại, ví dụ Dần Tị. Thất Thương, loại thần Vong Sát vậy. Hoặc lấy Nhất Cát, Nhị Nghi, Tam Sinh, Tứ Ngao, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Bát Nan, Cửu Ách, bên trong các loại thần sát đều là tên Tam Nguyên Cửu Cung, tuế vận gặp, cho nên đa số là hung. Nếu nguyên mệnh tam nguyên cửu cung, ngũ hành sinh vượng là đạt phúc, ở trên có lấy thành cát khánh, trước lấy ngũ hành là thần sát vậy. Nếu tam nguyên cửu cung, ngũ hành tứ trụ, ở đất suy bại, tuế vận lại gặp đúng nhiều hung, chỗ nói là Họa cũng nguy nghi vậy! Sát phù chính là cấp tốc thành tai, phúc ức chính là khánh hỉ trì trệ. Tôi lấy hai câu cùng kiêm nói họa phúc, phù họa thì cấp tốc, ức phúc thì chậm, phù phúc thì cấp tốc, ức họa thì chậm. Từ nói: Nguyên mệnh phạm Thìn Tuất Sửu Mùi. Đại vận lại hành đến chỗ trên, gọi là Tứ Sát. Đại vận can là Quỷ chế, Tài khắc Quan Ấn, cùng Thái Tuế đồng gọi là Ngũ Quỷ. Người sinh Sửu Mùi, trong trụ vốn có Sửu Mùi, đại vận thêm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, lại gặp Thái Tuế ở Tý Ngọ Mão Dậu, gọi là Lục Hại. Trong vận gặp Thất Sát; gọi là Thất Thương, như người Giáp Ất, dụng Canh Tân là Quan, vận ở nam phương, hoặc phùng Dần Ngọ Tuất Tị và Mùi, là Thái tuế vậy. Tứ Sát khinh, Ngũ Quỷ trọng; Lục Hại khinh, Thất Thương trọng; vận phùng thì nhẹ, tuế gặp thì nặng. Địa Võng, Thiên La, như người Tuất không được thấy Hợi, người Hợi không được thấy Tuất, gọi là Thiên La; người Thìn không thấy được Tị, người Tị không thấy được Thìn, gọi là chân Địa Võng. Trong đó lại phân ra Hợi kiến Tuất, Thìn kiến Tị, là càng nặng, nếu gặp, tai bệnh liên miên. Đại phàm suy đoán vận, phải xem Thái tuế năm sinh cùng vận sinh khắc, sinh khắc đã định, sau đó tham khảo các loại thần sát, thì cát hung không có không nghiệm vậy. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Trải qua quý địa mà đợi thời, gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh. Nếu tới nhân Bì Mã liệt, vẫn còn nhờ đất Tài vượng.
(Mạnh Tử nói: Tuy có căn cơ, không bằng đợi thời. Nếu vận nhập đất quý thần, phù hợp số đợi thời, thì có phúc khánh, tối kỵ Tỉ kiên vậy. Như Tỉ kiên cùng hành vận, tất có cạnh tranh, nhược ẩn cường, nói lên xuống ở thần sát cát hung; nếu Lộc Mã khí suy, nhưng được Lộc tài, Mệnh tài, vượng tướng, cũng có thể phù trì. Hoặc viết: Tỉ kiên cạnh tranh, như 2 Canh đoạt 1 Đinh, 2 Bính ăn 1 Mậu, bửa chia phúc khí, như vậy thì thị phi xen lẫn nhau. Nhân Bì Mã liệt, Bản mệnh viết: Nhân nguyên kiêm Dịch Mã, đều ở đất ngũ hành suy bại vô khí, không vì tai, lấy Tài vượng. Như mệnh Mậu Ngọ hỏa, Dịch Mã ở Thân, trong Thân có kim vượng hỏa suy vậy.

Từ giải thích: Trải qua quý địa mà đợi thời, như người sinh Nhâm Thìn, Quý Tị thuỷ, dụng thổ là Quan lộc, dụng hỏa là Tài bạch, mà tháng sinh không cư ở mùa hạ, không ở tứ quý, tuy trải qua quý địa, chủ yếu vẫn đợi bốn mùa, vốn có vốn không vậy. Gặp Tỉ kiên mà cạnh tranh, như Nhâm Thìn, Quý Tị thuỷ, lại ở tháng mùa hạ, tứ quý, được thời Quan lộc, đại vận lại ở ranh giới hỏa thổ, lại gặp Thái tuế là năm Nhâm Quý. Hợi Tý Sửu cũng vậy. Hoặc là xung hình, hoặc là phá hại, chủ chết yểu. Nhân bì, là nhân nguyên suy kiệt vậy. Mã liệt, là chỗ hợp thần Mã suy nhược vậy. Như người sinh Giáp Ngọ, vận hành tây phương, Ngọ là nhân nguyên thuộc hỏa, hỏa đến tây phương là tử tuyệt, gọi là Nhân Bì vậy. Giáp lấy Kỷ là Tài, trong Ngọ có Kỷ thổ, Kỷ đến tây phương, cũng tự suy bại, gọi là Mã Liệt vậy. Ngọ tuy kiệt sức, vẫn dựa vào tây phương kim vượng là Tài, thu kim chứa Nhâm Quý, cũng có thể cùng Kỷ phá Quỷ sinh Tài, thuyết này là phù hợp. )

Hoặc là Tài vượng Lộc suy, kiến Mã sao trốn Yểm xung, tuế lâm trên không là tai, là do năm đăng nên nhận phúc.
(Khắc gọi là Tài, Ngụ gọi là Lộc, Cưỡi gọi là Mã. Mã vốn là phù thân, Lộc là nguồn dưỡng mệnh. Lộc lâm quý và Thiên Quan, Mã vận Tài mà nhận phúc. Lộc Tài Dịch Mã đều kiêm đủ, thì phú quý lưỡng toàn; có thiên là thứ. Hoặc Thiên Lộc tuy suy, mà Thân Tài vẫn vượng, kiêm gặp Dịch Mã đến cưỡi, dẫu cho yểm phục tuế vận xung kích, vẫn không là tai hoạ. Huống chi phía sau tuế vận, lại ở ngũ hành sinh vượng, hội hợp xứ phong đăng, cho nên hợp nhận nhiều phúc vậy. Yểm là Phục ngâm, Xung là Phản ngâm vậy. Giả như sinh Quý Hợi, gặp tuế Ất Tị, gặp lộc, thủy tuy tuyệt ở Tị, mà người lấy thủy khắc hỏa là Tài, hỏa vượng ở Tị, kiêm Tị cưỡi trên Mã, tuy Tị Hợi tương xung, lâm trên phản ngâm, lấy thân Tài vượng, không là tai hoạ. Nếu tuế vận không đến tương xung, ở đất tam hợp, lục hợp, ngũ hành sinh vượng, lại phùng đối diện gặp Mã, có thể nói được mùa niên tuế, cho nên thủ nhận được phúc. Từ viết: Chổ này cùng ý trước như nhau, mà khác lý vậy. Như người Bính Ngọ, vận đến tây phương, tuy Tài vượng mà Lộc suy, hạ nguyên kiến Mã là trợ, hàm nói ở trong có Tân hợp Bính, thì không sợ yểm xung, chỗ này cùng trung hạ cùng hưng long là không có khác biệt. Trước có nói Tài vận yểm xung, vật tụ không kỵ, chỗ này luận vị trí Tuế lâm Vận, cũng không thể liền nói hung hoạ. Đại Tuế là chủ của tạo hóa, đứng đầu trăm sát, đến lâm là vận, nhiều hung ít cát. Nếu trong ngoài tam nguyên, ngũ hành Quan Ấn hữu dụng, cũng có thể lấy lợi kiến đại nhân mà thành hội cát. Tài bạch hữu dụng, cũng có thể vì chỗ tài bạch mà người phát tài. Còn như ngày sinh là Tị Ngọ, đại vận là Canh Ngọ, tuế là Canh Ngọ, chỗ này là nói tuế vận cùng lâm, cũng là hội cát. Năm sau giao Tân Mùi, kỳ khí không khác, Quan Ấn Tài bạch hữu dụng, nhận phúc là không sai vậy. )

Đại cát sinh phùng tiểu cát, lại thọ lâu dài; Thiên Cương vận đến Thiên Khôi, ký sinh thêm thọ.
(Sửu là Đại cát, Mùi là Tiểu cát, như người sinh ngày Quý Mùi, hành Sửu vận, hoặc người sinh ngày Đinh Sửu, hành Mùi vận, không được nói là phản ngâm, đều nói là sinh khí. Quý thụ khí ở Tị mà thành hình ở Mùi, Đinh thụ khí ở Hợi mà thành hình ở Sửu, cho nên viết là Sinh phùng, như Lục Nhâm phát dụng, Đinh khóa ở Mùi, Quý ở Sửu, cũng là ý này vậy. Sửu Mùi là hội gặp âm dương, chỗ lâm của Thiên Ất quý thần, Chủ cùng Bản gặp thì có thọ dài. Thìn là Thiên Cương, Tuất là Thiên Khôi, như người sinh Canh Tuất, hành vận Thìn, hoặc người sinh Giáp Thìn, hành vận Tuất, không gọi là phản ngâm, Canh thụ khí ở Dần, mà thành hình ở Thìn, Giáp thụ khí ở Thân, mà thành hình ở Tuất, đều là sinh khí.
《 Quỷ Cốc Tử 》 nói: Cương trong có Ất, Khôi trong có Tân là vậy. Trước có nói Sinh phùng, sau nói nghĩa ký sinh, không khác biệt vậy.
Hoặc viết: thử hậu bát tuần, tái minh phản ngâm cát hung, vô cố tất chi nghĩa, giả như mệnh nam Ất Sửu kim, sinh ở tháng 6, độn thấy Quý Mùi mộc, tuy bản mệnh cùng tháng sinh tương khắc, hợp chủ yểu thương, Ất Sửu nạp âm lại là kim khắc Quý Mùi nạp âm mộc, lại thọ lâu.
Ca nói: Liền đem tháng sinh dụng là Thân, trở lại lấy nạp âm làm mệnh. Thân suy khắc mệnh là đoản thọ, mệnh lại khắc thân là trường thọ vậy. Giả sử nam mệnh Mậu Thìn dương, sinh ở tháng 3, tính 5 tuổi khởi vận. Thuận hành 56, vận đến Nhâm Tuất nạp âm là thủy, đến sinh Mậu Thìn mộc, tháng 3 Thiên Nguyệt Đức lại đều ở Nhâm, vừa ở trên Tuất vừa sinh mộc, cho nên viết Ký sinh thêm thọ. Oánh Hòa Thượng viết: 4 tiết dưới đây, cùng dụng chân Ấn, mới được nói rõ. Ất Sửu kim Ấn, Quý Mùi mộc Ấn, Nhâm Thìn thủy Ấn, Giáp Tuất hỏa Ấn, Mậu Thìn thổ Ấn. Trường sinh thêm thọ, riêng Ký và Phản, trừ 5 can này, nhưng không có biết vậy. Bởi vì trong Sửu có Ất mộc, trong Mùi có Quý thủy, Quý thủy sinh Ất mộc, tăng trưởng Lộc nguyên, lại thọ kéo dài, hẳn là vậy. Trong Tuất có Giáp, trong Thìn có Nhâm, Nhâm thủy sinh Giáp mộc, nối tiếp Bính hỏa, cho nên viết vận Thiên Cương đến Thiên Khôi, Ký sinh thêm thọ. Chủ yếu Thập can là Lộc, định nhân mệnh thọ vậy. )

Theo Khôi chống đỡ sao Thương Long, Tài tự Thiên lai; Thái xung lâm đất Ngang trụ, nhân nguyên có hại.
(Dậu là đất Ngang trụ, theo Khôi Cương vậy. Mão viết là sao Thương Long, là đại xung vậy. Chi nguyên thủ Tài, nay nói là Thiên lai, bởi vì trên Dậu có Tân, trong Mão có Ất, Tân kim chế Ất mộc, cho nên nói Tài tự thiên lai. Lấy Dậu kim khắc Mão mộc, Ất mộc sợ chỗ Tân kim, Lộc đã bị thương, nhân nguyên bị khắc, nếu như người Dậu gặp Mão là cát, người Mão gặp Dậu là hung. Vị liệt tôn ti, là đoán cương nhu vậy. Từ viết: Thương Long thuộc Thìn, người sinh Dậu gặp Thìn, là trong Dậu có Tân kim, khắc Ất mộc ở trong Thìn là Tài, dụng bên trong Thiên nguyên là Tài vậy. Người Mão đến vận Dậu, kim khắc mộc mà lại tương hình, chi làm nhân nguyên, cho nên viết có hại. Hại, là Thất Sát không phạm hình xung khắc chế, cũng là thiên âm thiên dương vậy. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Kim Lộc cùng ở chính thủ, Canh trọng Tân khinh; người mộc khốn ở đất kim, Dần thâm Mão thiển.
(Âm cực sinh dương, Dương cực sinh âm, lý âm dương tự nhiên vậy. Dương kim sinh ở Tị, mà tử ở Tý, tuyệt ở Dần; Âm kim sinh ở Tý, mà tử ở Tị, tuyệt ở Mão. Chính tử chính sinh gọi là Trọng, thiên sinh thiên tử gọi là Khinh. Thứ là lấy Dương mộc sinh ở Hợi tuyệt ở Thân, Âm mộc sinh ở Ngọ tuyệt ở Dậu. Dương mộc thì Thân thâm còn Dậu thiển, Âm mộc thì Thân thiển mà Dậu thâm. Bởi vì Dần Mão chỉ tình của bầy mộc, Canh Tân đều thuộc bầy kim, Thân là là đất thủy sinh, mộc viết là Khốn; Dần là cung sinh hỏa, này nói là Cùng vậy. Có nói: Bính Tân có hợp, cho nên Tân khinh; Ất Canh có hợp, cho nên Mão thiển. )

Diệu ở chỗ biết thông biến, nói thiếu do thần; thầy mù mờ mịt với âm thanh cung đàn, Luật Lữ hiếm khó mà hài hoà vậy.
(Phàm vận mệnh, cát hung họa phúc, như chỗ nói ở trên, phú nói rất sơ lược. Diệu là ở biết kỳ thông biến, chữ thơ phú tuy thiếu, mà diệu lý ứng như thần, nếu như không thể thông biến, ví như thầy mù mờ mịt với âm thanh cung đàn, luật lữ hiếm khó hài hòa vậy.)

Canh Tân lâm với Giáp Ất, Quân tử cho phép cầu quan; người bắc vận ở nam phương, mậu dịch nhận kỳ hậu lợi.
(Kim mộc có lý hợp nhau, thủy hỏa có đạo ký tế (cứu nhau), cho nên đặc biệt đưa ra mà nói: Canh Tân lâm với Giáp Ất, thì còn lại 8 can có thể biết vậy. Người Bắc vận ở Nam phương, thì có thể biết ở đông tây vậy. Nói Quân tử kiến tiểu nhân thì không phải, nói người bắc cần phương Hợi Tý là đúng. Giáp lấy Tân là Quan, Ất lấy Canh là Quan, như tuế vận Canh Tân, đến lâm người Giáp Ất, cho nên viết: Quân tử có thể cầu Quan, ở tiểu nhân lại lấy là Quỷ vậy. Hợi Tý thuỷ ở bắc phương, Tị Ngọ hoả ở nam phương, lấy thủy hành vận đến hỏa, ta khắc là Tài, cho nên mua bán sẽ nhận được nhiều lợi. Hoặc nói vị trí Nhâm Quý, quẻ thuộc Khảm, vị trí Bính Đinh, thuộc quẻ Ly, thủy quy hỏa địa, vận đến đất Tài. Không biết Nhâm Quý là Lộc, Tị Ngọ là Mệnh, can chi không nhập nhau, như Nhâm Quý được Bính Đinh, chỉ có thể nói Lộc Tài mà thôi, không thể nói là mua bán làm ăn vậy. Đàm mệnh phải cần nên phân ra Lộc Mệnh Thân. )

Thấy sáng vui mà chiều khóc, là thịnh hỏa viêm dương; xem họa phúc xa chậm, nguyên nhân nhiều là do thủy thổ.
(Chỗ này luận tính chất ngũ hành, minh họa phúc nhanh hay chậm vậy. Tính hỏa hung bạo mà nhiều tổn thương, cho nên khoan mộc mà khói bay, đẽo đá mà phát sáng, sáng vui chiều khóc, nay đúng mai sai, hỏa do củi truyền, không biết cực điểm vậy. Thủy thổ là vật, tính chất nhu hòa, đầu mối dẫn đến họa phúc, có ý trì hoãn, bởi là Trí và Tín vậy. Hỏa mộc tính nhạy bén, dễ phát dễ ngừng; thủy thổ tính chậm, khó thành khó bại. )

Kim mộc không thể thành khí, nghe vui buồn khó lấy danh, giống như mộc thịnh mà hoa nhiều hình, mây dày mà không mưa.
(Nói kim là vẫn còn mộc, kim đắc dụng mà mộc lại thành, là lấy cương giúp nhu vậy. Nói mộc là vẫn còn kim, mộc thành vật dụng mà kim đắc ý, nhân tất là có dũng vậy. Nếu có kim không có mộc, dũng mà vô lễ thì loạn; có mộc không có kim, Canh Tân suy mà ít có nghĩa. Kim, là khí ở tây phương vậy, chủ bi thương; Mộc, vật ở đông phương vậy, chủ vui vẻ. Vui mà không dâm, là mộc gặp kim vậy; bi thương mà không có hại, là kim được mộc vậy. Phàm chỗ này đều là mệnh đại nhân vậy. Nếu hiểu quay về trong thủy hỏa, dụng ở giữa kim mộc, là do vui buồn không thể động tâm, là người phương ngoài khó có danh tiếng. Nếu như thiên âm hoặc thiên dương, giống như mộc thịnh hoa dầy, thiên dương gọi là tháng nóng; Mây dày không mưa, nói thấy thiên âm (ẩm thấp). Nhân mệnh cần âm dương hài hoà, thì là ứng mệnh cách. Lại viết: Kim không thể thành khí, nhờ hỏa để nung luyện; mộc không thể thành công, nhờ kim để đẹo gọt. Cho nên vui tất lấy bi ai làm chủ, ích tất lấy tổn là ưu tiên. Mộc thịnh hoa phồn, nở mà không có quả; mây dày mà không mưa, mờ mà khó sáng. Giữa cả hai đều khó đo lường, dự tính là sinh vậy. Cho nên vượng mà không thể không có chế, suy mà không thể không có sinh, được xứ trung hòa, trở về thuần túy. )

Thừa hiên y miện, kim hỏa nhiều ở đâu, vị liệt thấp hèn, âm dương bất định.
(Trước có luận thủy hỏa cứu lấy nhau mà thành khánh hỉ, thứ là luận kim mộc mà thành đất quan, là mới biết quý thăng, hỏa quý giáng, mộc phải cứu nhu thành cương, kim phải tổn cương ích nhu, thì dụng thành hỉ khánh. Trong đó chỉ có kim cương hỏa cường, không thể không biết vậy. Kim là vật rất cứng, không phải hoả thịnh thì không thể hoá cách; hỏa là vật rất hung bạo, không phải kim thì không lấy hiển dụng nhiều. Kim hỏa quân đình, mới là tượng đúc ấn, cho nên phú nói: Thừa hiên y miện, đây là khí phách quân tử vậy, cần có kim hỏa phải quân bình nhau. Nếu hỏa nhiều kim ít, kim nhiều hỏa ít, đều là mệnh hung bạo. Kim vượng ở tây phương, hỏa vượng ở nam phương, đều là kỳ thế, thì là hình tự hình, mệnh như vậy, tuy ngày giờ hữu dụng, cuối cùng cũng trở về vị trí thấp hèn mà thôi, là do âm dương không thể phân định vậy. Kim, là âm vậy. Hỏa, là dương vậy. Âm dương đã cùng nhau thiên lệch, thì quý tiện cao thấp, không có chỗ định đúng. Huống chi có kim mà không có hỏa, có hỏa mà không có kim, là hung đồ, cũng có thể biết vậy. Hoặc viết: Tứ trụ nhân mệnh, ngũ hành kim hỏa nhiều là không đủ quý. Lấy kim cương không thể thuận vật, hỏa hung bạo mà khó sinh ích, là khí bất thường, cho nên đạo quân tử tươi đẹpp, Người Canh gặp Bính, người Tân gặp Đinh, là thuần âm thuần dương, là khắc là quỷ, là âm dương bất định, tuy có xuất thân, địa vị cũng thấp kém, không thể đại hiển. Cũng dễ thông. )

Cho nên Long ngâm Hổ khiếu, phong vũ trợ kỳ cát hung; thế hỏa hưng long, cho nên trước khói sau sáng.
(Đoạn văn trên là nói ngũ hành tương khắc, hoặc không thành khí, hợp quý không quý, chỗ này lại nói tính chất tương khắc tương sinh, cho nên lấy ví dụ Long Hổ khói sáng. Nếu ngũ hành đều được chỗ, thì giống như Rồng được mưa giáng, Hổ gầm gió sinh. Lại như hỏa vượng, trước là có khói, sau là có sáng. Hoặc lấy hai câu Long ngâm Hổ khiếu, là nói người có năm cát mà tuế vận cũng cát. Nếu đầu hung sau cát là nhất định không phải. Thí dụ như bắt đầu hỏa, trước có khói sau đó sáng vậy. Bởi vì khói sinh ở hỏa mà có thể lửa sáng. Nghĩa là khí đã có khí không thông, sao không nói hỏa ở bên ngoài mà khói ở bên trong, khói đạt mà sinh sau, không giống như con người đầu hung sau cát. Từ giải: Long ngâm Hổ khiếu, nên lấy Mậu Thìn, Giáp Dần, nghĩa rất rõ ràng, không phải, nếu gặp Dần và Thìn cũng là phù hợp, trước khói sau sáng, rõ ràng khí âm dương thuận, có thứ tự, cùng khí là cũng không có khác. Câu cuối không phải nghĩa của phú. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Từng thấy trong hung có cát, cát là trước hung; trong cát có hung. Hung là điềm cát.
《 Đoạn văn ở trên, nói đem cát hung là dựa vào ẩn phục. Như luận ở trước, Theo Khôi chống đỡ sao Thương Long, Tài tự thiên lai, là cát vậy. Là Tân trong Dậu khắc Ất mộc trong Thìn là Tài, Thìn là đất thủy, ẩn phục có thể đoạt Tân kim Quan, luận Tài nhưng không khuyết, mà mất quan là hung. Đại xung lâm đất Ngang trụ, Nhân nguyên có hại, là hung vậy. Nhưng mộc dụng kim là Quan, Dậu thì không nghịch Quan lộc, là trong hung lại cát. Ý câu phú bắt đầu nói tới vận, thứ là nói ngũ hành, ở sau sẽ nói rõ. Lại như người hỏa, hành vận thủy, thì là Thất Sát, là hung vậy. Hoặc dụng thủy là Quan, là cát vậy. Thủy hành Tị Ngọ vận nam phương, nhận lợi là Tài, cát vậy. Ở dưới lại có Mậu Kỷ Thất Sát, hung vậy. Rất nhiều như thế, người phải học chuyên sâu biến thông, là nói lấy căn bản tối trọng hàng đầu.
Đàm Oánh viết: Tượng cát hung, bởi vì họa phúc vẫn lẫn với nhau, là thường lý âm dương vậy. Bởi thế đời có người cát hung ở cát, người hung cát ở hung, chỗ quân tử không nói vậy, đạo cũng bình thường mà thôi. Hung nếu thắng cát, cát ẩn trong hung; cát nếu thắng hung, hung tàng trong cát. Bác tạp sinh ở Thuần túy, trung hòa xuất phát từ chiến tranh, cho nên trong cát có hung, hung là điềm cát. )

Họa tuần hướng mạt, nói phúc có thể Nghênh suy; Tài nhập đất suy, luận tai nghi kỳ nghịch khóa. Nam nghênh nữ tống, phủ thái giao cư; âm dương nhị khí, nghịch thuận chiết trừ.
(Chỗ này nói tai họa cát hung, do ở hành vận. Họa tuần hướng mạt: Như thấy 10 năm hung vận, cuối đầy mà trước giao cát vận, nếu lúc sinh năm tháng khí thâm, hoặc hành niên thái tuế phù trợ, hướng Lộc lâm Tài, lại không cần đợi giao vận, chỉ ở chỗ hướng cuối, thì có thể nghênh đón mà suy. Tài nhập đất suy: Nhân mệnh trải qua phúc địa, phương giao vận bối Lộc Tài tuyệt, nhưng không thể liền nói hung ngôn, là luận tai ở nghịch khóa vậy. Nam nghênh nữ tống, là dương nam âm nữ, vận thuận hành vậy. Một vận 10 năm, lại phân trước sau 5 năm, phàm nhập cát vận, được tiết khí sâu, là nam đón, 5 năm trước phát phúc, nữ đưa, 5 năm sau phát phúc. Hoặc viết: Nam tường đại vận, nhập năm đầu, đón tai phúc ở đâu, cho nên nói là Nghênh. Nữ tường đại vận, năm sắp xuất hiện, đưa tai phúc ở đâu, cho nên nói là Tống. Nam Nghênh nữ Tống, Phủ Thái giao cư, xem làm một nghĩa. Đón cát đưa hung, đón hung đưa cát, là Phủ Thái giao cư vậy. Âm nam dương nữ, dương nam âm nữ, dựa theo hành vận nghịch thuận chiết trừ, tức là trước chiết trừ 3 tuổi = 1 năm vậy, xem trên vận mới hay cũ có cát hung chỗ nào, nói lấy số vận.
Đàm Oánh viết: Chỗ này là luận hành vận, đều chỉ trường sinh, thứ là ở đất suy, như kim sinh ở Tị mà suy ở Tuất, nam đến Tuất thuận hành ở tử tù hưu phế, nữ nghịch hành ở đế vượng, lâm quan; nam đến Tị thuận vượng ở đất Thân Dậu, nữ khốn nghịch ở đất Dần Mão, cho nên nói Họa tuần hướng mạt. Hai khí Âm Dương, là nói Tiểu Vận, là khí năm vậy. Đại vận là khí tháng vậy. Nhật can là vận, tháng là khí. Tiểu vận thì sau khi giao từ ngày sinh; Đại vận thì luận khí mà chuyển, hai khí vận hành, từ mệnh của ta vậy. Cho nên viết Hai khí âm dương ... )

Bói bên trong kim mộc, hiển lộ ở chỗ ranh giới phương; Tiêu kỳ giữa nam bắc, sợ bất lợi ở qua lại. Trong một tuần, ở trong năm mà hỏi can. Trong một Tuế, tìm trong tháng mà hỏi ngày. Hướng 3 tránh 5, chỉ phương diện lấy cùng thông; đo lường cát hung, nói trong Tuế tốt xấu.
(Chỗ này nói vận hành đông tây nam bắc, đất kim mộc thủy hỏa, có lợi, bất lợi, kiêm nói cả trong Tuế tốt xấu vậy. Vương thị viết: Mộc hỏa kim thủy là khí bốn phương chuyên nhất, tất cả phương đều chuyên chỗ ranh giới vậy. Như xuân Tân Mão, hạ Mậu Ngọ, thu Quý Dậu, đông Bính Tý, bốn phương đều tự ôm khí vượng, mà không thể xâm phạm nhau. Cho nên khí ngũ hành vượng, thủ trọng một thần, gọi là Bạch Hổ Sát. Như mộc đông phương, đến tây phương phùng kim: Hoả nam phương, đến bắc địa gặp thủy, chỗ nói là Sát kỵ tứ trọng, cấm vật lạc đường, viết là Quân là Phụ, không thể cùng mất; lấy kỳ tương khắc, đến tất bất lợi. Nếu ngũ hành suy tuyệt vô khí, phùng qua lại tương xung, thì lại hỗ tương nhau thành phúc. Như Ất Hợi hỏa được Quý Tị thủy, hỏa đến Tị là vượng, thủy đến Hợi là vượng, hỗ hoán phùng vượng, sao qua lại tổn thương? Nhâm Dần kim, là Thần không cường; Canh Thân mộc, chuyện Quân không hung, độc chiếm một góc, sao có tạo hóa? Bởi vì lộc vượng tự hưởng quý, là do hoạn nạn muốn được cứu trợ vậy.
Trong một tuần, ở trong năm mà hỏi can, là nói lấy can năm, thì lền biết chỗ Giáp ngụ, vì vậy sinh ra cùng trong tuần vậy. Trong một Tuế, tìm trong tháng mà hỏi ngày, trong một Tuế là có khác nhau, là mệnh âm dương nam nữ vậy. Tìm ở trong tháng mà hỏi ngày, muốn biết số ngày tiết khí, là phép để định mấy Tuế là hành đại vận vậy. Là hành vận vậy.
Nên theo hướng Tam Nguyên sinh khí, tránh Ngũ Quỷ tuyệt lộ. Là chỉ phương diện sắp xếp, âm dương cùng thông, xem Lộc Mã hướng bối, đại vận thịnh suy, từ chỗ này để xét cát hung. Không chỉ chiếu cố ở đó, còn có thể nói tốt xấu ở trong Tuế. Hoặc lấy Sinh khí, Phúc đức, Thiên y là Hướng 3; Tuyệt thể, Du hồn, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh, Bản cung là tránh 5.
Từ viết: Bói, chỉ lấy Khứ thanh, xem bói chỗ lúc sinh ở năm tháng. Như mộc dụng kim là Quan, ở vận nam dương mệnh, xuất ở Mùi nhập ở Thân; Vận nam âm mệnh, xuất ở Hợi nhập ở Tuất, là hướng lộc lâm Tài, gặp ở ranh giới kim mộc. Như kim dụng mộc là Tài, vận nam dương mệnh, xuất ở Sửu nhập ở Dần; vận nam âm mệnh, xuất ở Tị nhập ở Thìn, là hướng lộc lâm Tài, ở trong chỗ phương mộc hỏa. Lại thêm Thái Tuế, Nguyệt lệnh, nói khí hậu cùng phù. Tiêu, còn có nghĩa là tiêu chuẩn. Chính là nền tàng mệnh vậy. Nam, hướng về sáng tỏ mà đi vậy. Bắc, là hướng về bắc mà đến vậy. Chỗ này là nói vận khí xuất nhập động tĩnh, hoặc cát, hoặc hung, không thể bác tạp. Hoặc gặp năm giao vận, không thể xem thường. Trong một tuần, ở trong năm hỏi can, là trong tháng tìm ngày vậy. Trong một Tuế, tìm trong tháng hỏi ngày, là trong năm tìm tháng vậy. Hướng 3, Tránh 5, là trong Tuế tìm chỗ phương cát lợi vậy. Phàm tọa lấy tiến thoái, hướng cát tị hung, không có cái nào lớn hơn chỗ này vậy. Một tuần, là 10 ngày vậy; trong năm, là ngày sinh vậy. Phàm ở trong một tháng, ở trong một tuần, lấy Thiên nguyên ngày sinh phối hợp mà nói, thì biết trong ngày tốt xấu, lập định ngày sinh làm chủ vậy. Trong một Tuế, thủ nguyệt lệnh lấy sinh khắc phối hợp mà nói, thì biết trong tháng tốt hay xấu vậy. Còn như người sinh đắc địa, cần lấy Thái Tuế là tôn trưởng, là trong một Tuế tìm tháng sinh mang Lộc, hoặc Quan Ấn, vốn có hay không có, là tháng mà hỏi ngày, chính là tổng pháp xem mệnh vậy. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Nhâm Quý là sinh thu mà đông vượng, Hợi Tý là cùng đường; Giáp Ất là hạ tử mà xuân vinh, Dần Mão cùng một suy đoán.
(Chỗ này nói nhân mệnh có sinh vượng, tử tuyệt, mà chỗ gặp ở hành vận, có nên cùng không nên, chỉ hiểu nói về ngũ hành vậy. Canh là chủ bầy kim, cho nên cư Thân mà sinh thủy, thủy quy về Hợi Tý, mùa đông là vượng. Nhâm là gốc tụ thủy, cho nên cư Hợi mà sinh mộc, mộc quy về Dần Mão, mùa xuân là vượng. Giáp là chủ bầy mộc, cho nên cư ở Dần mà sinh hỏa, hỏa quy về Tị Ngọ, mùa hạ là vượng. Mậu là chủ bầy thổ, cho nên cư ở Tị mà sinh kim, kim quy về Thân Dậu, mùa thu là vượng. Nhâm Quý, Hợi Tý là một loại thủy vậy, thủy sinh ở Thân mà vượng ở Tý; Giáp Ất, Dần Mão là một loại mộc vậy, mộc vượng ở Mão mà tử ở Ngọ, cho nên Nhâm Quý sinh ở thu mà vượng ở đông, Giáp Ất hạ tử mà xuân vinh. )

Bính Dần Đinh Mão, mùa thu nên để bảo trì; Kỷ Tị, Mậu Thìn, độ ở cung Càn mà thoát ách.
(Chỗ này chỉ nói nạp âm vậy. Bính Dần, Đinh Mão, là Lô Trung hỏa, khí hỏa vượng vậy. Đến mùa thu nên bảo trì, vì hỏa đến mùa thu là tử, huống chi hỏa khác chứ? Kỷ Tị, Mậu Thìn, là Đại Lâm mộc, mộc thịnh vậy. Độ cung Can mà thoát ách, vì mộc đến Hợi là sinh vậy, huống chi mộc khác chứ? Còn Bính Dần, Đinh Mão, loại hỏa, hỏa vừa khắc kim, mùa thu bảo trì, sao vậy? Là nói thủy sinh ở mùa thu vậy. Kỷ Tị, Mậu Thìn, là loại mộc, thủy vừa sinh ở Hợi, cung Càn thoát ách, là sao chứ? Là nói Hợi ở cung Càn kim vậy. Hiểu đạo ngũ hành hưu vượng, lý tạo hóa tự nhiên, hoặc nguyên mệnh, hoặc hành vận, hoặc lưu tuế, đều nân cẩn thận dùng. )

Gặp bệnh lo bệnh, phùng sinh được sinh. Vượng tướng tranh vanh, hưu tù diệt tuyệt. Luận gia quyến, lo kỳ tử tuyệt.
(Gặp bệnh lo bệnh, là nói lấy hưu tù diệt tuyệt. Phùng sinh được sinh, nghĩa là lấy vượng tướng tranh vanh. Gặp bệnh lo bệnh, là nói bệnh trong ngũ hành gặp Quỷ vậy. Mộc gặp Tân Tị kim, hỏa gặp Giáp Thân thủy, thổ gặp Canh Dần mộc, kim phùng Ất Hợi hỏa, loại như vậy, gọi là Hưu tù diệt tuyệt. Phùng sinh được sinh, là ngũ hành xứ sinh gặp sinh vậy, như mộc lâm Quý Hợi thủy, hỏa gặp Canh Dần mộc, thủy gặp Nhâm Thân kim, kim gặp Đinh Tị thổ, loại như vậy, gọi là Vượng tướng tranh vanh. Hoặc gặp ở lúc sinh, hoặc gặp ở tuế vận, lại xem đầu cuối, tùy theo tiêu tức phù hợp. Ngũ hành sinh ta là Phụ Mẫu, ta sinh là Tử Tôn; khắc ta là Quan Quỷ, ta khắc là Thê Tài, tỉ hòa là Huynh đệ, kỵ ở đất Không Vong Tử Tuyệt, lo sợ ở đất hưu tù suy bại, nói là tùy theo chỗ gia quyến thân thuộc gặp. Chỗ này là tổng luận chính hành, sinh ở giữa trời đất, ngụ ở bên trong 12 chi, có trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng, trong đó có tứ cát, tứ hung, tứ bình vậy. )

Mộ ở trong Quỷ, là rất nguy hiểm; Túc hạ lâm Tang, có thể thấy trước mắt.
(Mộ ở trong Quỷ, là chính hành trên đường Mộ Quỷ, như kim sợ Kỷ Sửu hỏa, mộc phòng Ất Mùi kim, thủy sầu Bính Thìn thổ. Thổ kỵ Mậu Thìn mộc, hỏa sợ Nhâm Tuất thủy, cách như vậy, hoặc là hành ở tuế vận, chủ rất hiểm nguy. Túc hạ lâm Tang, lấy trước mệnh 2 thần là Tang Môn, như người Tân Hợi thấy Kỷ Sửu, đã nhập mộ lại còn lâm Tang Môn, chính là Túc Hạ đều là họa. Có thể thấy trước mắt, là nói gặp hung đến nhanh vậy. Nếu Thái Tuế, các chư sát, lâm đại tiểu vận, lo sợ tai họa bất trắc, phòng có tượng tang phục bên ngoài. )

Dựa theo Âm xét dương họa, Tuế tinh chớ phạm ở Cô Thần; là Dương xem lấy Ấm tai, Thiên niên kỵ phùng ở Quả Tú.
(Người Dần Mão Thìn, Tị là Cô Thần, Sửu là Quả Tú. Vị trí Dần Thìn là dương, vị trí Sửu Tị là âm, cho nên viết Dựa theo Âm xét dương họa. Tuế tinh chớ phạm ở Cô Thần, như người Tị Ngọ Mùi, lấy Thân là Cô Thần, Thìn là Quả Tú, vị trí Mùi Tị là âm, vị trí Thân Thìn là dương, cho nên viết là Dương xem lấy Âm tai. Thiên niên kỵ phùng ở Quả Tú, Thiên Niên, là Tiểu vận vậy. Tuế tinh, là Thái Tuế vậy. Dương lấy Cô Thần làm trọng, âm lấy Quả Tú làm trọng. Từ viết: Âm lấy dương là Đối, dương lấy âm là Ngẫu, nói dương là không hẳn không có âm, nói âm là không hẳn không có dương, cho nên dựa vào âm có thể xét dương, là dương có thể xem âm. Tuế tinh, là Thái Tuế vậy, không thể ở trên Cô Thần. Giả như người Dần Mão Thìn, gặp Thái Tuế ở Tị, người Dần là Câu Giảo, người Mão là Tang Diếu, người Thìn gọi là Khống Thần Sát, lại còn gọi là Yêu thần, chủ trở ngại bế tắc. Thiên Niên cũng là Thái Tuế, không thể ở trên Quả Tú, như người Dần Mão Thìn, gặp Thái Tuế ở Sửu, người Thìn là Câu Giảo, người Mão là Tang Điếu, người Dần gọi là Khuy Thần Sát, còn gọi là Bách Thần Sát, chủ người trộm cướp, cưỡng bức, hãm hại. Hoặc kỳ tam nguyên khắc ta, tuế vận bất hòa, là năm ngũ hành làm hại Lộc Mã, thì là hung rất nặng. )

Trước luận nhị khí, thứ khóa duyên sinh. Phụ bệnh suy kỳ Tử lộc, Thê tai khóa lấy phu niên.
(Ngũ hành tương sinh gọi là phụ tử, kỳ là khí truyền thụ, là loại Thanh Xích vậy. Âm Dương tương chế như là Phu Thê, kỳ là thần giao hợp, là các loại can chi vậy. Giả như kim là bệnh, chắc chắn là sợ hỏa, cấp tốc cầu thủy để cứu, là do lấy kim sinh thủy là Tử, có thể khắc hỏa vậy. Lại như kim là tai, sợ gặp hỏa vậy, lại xem hỏa hưu vượng như thế nào, chỗ này là 2 phép cứu giải, rất là thiết yếu.
Từ viết: Nhị khí, là âm dương vậy. Duyên sinh, là vận mệnh vậy. Trước là phân biệt âm dương, sau là xem vận mệnh. Hai câu Phụ bệnh, là tượng rõ âm dương tiến thoái vậy. Giả như người Canh Thìn, sinh tháng 10, Canh kim bệnh ở Hợi, là Phụ bệnh vậy. Canh sinh Nhâm là Tử, Nhâm lộc ở Hợi, là Tử có lộc vậy. Canh lấy Ất làm thê, đại vận đến Tị, Ất mộc bệnh ở Tị, là Thê tai vậy. Như người sinh ngày Nhâm Quý, lấy Canh Tân làm Phụ, hành vận Hợi Tý, kim bệnh tử ở Hợi Tý, chủ Phụ Mẫu có tai họa, hoặc có đại tang. Người sinh ngày Bính Đinh, lấy Canh Tân làm thê, hành vận Dần Mão, kim tuyệt ở Dần Mão, chủ thê tai hoặc tang vợ. Lại như người Bính Dần, đại vận đến Mậu Thân, hỏa tuy bệnh, mà Bính Dần là cha Mậu Thân, thổ đến Thân là trường sinh, tử lộc ký sinh, là cha nhận phúc ấm Tử lộc (Tử là con, Phu là cha, Thê là vợ), tuy bệnh cũng không đến chết. Như người Đinh Mão hỏa, hành vận đến Giáp Ngọ kim, hỏa khắc kim là Thê, kim đến Ngọ là bại, gọi là Thê tai. Đinh Mão hỏa vượng ở Ngọ, lại phùng Thiên Lộc, kim hỏa tương đắc, âm dương tương hợp, tuy ngũ hành thê tai, lấy năm Phu vượng mà không là hung. Bởi vì Phụ Tử là một thể tương quan, phu thê là hai thể đồng cư, là người cốt nhục thân nhất vậy. Cho nên xem mệnh Phu Tử, gặp hung thần ác sát, lúc hình thương phụ mẫu thê tử, thì cha bệnh tất nặng, vợ họa tất trọng. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Tam cung nguyên cát, họa phùng có thể kéo dài; đầu cuối đều hung, tai họa đến rất nhanh.
(Tam cung, chính là tam nguyên Lộc, Mệnh, Thân cung trường sinh. Tứ trụ cư ngụ là Cung, phùng Lộc Mã Quý nhân, ngũ hành sinh vượng, gọi là Nguyên cát. Tuy hành niên tuế vận phùng hung thần ác sát, sẽ gặp họa, cũng trì hoãn mà không đến nỗi chết yểu. Tam nguyên ngũ hành vô khí, lại thêm tuế vận hung thần ác sát lâm đến, là đầu cuối đều hung, họa đến, rất nhanh mà không thể cứu. Từ viết: Trước luận âm dương thủy chung, chỗ này nói nhân mệnh cát hung. Như Thiên nguyên, Nhân nguyên, Chi nguyên trong mệnh, trong ngoài năm tháng giờ, gặp quý lộc không không cư nơi hưu bại, là căn cơ chủ bản, tam nguyên vốn là cát. Nếu gặp hành niên thái tuế vận mệnh ở đất trái nghịch nguy hiểm, nhưng cũng có thể suy họa đến chậm vậy. Nếu trong ngoài tam nguyên, tuy có Lộc Mã quý khí, nhưng trong bát tự xung hình phá hại, không chỉ có quý mà không quý, cuối cùng là là hung mệnh. Như gặp cát vận, thì đề phòng vì phúc sinh họa; gặp vận hung, thì họa bỗng đến rất nhanh. Cả hai nghĩa giải thích là đồng nhất vậy. )

Trạch Mộ thụ Sát, lạc lương trần lấy thân ngâm; Tang Điếu lâm Nhân, biến cung thương làm lộ giới.
(Trước mệnh 5 thần là Trạch, sau mệnh 5 Thần là Mộ. Sát, là Kiếp Sát, Tai Sát, Tuế Sát vậy. Trước mệnh 2 thần là Tang Môn, sau mệnh 2 thần là Điếu Khách. Nhân, là Nhân nguyên vậy. Cổ thiện ca, có âm thanh nhiễu lương; Thiện xướng, là hợp ca khúc Cung Thương (hai trong ngũ âm của nhạc cổ điển Trung Quốc). Ngày nay dịch lấy là Thân ngâm sầu thán, biến thành lộ giới bài ca đưa tang, cho nên gọi là Tang Điếu lâm môn, Trạch Mộ thụ Sát vậy. Hoặc là kỳ Thái Tuế, Hung Sát cùng đến, Đại, Tiểu vận hạn hình xung, tất dẫn đến hung họa, cần phải chuẩn bị dự phòng. Hoặc hai vị trí Trạch Mộ, nếu gặp 6 tuổi hàng năm, Tang Môn, Điếu Khách, Hoàng Phan, Báo Vĩ, Thái Âm, Đại Hao, Tướng Quân các chư ác sát nhập Trạch, một là chủ thân ngâm, hai là chủ đau khổ, ba là chủ phân ly, bốn là chủ tang chế, chỗ này là Tứ thanh nhập Trạch. Hoặc nói, khó miễn di cư tị nạn. Chỗ này là nói chỗ gặp Lưu niên hung sát vậy, nhân mệnh vốn có thì càng nặng. )

Can suy lưỡng trọng, đề phòng tai họa ở giữa đầu mặt; Chi chiết tam khinh, cẩn thận họa ở bên trong tứ chi; Hạ nguyên nhất khí, chu cư khứ trụ chi kỳ.

(Can suy lưỡng trọng, can là Thiên nguyên, vốn thủ lấy tượng. Gặp Đức kiến quý, là cát; phùng Sát gặp Quỷ, là hung. Thiên nguyên cả hai đều gặp thụ khắc, như sinh Giáp Tý, được tháng Canh Ngọ, lại thêm ngày Canh Ngọ, gọi là Lưỡng trọng, là do can không thắng trọng khắc vậy, đề phòng tai họa ở giữa đầu mặt lưng ngực. Chi chiết tam khinh, chi giống như đoạn tứ chi con người, ở mệnh chủ, mang tam hợp, lục hợp là cát; phùng tứ xung, tam hình là hung. Chi thần tam hình phùng thương, như người Tân Dậu, gặp tháng Canh Dần, ngày Đinh Tị, giờ Mậu Thân, nói là Khinh, là do hình không đến với bản mệnh vậy; cẩn thận họa ở tạng bụng, bên trong tứ chi, hoặc lấy tam hợp phùng thương, cũng thông.

Hạ nguyên nhất khí, là nói nạp âm vậy. Chủ tể ngũ hành, từng can kiền chi thiên biến mà thành cát hung, tai họa bất kể tứ chi đầu mặt, cho nên nói Chu cư khứ trụ chi kỳ. Nói can suy lưỡng trọng, huống chi là tam? Chi chiết tam khinh, huống chi là hai? Ở chỗ này là phân biệt khinh trọng vậy. Hoặc nói, chỗ này là luận thập can, phùng đại vận gặp ở trên can năm này, phản khắc Thái tuế, can khắc danh là Quỷ lâm đầu, mang tật ở đầu mặt. Thập nhị chi thần, nếu thân mệnh phùng sinh tử, vượng ngũ quỷ, phải có tật ở lưng chân tứ chi, so với ở can là khinh vậy. Lại nói khí vận 《 Đào Ẩn cư ca 》 viết: Giáp Kỷ 5 tuổi Ất Canh 4, Bính Tân 3 tuổi Đinh Nhâm 2, Mậu Quý phải suy từ một tuổi. Lại có nạp âm khí hành vận, tương sinh là phúc đức tương khắc là hung, ngũ hành cung thuận đều như ý. Người Kim gặp kim phạm hung họa, người mộc kiến mộc mưu cầu toại ý, người thủy gặp thủy chủ diêu động, khí vận thuận nghịch cần phải nhớ. Giả sử nam mệnh Quý Dậu, sinh tháng 3, tháng 3 là Bính Thìn, thì theo Bính Thìn khởi 3 tuổi, Đinh Tị thổ là 2 tuổi, chỗ này 5 tuổi nạp âm là thổ, chớ không có hình khắc. Trụ Mậu Ngọ 1 tuổi, trụ Kỷ Mùi 5 tuổi, chỗ 6 tuổi này nạp âm là hỏa, kim gặp hỏa là hung. Trụ Canh Thân 4 tuổi, Tân Dậu 3 tuổi, chỗ này 7 tuổi nạp âm là mộc, từ 12 đến 18 tuổi, chủ mưu cầu toại ý. Còn lại dựa theo chỗ này thứ tự mà đếm xoay vòng. Hoặc là một cung trụ 5 tuổi, hoặc là trụ một tuổi, cho nên nói là Khứ trụ chi kỳ. Trụ đại vận ở đất vượngg, nếu như có khí tương chế, thì không thể là hại.

Nhân và bất nhân, lo tổn thương phạt ở Mậu Kỷ, về phần Tẩm thực thị vệ. Vật có quỷ vật, người có người quỷ, gặp là tai, khử là phúc.
(Giáp Ất mộc ngũ thường là Nhân, kim trái lại là nói Bất nhân, lấy kỳ khắc Mậu Kỷ là hung vậy. Như Giáp kiến Mậu, Ất kiến Kỷ, dụng âm thiên dương, là khắc là phạt, là cô là bối, thì ngũ hành là Bất nhân vậy. Nếu Giáp kiến Kỷ, Ất kiến Mậu, cương nhu đón nhau, cả hai được chỗ, không có thể nói là bất nhân vậy. Trong bài Phú đưa ra ví dụ Giáp Ất Mậu Kỷ, còn lại các ngũ hành khác dựa theo mà tìm. Ngũ hành biến hóa, cùng nhân sự là tương thông. Về phần Tẩm thực thị vệ, đều không ngoài ở chữ Nhân mà thôi. Ngũ hành, ta khắc gọi là Tài, khắc ta gọi là Quỷ. Ví dụ như người Tân Mão, gặp Đinh Dậu, Tân lộc ở Dậu, phùng Đinh là Quỷ của Tân, gọi là Lộc đầu phùng Quỷ, vật có quỷ vật. Mệnh thuộc mộc, Dậu thuộc kim, kim đến khắc mộc, gọi là Nhân nguyên thụ khắc, người có người quỷ. Trong cách cục có loại này, vận phùng thì thành tai, khử thì thành phúc.
Hoặc viết: Quân tử sáng dậy tối nghĩ, thường nên giữ gìn sức khỏe, hoặc ăn uống không điều độ, động chuyển sinh tai, thế là trong hợp phùng quỷ, trong cát tàng hung. Tuy hoặc là chỗ làm nhân tình, cũng được chỗ âm dương chủ trì vậy. Tẩm thực, là nói điều dưỡng cấp thiết vậy. Thị vệ, là nói trái phải rất gần vậy. Cả hai chỗ này, rất không thể xem thường. Lấy trong vật có quỷ vật, trong người có người quỷ, thay đổi cát hung, từ gần đến xa, rất là nhanh vậy. Ví như Mậu kiến Giáp là Bất nhân, hoặc trong năm tháng giờ thấy Canh Tân thì là Nhân. Nói Mậu Thực Canh, Canh lại chế Giáp, hoặc thấy Kỷ cũng là Nhân, nói Kỷ hợp Giáp, có thể Giáp là Thị vệ vậy. Mậu phùng Giáp mộc bất nhân là tai, có Canh Kỷ là Tẩm thực thị vệ, là dụng khử thành phúc. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Tựu trung Lỏa hình hiệp Sát, phách vãng phong đô; chỗ phạm có thương, hồn quy đại lĩnh.
(Tựu trung, đoạn văn trên là nói Quỷ Vật và người. Chỗ gặp Tựu trung là rất quan trọng, đất ngũ hành mộc dục, gọi là Lỏa Hình, như bản âm mộc dục, đại vận phùng là tai. Người thủy thổ vận ở Dậu; người mộc vận ở Tý; người hỏa vận ở Mão; người kim vận ở Ngọ, Quỷ Cốc Tử gọi là Ba lãng hạn. Hợp Sát, là Nguyên thần Thất Sát vậy, như người vận ở trên mộc dục, hợp cùng Thái Tuế, là tai. Hoặc lúc sinh năm giờ vốn có chổ thần phạm, thì là Hồn quy đại lĩnh, phách vãng phong đô, danh này là rất hung vậy. Hoặc nói: Hợp Sát, là Củng Thất Sát vậy. Lỏa hình kiến Sát, rất là không cát. Ngọ là Tân Sát, Dậu là Ất Sát, Tý là Đinh Sát, Mão là Kỷ Sát. Giả như ngày Tân Tị, giờ Ất Mùi, là Lỏa Hình hiệp Sát. Còn lại loại suy theo chỗ này. Hoặc lấy người Giáp Tý kim, gặp Tuế là Mậu Ngọ, kim lỏa hình ở Ngọ, lại thêm Mậu Ngọ hỏa vượng, kẹp theo tự hình, phản ngâm Tai Sát, phá mệnh Giáp Tý. Như vậy, thì gọi là Chỗ phạm có thương. )

Hoặc chính là Hành lai xuất nhập, phạm chống phương hung, giá thú tu doanh, lộ đăng hoàng hắc.
(Hành lai xuất nhập, là hành động vậy. Giá thú tu doanh, chính là thì hành động tác lớn vậy. Cát hung hối lận sinh ở động, cho nên quân tử cẩn thận chỗ này. Lạc Lục Tử ghi nhớ đàm luận ngũ hành tam mệnh, lại nói chỗ phương xuất nhập, nên tránh Tứ Ma, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương, Bát Nan, Cửu Ách là phương hung. Nhất đức, nhị sinh là phương cát. Thủ xem từng năm thần sát Thái Tuế, hành hoàng đạo là cát, hắc đạo là hung vậy. Hoặc viết: Chỗ này là luận vận khí con người, từ nguyên vận mà hành đến xuất nhập đất cát hung, gặp ngũ hành tương khắc tương sinh, lý là có Giá thú tu doanh. Ngũ hành, ta khắc gọi là Thê, Thê ở đất ngũ hành sinh vượng thì có thể cưới, cưới thì được trợ giúp. Khắc ta gọi là Phu, Phu ở đất ngũ hành sinh vượng, thì có thể cưới, cưới thì thành phúc. Nói xuất ở Phu Phụ, nghĩa là có thành giá thú vậy. Tu doanh, là nói ngũ hành tuy có chính tính, giữa cả hai có thay đổi bất thường, là lấy quân tử tu đức, Doanh sinh, là đợi thời mà lấy. Lộ đăng hoàng hắc, là chỉ nguyên vận ở trên tháng, hành 10 năm Hắc đạo; thuận hành đến trừ mãn, thượng hành Hoàng đạo. Như vận đến Hoàng đạo, phàm sự đều lợi; vận đến Hắc đạo, phàm sự đều bế tắc. Phàm người phải làm động tác, tiến thoái hướng bối, nếu không vốn ở âm dương, thể hợp vận khí, cát hung đều không thể tránh khỏi. )

Tai phúc ở bên trong vị trí Tuế niên, phát giác kích dương ở ngày giờ. Ngũ thần tương khắc, tam sinh định mệnh. Mỗi khi thấy Quý nhân Thực Lộc, không ngoài ở đất Lộc Mã; đất nguyên trọc phục ngâm, cung phiền muộn ngưng nghĩ .
(Phàm nói cát hung ở trong Tuế, chuyên nói xem ngày giờ cùng Thái Tuế sinh khắc, hình xung. Ngày sinh là Thê, giờ sinh là Tử. Ngày giờ cùng Thái Tuế hòa hợp, cập Tài vật hữu dụng không có phá nhiều, dựa theo sự vật mà nói.
Như Thái Tuế cùng ngày giờ hình khắc nhau, hoặc lục hợp tam hợp trong có Nguyên thần, Thất Sát, là hung. Cũng xem loại mà nói. Hoặc viết: Tuế niên, là nói chỉ Thái Tuế hành niên. Phàm nhân mệnh gặp lưu niên Tuế quân, hung thì là tai, cát thì là phúc, đều do ngũ hành kích dương trong ngày giờ, trở về ở vị trí Tuế. Ngũ thần, là ngũ hành vậy. Tam sinh, là Tam Nguyên vậy. Phàm xem nhân mệnh, phải thâm cứu căn cơ, dụng tam nguyên định cung, lấy ngũ hành phối hợp. Phép này lấy ngày giờ, Lộc Mã nguyên cầu 5 vị, hoặc tương sinh ở bản mệnh kiến đất vượng, hoặc bác khắc ở lúc sinh đất tuyệt diệt. Về phần vận hạn gia lâm, tất có điềm cát hung. Phàm gặp ngũ hành mà tạo hóa diệt Tuyệt, Không Vong, lại gặp vận hạn hình xung, ác tinh giao nhau, chủ nhiều lo mà ít vui, tất sẽ chết yểu, Trù trướng thân ngâm, cho nên gọi là đất Hưu cung. Hoặc chỉ Trù trướng là tên Sát, người Tý thấy Hợi, người Mão thấy Dần, người Ngọ thấy Tị, người Dậu thấy Thân. Ngũ Thần, là chỉ Tuyệt thể, Du hồn, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh, Bản cung. Tam sinh là Sinh khí, Thiên Y, Phúc Đức. Chỗ này trở lên là phép nói Xuất Nhập, Giá Thú, Tu Doanh, không phải nói Tam Mệnh. Nói sử dụng bên trong vị trí ngũ hành Thái Tuế, xem họa phúc, cũng cần chọn ngày cát giờ cát, là có thể dụng sự. Nòi cũng hiểu. )

Cuồng bạo khởi ở Câu Giảo, họa bại phát ở Nguyên Vong. Trạch Mộ đồng xứ, e rằng ít vui mà nhiều buồn lo; vạn lý hồi hoàn, chính là đất tam quy.
(Thần Sát, tinh khí ngũ hànhcủa trời đất vậy, đều có chỗ cát hung. Đàm mệnh trước tiên suy ngũ hành Cách Cục hưu vượng, sau đó xét lấy Thần Sát, xem loại việc. Mệnh dương lấy trước 3 thần là Câu, sau 3 thần là Giảo; mệnh âm lấy trước 3 thần là Giảo, sau 3 thần là Câu. Hoặc giao lâm vận hạn, chính là Chiêu tai cuồng hoành. Nguyên thần, Vong Thần, là tên 2 Sát. Lúc sinh lại gặp hung sát, tuế vận hình tinh, đa số liên thông vì việc nước, vô cớ vướng vinh; lấy thêm Trạch Mộ đồng xứ ở trên Câu Giảo, Nguyên Vong, càng hung. Thí dụ sinh Quý Hợi, trước 5 thần thấy Mậu Thìn, là thủy mộ, lưu niên tuế vận nếu lại mang Sát, ở trong cùng xứ, gọi là Trạch Mộ đồng xứ vậy. Tam Quy, là Thìn Tuất Sửu Mùi, hay gọi là Tam Khâu, hoặc là Ngũ Mộ. Vạn vật quy căn phục mệnh, phản bản hoàn nguyên. Phàm 4 thần này, lấy ứng tượng trở về, hoặc lấy tam nguyên, ngũ hành đất quy túc là Tam Quy. Như người Giáp Tý, gặp năm Hợi, là mộc nhất quy về lộc; gặp tháng Thân, là nhị quy thủy mệnh; vận Tị, là tam quy thân kim, đều chỉ vị trí tam nguyên bản âm trường sinh mà nói. Tuy thân khách vạn lý trường đồ, lý là có lấy trở về vậy. Từ viết: Câu Giảo không thể ở trên nguyên mệnh, ngày giờ nhị vận, hoặc thêm hợp cùng Nguyên thần, Thất Sát, càng hung. Trạch Mộ, như sinh Mậu Tý, gặp Thái tuế Tân Mùi, cũng cần trên ngày Mùi Tý có ngày giờ hoặc đại vận đồng cung là nặng, chủ bất lợi người âm, tiểu khẩu gia trạch. Chỗ này nói đại vận ở giữa 12 thần, thuận nghịch hồi hoàn, ở tam nguyên bản lộc bản tài đất quy túc, gặp chỗ này, an vui hưởng phúc. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Tứ Sát phụ, đa số sinh nam Ngũ Quỷ; đường Lục Hại, mệnh có chuyện Thất Thương.
(Chỗ này chuyên luận cốt nhục. Tứ Sát, là nói chỉ kiếp tai thiên địa. Hoặc lấy Tứ Âm Sát là Thìn Tuất Sửu Mùi. Ngũ Quỷ, là người Tý thấy Thìn, Sửu thấy Mão, Dần kiến Dần, Mão kiến Sửu, Thìn kiến Tý, Tị kiến Hợi, Ngọ kiến Tuất, Mùi kiến Dậu, Thân kiến Thân, Dậu kiến Mùi, Tuất kiến Ngọ, Hợi kiến Tị vậy. Tam nguyên thụ thương ở năm, dưỡng tử hính là nam Ngũ Quỷ, phản chế thụ khắc, không hòa thuận vậy. Lục Hại, như Tý xuyên Mùi vậy. Thập nhị chi bất thuận, mệnh gặp 1, 2 lục hại. Hoặc triển chuyển hung sát cùng xung, người như vậy, mệnh có quyết sự Thất Thương vậy. Thất thương, là hại lục thân cùng bản thân vậy. Hoặc lấy Tứ Sát, chuyên chỉ Tứ Kiếp. Ngũ hành sinh ở Tứ Mạnh. Sinh, là cha vạn vật, ngũ hành khắc ta là Quỷ, chỗ người gặp Sinh Bại Vượng Tử Tuyệt là Ngũ Biến vậy. Thí dụ Giáp Thân thủy tự sinh, là Kiếp Sát cha người mộc, còn sinh Canh Thân mộc là con, Giáp là cha Canh, đến Thân là tuyệt, phùng Canh là Quỷ, cộng thêm Đinh Hợi, là vì lục hại Giáp Thân, như vậy, thì mệnh có chuyện Thất Thương vậy. Thất Thương, cũng là tên thần sát. Xem phú trước có nói hoặc phùng Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương là thấy rõ.)

Gia quyến đồng tình thủy hỏa, tương phùng ở đất mộc dục. Trong đường cốt nhục phân ly, Cô túc càng sợ ở Cách Giác.

(Chỗ này nói hợp đoạn văn ở trên vậy. Nhưng Mộc dục là vị trí thứ hai của cung Trường sinh, là Tý Ngọ Mão Dậu vậy. Cô Thần, Quả Tú, đã luận ở trước. Cách Giác, là Dần Thân Tị Hợi vậy. Nhân mệnh có gặp Mộc dục tương khắc, lại có Cô thần, Quả tú lâm ở vị trí Cách Giác, như ngày Mão giờ Sửu, ngày Sửu giờ Mão vậy. Sửu, là khí ở bắc phương; Mão, là thần đông phương, là vật khác nhau, Gia quyến đồng tình thủy hỏa, là nói không tương hợp vậy. Phân ly, thì càng nặng vậy. )

Cần phải hiểu Thần Sát, đo lường khinh trọng. Thân khắc Sát là nhẹ, Sát khắc thân là càng nặng.
(Chỗ ngũ hành điều khiển, là mệnh vậy. Luận mệnh, tất trước tiên phải lấy cách cục ngũ hành tứ trụ, thứ là luận thần sát cát hung, mà có thể đo lường họa phúc nặng nhẹ. Trước tiên luận ngũ hành, thấy căn cơ dầy mỏng, phân chia cách cục cao thấp, cả hai cùng khảo sát, để không sai lầm. Ở trên có nói các tên Thần Sát như Câu Giảo, Nguyên Vong, Cô Thần, Quả Tú, Cách Giác, Mộc Dục, Trạch Mộ, Tang Điếu, Phục Ngâm, Phản Ngâm, Tam Quy, Tứ Sát, Ngũ Quỷ, Lục Hại, Thất Thương vậy. Lộc Mã Tài Quan, Ấn thụ Thực thần, là ngũ hành sinh khắc chính lý, không thể lấy là tên thần sát. Thân, là nói chỉ can Tuế, hoặc lấy Tuế ở nạp âm mà nói. Cát hung thần sát, hoặc được ở giữa ngày giờ, hoặc phùng ở bên trong Tuế Vận; nhưng lấy Sát khắc thân là trọng, thân khắc Sát là khinh. Lại phải theo ngũ hành, cách cục tứ trụ, suy xét kỳ Tiêu Tức. )

Về phần vòng tròn Bát Quái, căn cứ di văn ở Hà Lạc . Lược chi định vi nhất đoan, nghiên cứu trở thành vạn đầu mối.
(《 Lạc Lục Tử 》 nói: Ngũ hànhTam mệnh, không ở ngoài Cửu cung Bát Quái, vòng tròn suy cứu, thì có rất nhiều đạo lý xuất ra từ chỗ này. Ở đây không giả thuyết, là vì di văn 《 Hà Lạc 》 mà thành vậy. Thủy xuất nhất đoan, 《 Dịch 》 là có Thái Cực vậy. Trở thành vạn đầu mối, biến thành 64 quẻ, 384 hào, cát hung hối lận, không chỉ có vạn đầu mối mà thôi. Nhất đoan vạn tự, tại học giả lược chi cứu chi. Hoặc viết: Lược chi định vi nhất đoan, tức là Nguyên Nhất Khí hề Tiên thiên vậy; nghiên cứu phiên thành vạn đầu mối, tức là chỗ nói ở trong bài phú về Ngũ hành, Tam nguyên, Vận khí, Hành niên, Lộc Mã, Quý Đức các chư thần sát cát hung vậy. )

Nếu gặp Phàn An Tiễn Lộc, phùng thì Bội Ấn thừa hiên; Mã liệt Tài vi, gặp thì lưu mà không phản.

(Sổ khởi đầu là 1 mà hết là ở 9. Là Cửu vậy. Nghiên cứu số cùng là hết, mà cực ở 9. Cửu, là cửu dương thái quá, là số cùng cực sinh hóa vậy. Lý lẽ quý tiện thành bại con người, ai cũng từ ở số mà thôi.
Thí dụ sinh năm Quý Dậu, tháng Nhâm Tuất, ngày Đinh Hợi, giờ Canh Tý, tọa thiên can lộc, trong tháng, ngày, giờ nạp âm là thủy thổ, được thành số tam dương sinh vượng; sinh âm, mệnh tam thần hội ở trên Lộc Mã Phàn An, vậy mệnh này, tất dấn thân ở quý hiển, cho nên nói viết Nếu gặp Phàn An Tiễn Lộc. Như sinh năm Ất Dậu, tháng Đinh Hợi, ngày Kỷ Mão, giờ Đinh Hợi, tháng Hợi tuy cưỡi thủy Mã, gặp Đinh Hợi thổ khắc là Quỷ, ngày Mão tuy tọa Thiên Lộc, lấy thủy thổ đều tử ở Mão, mà gặp Thân Quỷ xung phá bản mệnh, chỗ nói Lộc Mã, trái là là lấy Quỷ tai vậy. Lộc Mã đã mất, tất dự vào Thân Tài để giúp, mà thủy lấy hỏa Tài tự tuyệt ở Hợi, tháng ngày giờ sinh, đều lâm đất tam tài tử tuyệt, chỗ này là số ngũ hành cùng tận vậy. Tuy có Lộc Mã Thân Tài, là chỗ quỷ vật đoạt hết, dẫu có được vận, lấy chung số cùng tận hưu bại, phiêu đãng không nơi trở về, cho nên viết là Mã liệt Tài vi. Hoặc viết: Trước Mã 1 thần là Phàn An, sau Mã một thần là Tiên Sách. Phàn An có vị trí, cùng Thiên nguyên mang hợp, người được quý vậy. Cần phải lâm thêm cát tướng, tuế vận phù thân, lại ở cung vượng tướng, mới có thể nói phúc. Dịch Mã vi liệt, Tài mệnh hưu tù, thì chỉ là đường oán than lao khổ, cuối cùng không có lập thành. Chỗ này lấy lâm tứ trụ, định chủ Phiêu bồng. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Chiếm trừ vọng bái, Giáp Ngọ lầy 4,8 là kỳ; khẩu thiệt văn thư, Kỷ Hợi cẩn thận 32. Thiện Ác bạn nhau, diêu động thiên di; Giáp Sát Trì Khâu, thân nhân khóc tiễn.
(Chỗ này luận hành niên đại tiểu vận, đều từ ở số, số có chẵn lẽ biến hóa, cát hung sinh từ chỗ này vậy. Người sinh Giáp Ngọ, 32, tiểu vận Đinh Dậu, kim thêm đất vượng, Thái tuế Ất Sửu, bản âm đúng khố, lại phùng Dịch Mã nhập Trạch, Thiên Ất gia lâm, cho nên nói Chiếm trừ vọng bái là hỉ. Người sinh Kỷ Hợi, 32, tiểu vận Đinh Dậu ở Điếu Khách, Thái tuế Canh Ngọ ở đất tử, vẫn là cung Lục Ách, tam nguyên thụ khắc, cho nên có họa Khẩu thiệt văn thư. Lại như tuế vận giao cung, nên cần hội ý; Cát hung bạn nhau, họa phúc giao công, không có bất nhân thiên biến mà hưng, cho nên nói Thiện Ác bạn nhau. Diêu động thiên di, là cát hung hối lận sinh ở động vậy.
Thìn Tuất Sửu Mùi, gọi là Tứ Sát, cũng là nói đất Tam Khâu, đều lấy ngũ hành Ngũ mộ. Giả như Kỷ Tị mệnh mộc, được sinh ngày Ất Mùi, đây chính là Bản gia Tam Khâu, lại lấy thêm Dương Nhận, cho nên viết Giáp Sát trì Khâu, rất là nguy hiểm. Tự hành đến xuất nhập, là chỉ Giáp Sát trì Khâu. Chỗ đoạn văn này, cũng được địa lý âm dương , ví dụ Tam nguyên Cửu cung, dụng lưu niên Thái Tuế, quyết kỳ họa phúc, cũng là lý lẽ Tam Mệnh mà nay thuật không đủ. )

Kiêm phải hiểu kỳ thao chấp, quan kỳ bỉnh trì. Luận kỳ cốt trạng dày mỏng, thành khí nhờ ở tâm nguyên. Mộc khí thịnh mà Nhân thịnh, Canh Tân suy mà ít Nghĩa.
(Chỗ này nói tuy dụng ngũ hành định mệnh, thấy quý tiện họa phúc, lo có người hết sức đặc biệt kiệt xuất, giống như Băng Thử Hỏa Quy, khó mà đo lường, thì tam nguyên ngũ hành, không đủ để nói hết vậy. Kiêm phải tường kỳ thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên, tắc thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, tâm thuật chế hành, lưỡng đắc chi hĩ; tướng mạo đức hạnh, nhìn qua lại nhau vậy. Nhân yên sấu tai? Nhân yên sấu tai! Phép này Lạc Lục Tử xem con người, là có hợp ở cách luận của tôi vậy. Ma Y có tâm vô tướng, tướng theo tâm sinh; có tướng vô tâm, tâm theo tướng diệt, cũng là nghĩa này. Giáp Ất mộc chủ Nhân, Bính Đinh hỏa chủ Lễ, Mậu Kỷ thổ chủ Tín, Canh Tân kim chủ Nghĩa, Nhâm Quý thủy chủ Trí. Mộc thịnh thì Nhân thịnh, kim suy thì Nghĩa ít, còn lại đều tượng sự biết khí, biết đến chiếm sự, chỗ này lấy ngũ hành phối ngũ thường, định khí lượng con người vậy. )

Ác diệu gia mà có hỉ, Nghĩ kỳ đại khí; phúc tinh lâm mà họa phát, Dĩ biểu người hung.
(Tu ở thân, đức mới chân, cho nên viết, Trung hiếu Nhân Nghĩa, là thuận đức vậy. Tuy lâm chư sát, lại là Quyền tinh; phú quý mà kiêu, tự rước sai lầm. Cho nên viết, bội ngạo vô lễ, là nghịch đức vậy. Thiện không mất thiện báo, làm ác tự rước họa. Chỗ này Lạc Lục Tử cảnh giới vậy. Nghĩ, biểu thì hai chữ rất có ý nghĩa. Ác diệu nên gia họa, trái lại là có hỉ, quân tử không thể không có đại khí vậy. Bởi vì người có đủ nhận thức rộng lớn, trung hiếu nhân nghĩa, cẩn thận lễ phép, họa làm sao mà có? Cho nên viết là Nghĩ. Phúc tinh lâm nên hỉ trái lại là có họa, là mệnh tiểu nhân là làm ngông cuồng vậy. Bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa, bội nghịch vô lễ, họa sao mà tránh? Cho nên viết Dĩ Biểu. 《 Ngữ 》 viết: Hung nhân hung kỳ cát, cát nhân cát kỳ hung, là chỗ này vậy. Chỗ này nhận đoạn văn ở trên Thao chấp bỉnh trì, cốt trạng tâm nguyên, là nói: Quân tử, kiến Tiểu nhân vậy. )

Xứ định cầu động, khắc không hết mà khó chuyển; cư an hỏi nguy, có trong hung mà nói cát.
(Chỗ này Lạc Lục Tử dạy người đạo lý cầu danh mưu động, xu cát tị hung vậy. Thiên mệnh ở đức, cũng phải luận khắc ta, khắc nó. Ta khắc nó thì thành Quyền, bị nó khắc thì thành Quỷ. Là khắc là Tài, không khắc không thực. Chỗ nói xứ định cầu động, khắc không hết là khó chuyển, hành niên tuế vận ngũ hành, đến khắc bản mệnh là Quan, không thể di động, nên yên tĩnh mà đợi. Lại như kẻ sĩ hỏi công danh, không xung không khắc, thò khó lấy phát việt. Cư an hỏi nguy, có trong hung mà nói cát. Quân tử cư thì xem tượng mà ngắm từ, động thì xem biến là ngắm xem, là lấy từ ngày có cát không có bất lợi. Mà bắt đầu cát hung họa phúc vậy, không phải thánh nhân, ai có thể suy xét được trước lúc chưa nảy sinh chứ? Nếu có thể xu cát tị hung, cư an lo nguy, cũng để mà không có sai lầm vậy. )

Quý mà vong tiện, tai tự sinh Xa; mê mà không phản, họa theo hoặc khởi.
(Quân tử thấy mệnh trời, mà không dám cầu phúc ở trời; Tiểu nhân vô lễ với mệnh trời, mà không biết ở lúc phúc ở bản thân. Quý mà vong tiện, mê mà không phản, không thể cư an hỏi nguy, mà chuyển chỗ định cầu động, là lấy tai tự sinh Xa, họa tòng hoặc khởi, đến nỗi vong thân bại gia mà không hối lỗi, cũng không không khốn khổ chăng? Xa, là tranh chấp cùng cực, hoặc là đam mê tửu sắc. )

Thù thường dịch cựu, xứ biến là manh nha; phúc thiện họa dâm, khác điềm cát hung.
(Động Tĩnh là then chốt của lợi hại, có lo là cánh cửa họa phúc. Nói không thể không cẩn thận, then chốt không thể không khảo sát. Tiểu nhân không biết thiên mệnh, không thủ thường đạo, con thường mạng sống của mình, thì họa dâm bắt đầu từ chỗ này vậy. Quân tử đắc thời mà động, thất thời mà thủ, thế thiên hành đạo, lo ở khinh động, thì phúc thiện từ chỗ này mà sinh vậy. 《 Dịch 》 viết: Cát hung hối lận, là sinh ở động vậy. Lại viết: Cát hung, là tượng được mất vậy. Nhà tích thiện, tất có dư khánh; nhà không tích thiện, tất có dư tai. Lại viết: Biết đạo tiến thoái tồn vong, duy chỉ có Thánh nhân ư? Chỗ này Lạc Lục Tử đại giới ở bài cuối cùng vậy. )
Về phần Công Minh, Quý chủ, đoạn văn trên vẫn còn chưa nhận thức đủ; Cảnh Thuần, Trọng Thư, kỳ diệu là không ghi hình đối chiếu.
(Quản Công Minh, Tư Mã quý chủ, Quách Cảnh Thuần, Đổng Trọng Thư, đây là Tứ hiền tài, tham thiên áo diệu con người, nguyên lý tính mệnh, tượng số cùng âm dương, biết quá khứ tương lai cát hung, đoạn văn trên không nhận thức biến hóa, kỳ diệu là không ghi hình đối chiếu, lời nói tạo hóa thâm ẩn, không dễ độ lượng. Lạc Lục Tử không nói danh tính, không biết người thời nào. Xem câu phú, tự nói ra từ Lan Dã, lại xưng cùng với Quách Cảnh Thuần, nghi ngờ người thời Lục Triều (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần kế tiếp nhau đều đóng đô ở Kiến Khang, tức Nam Kinh, Trung Quốc ngày nay), gần thời kỳ nhà Lương Chiêu Minh. Chỗ ở Chiêu Minh, là Lăng Lan Dã vậy. Hoặc là nói thời Chu Linh Vương Thái tử thời nhà Tấn, là vu khống. )

Nói rõ thời vua đã qua, cái gương tiền hiền, hoặc chỉ lấy nhà Trần bàn bạc, hoặc ước chữ mà thiết lý, còn lại nhiều hoặc ít, hai nghĩa khó tinh. Nay tham tường được mất, tu bổ biếu tặng, là cái gương quy tâm, treo vĩnh viển nơi trong sạch, xa rơi nơi nhung lụa, ngàn hi vọng được một.
(Phàm luận ngũ hành, không rời khỏi đạo vậy, là không xa rời thế sự vậy, cũng không xa tời người và vật vậy. Hoặc ước chữ mà thiết lý, hoặc chỉ lấy nhà Trần bàn bạc, ở trong Thần Sát giao tham, cát hung hỗ thể, là biết thông đạo ngũ hành, nhớ vật khó cùng, trong lúc truyền bá, sao nói ít tu bổ? Lạc Lúc Tử cuối cùng nói chỗ này, là nói làm phú, tường di văn Thánh xưa, gươg soi tiền hiền được mất, chữ nhiều mà nói đơn giản, đạo diệu mà nghĩa thâm, hiển nhân tàng dụng, là Kim chỉ nam của ngũ hành tam mệnh vậy. Hậu học tính toán chỗ này mà phát minh, làm cho người điếc thông, mù thành sáng, trải qua trăm đời mà vô tận, tính thống nhất không đổi. Xem đầu đến cuối, luận thông thần hợp biến, tung hoành ngang dọc, đều không chìm ở thuật của ông ấy; nói lời cảnh giới, có nhiều phù hợp với đạo. Nếu Lạc Lục Tử, chẳng lẽ không phải kẻ sĩ viên thành, cao thượng lưu truyền vậy ư? )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Thông Huyền Tử biên soạn

Lạc Lục Tử chú giải Phú

Kim phùng Dần Ngọ Tuất phương cát,
Bính Mậu Tị Ngọ hỉ khánh đức.
Giáp Ất Dần Mão là Tài thần,
Nhâm Quý Nhuận Hạ là thương khắc.

(Canh dụng Đinh là Quan, Tân dụng Bính là Quan, hỉ Bính Đinh, thích Dần Ngọ Tuất. Lợi Tị Ngọ Mùi đất hỏa vượng, là hướng lộc lâm quan. Tân Tị, Canh Ngọ là quý. Giả như Canh Thân Tân Dậu, Canh Ngọ Tân Mùi, Canh Dần Tân Mão, Canh Tý Tân Sửu, Canh Thìn Tân Tị, Canh Tuất Tân Hợi, đây là 12 cung mệnh. Kim lại lấy hỏa là Quan, mộc là Tài. Hỏa đến Thân Dậu Hợi Tý Sửu vô khí, mộc đến Thân Dậu Tuất Tý Sửu khí suy, là Tài mệnh vô khí, mệnh bần tiện vậy. Nếu tháng ngày giờ sinh gặp vượng tướng, tọa đất Ngọ Tị Dần Mùi, có thể là quý mệnh. Nếu không gặp hỏa, thì không phải là quý mệnh. Thấy Nhâm Quý Hợi Tý thủy, là bối Quan bối Lộc, không thành khánh hỉ vậy. Được đủ Dần Ngọ Tuất, là Quan thần nhập cục. Thiên nguyên đủ Mậu Quý, là hóa hỏa Quan cục. Địa chi đủ Tị Ngọ, là Ám Quan cục. Lại thêm gặp mộc thần phụ trợ, là hợp với Thượng cục. Trụ có Nhâm Quý Hợi Thân Tý Thìn thủy, hỉ gặp Mậu Kỷ, khắc thủy là cứu, lại là Ấn quý. Kiến Giáp Ất Dần Mão Hợi là Tài, gọi là Tài khố. Không có hình hại, Tài khố thụ thực, có thể đoán lấy phát tài. Bối Lộc không phùng đất Quan Ấn quý, chỉ gặp mộc vượng, là mệnh kinh thương phát tài. )

Nhâm Quý tứ quý Tị Ngọ vinh,
Mậu Kỷ vinh Quan Tài Bính Đinh.
Giáp Ất Khúc Trực đều hung địa,
Canh Tân Ấn hiển phụ Long Lân.

(Nhâm Quý, là chân thủy vậy, hỉ Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi Tị Ngọ là phương cát. Vì Nhâm dụng Kỷ là Quan, Quý dụng Mậu là Quan, Tị Ngọ là đất Quan lộc. Tứ vị thổ, đều là đất nguyên tự vượng. Thượng tuần tháng 4, tháng 5, trung thượng tuần tháng 6, cùng hạ tuần tháng 3, sinh Quan hữu khí là có thể thành khánh. Thủy lấy thổ là Quan vị, nếu gặp Giáp Ất Hợi Mão Mùi Dần mộc là phá Quan. Khắc hại nhẹ, thì quan thấp danh ít; khắc hại nặng, thì không được quan. Được Canh Tân kim thần vượng tướng, có thể cứu trợ, trái lại là chủ quý. )

Hỏa hỉ cung Thìn Thân Hợi Tý,
Nhâm Quý quan vượng thổ cô cùng.
Mậu Kỷ thoái thần Giáp Ất tiến,
Kim tài vinh hiển lộc hưng long.

(Hỏa thấy Nhâm Quý, vì Bính dụng Quý là Quan, Đinh dụng Nhâm là Quan, là chân đạo tạo hóa ký tế. Kiến Hợi Tý là Chính Quan vị, Đinh Hợi Bính Tý là Quý thần, Thìn Thân Hợi Tý là lấy quý. Phùng thổ là Lục Hại, không có cứu thì bần. Lại phùng Giáp Ất vượng tướng là có cứu, Canh Tân Tị Dậu Sửu là mệnh tài lộc vậy. )

Thổ gặp Dần Mão Mùi Hợi cục,
Giáp Ất vinh quan kim phá lộc.
Canh Tân bối Lộc thích Bính Đinh,
Nhâm Quý trong Thìn hưởng phúc bền.

(Mậu Kỷ gặp Hợi Mão Mùi là quý. Mậu tìm Ngọc Thỏ (Mão) Kỷ Trư đầu (Hợi) là quý mệnh. Lại phùng đất vượng lộc vượng quan, gặp Canh Tân Tị Dậu Sửu Thân Tuất, thì phá lộc không quý. Tháng 4, tháng 8 càng nặng. Được Bính Đinh là cứu thần. Lại như Mậu kiến Bính, Kỷ kiến Đinh không thể không cứu, gọi là thiên Âm thiên Dương. Nếu Mậu kiến Đinh, Kỷ kiến Bính, mới là Cứu thần. Hoặc sinh tháng 7, tháng 8, hỏa tử tù vô khí, là không thể cứu. Kiến Hợi Tý Thìn là Tài khố, chủ phát tài. Thiếu mộc một Quan, ví dụ cũng có thể thấy. Hỉ Tị Dậu Sửu Thân Tân Canh, ghét Bính Đinh Viêm thượng hỏa cục. Thích Nhâm Quý Hợi Tý là Ấn cứu trợ, Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi là Tài. )

Người hiền đạt hiểu rõ quyết này,
Người ngu muội đam mê chuyển thịnh.

(Phàm luận mệnh, trước rõ thiên can, sau luận địa chi, cùng nạp âm là Cửu cung Tam Nguyên. Phân ra làm Tam tài Thiên, Địa, Nhân. Luận ngũ hành tứ trụ, gặp nhất âm nhất dương gọi là Đạo, thiên âm thiên dương gọi là Tật. )

Mậu Kỷ Giáp Ất mộc cách đình,
Sinh vượng Quan quý Đế vương lâm.

(Mậu Kỷ nếu phùng can chi khí mộc vượng tướng, hoặc kiến Kỷ Hợi, Quý Hợi là chân Quan tinh trường sinh. Chủ địa vị cực phẩm, lại sinh tháng vượng, không có hình xung, là phú quý song toàn. Là nói xem khinh trọng. )

Nhâm Quý Mậu Kỷ thổ phương vượng ,
Đại tài phân thuận tường Thượng cách.

(Nhâm Quý kiến Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thổ, sinh tháng Tị Ngọ, thổ vượng tướng là quý. )

Canh Tân đông chí Nhất Dương sinh,
Bính Đinh sinh khí phúc như lâm.

(Người sinh Canh Tân, sau tiết Đông Chí sinh Nhất Dương, có hỏa ấm áp. Mộc dần dần đến vượng, có thể sinh Bính Đinh hỏa, là Quan là Lộc. )

Bính đến Hạ chí Nhất Âm trường,
Hợi Tý Nhâm Quý đất Thiên Quan.

(Chỗ này nói rõ thủy hỏa có tượng ký tế thành công. Như mùa Hạ khí mỏng thì sớm phát. Hạ chí Nhất Âm trường, thủy dần dần vượng, cho nên Quan Lộc sinh vượng vậy. )

Người sinh Lục Giáp ở tháng Dần,
Kiến Lộc bất phú không khác biệt.

(Người sinh Lục Giáp, tháng giêng kiến Bính Dần là tháng sinh mang Lộc. Là khắc thê tuyệt tự, mệnh bần tiện. Giáp lấy Kỷ làm vợ, dụng Tân là Quan tinh làm con, đều tuyệt ở Dần. Gọi là đất Kim tuyệt Thổ tù, Lộc Mã thê tử đều tuyệt, không thành quý khí. Nếu dụng Bính Dần là Thực thần có khí, phải là người Giáp kiến Canh Thân, người Ất Tân hoặc Dậu Tuất, nhưng ở Thất Sát, đất Quỷ vượng, gặp Dần sinh hỏa, Quỷ hàng phục hóa Quan là quý.)

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
Người Ất nhiều Tân sinh tháng Dậu,
Quỷ vượng thân suy mang tật xâm.

(Người Ất kiến Tân, là can đầu kiến Quỷ, danh là Thất Sát. Người Ất kiến Dậu, thân cư đất Bạch Hổ vô khí, lại gặp Thất Sát khắc thân, sao không mang bệnh tật? Người Giáp kiến Canh cũng như vậy, nếu người không mang bệnh tật, thì yểu thọ. )

Từ Quán Học Đường chủ khoa danh,
Nếu không Quan quý định hư danh.

(Mệnh phùng Từ Quán Học Đường, Từ Quán là đất Quan Lộc trường sinh, Học Đường là đất Bản Chủ trường sinh. Có Quan quý, có khoa danh, lấy quý mệnh xem. Không có Quan quý, là người hư danh. Trước nói có Ấn, là Giáp kiến Quý Hợi Tý vậy. )

Khôi tinh nếu cũng phùng Quan vị,
Định là Thần đồng phúc ẩn quý.

(Khôi tinh, là trong tuần 10 ngày Giáp Thìn đến Quý Sửu vậy. Nếu bản mệnh gặp vị trí Quan tinh, phùng Quan quý Học Đường, thì ứng với khoa Thần đồng. Thí dụ người Quý Sửu, kiến Mậu Thân, là cùng ở trong một tuần Giáp Thìn vậy. )

Lâm quan phùng xứ người tôn kính,
Thiên Mã Tài khố là quý mệnh.

(Mệnh phùng lâm quan, nhiều người kính trọng, Thiên Mã là luận Thê Tài. Như Giáp kiến Kỷ là vợ, là Tài, Thìn là Tài khố, có thể xem là mệnh phát tài hiển đạt. Nếu Thê Tài lâm 2 vận vượng tướng, hoặc gặp tiếp ở Thái Tuế, đa số chủ việc hôn nhân, xuất nhập, tu tạo. Giả như người Giáp Ngọ, Kỷ thổ là vợ, là Mã, đến vận Thân Dậu Tuất. Ngọ là Nhân nguyên, đến tây phương đất hỏa tuyệt tử, Kỷ thổ tự bại, có kim vượng. Thổ là Tài Lộc, Nhân nguyên Tài đều vô khí. Lại như sinh Bính Ngọ, vận đến tây phương, Bính kiến Quý là Quan, Quý thủy bại ở tây phương, là Quan suy. Bính lấy Tân là Mã, là Tài, Dậu Tuất có Tân kim, kim là Tài của Bính, Tân vượng là Mã. Đến Dậu kiến Mã, sợ xung bản mệnh, yểm tàng không xung , cũng đoán là mệnh phát tài. )

Mệnh phạm quý địa đắc hanh thông,
Mệnh suy gặp vượng không đón phúc.

(Mệnh tọa quý địa, hành hướng Lộc, hướng Tài vận, có thể nói là vinh hiển. Nguyên mệnh phùng Quan quý vượng tướng, vận tuy hung, vị tất là họa. Như người sinh Nhâm Quý, hành vận Tị Ngọ Mùi, là phát. Người Bắc đến vận Nam phương, mậu dịch nhận lấy lợi dầy. Mệnh gặp hưu tù, không có Quan quý, vận hành quý địa, không thể thành khánh hỷ. Mệnh vượng vốn có Quan tinh ở mệnh, vận cũng bối lộc, Thái tuế xung hại, có Quan thì dừng quan. Hành vận Chủ Bản trường sinh, cũng bãi quan mất chức. Cùng sinh địa hưu tù là như nhau. Như người Giáp Ất kiến Hợi, vì đất Quan bệnh, cho nên nói hưu tù. Sinh địa tương phùng, cũng nói Quan tinh bệnh tuyệt, người làm quan, nên lui thân né tránh. Nếu nhị vận Thái tuế cùng lâm, Tang Điếu, Khâu Mộ, Giáp Sát, chủ khóc thanh. Lỏa Hình giáp Sát tự chủ, ô hô! ).

Bát Cô Ngũ Mộ là Tăng đạo,
Phá tổ đồng bồng cô độc nhân.

(Giả như trong tuần Giáp Tý, Tuất Hợi là Không Vong, là Lục Hư, can thuộc Hợi Tuất. Tuất nam hành 3 vị là Mùi, Mùi đông hành 3 vị là Thìn, Thìn bắc hành 3 vị là Sửu, Sửu tây hành 3 vị là Tuất, 4 vị trí Thìn Tuất Sửu Mùi, là Cô Quả Ngũ Mộ, đa số là người phá tổ cô độc phiêu bồng, là mệnh Cửu Lưu. Tam nguyên khắc hại, là mệnh cô độc. Khắc hại nếu nhẹ, hợp nhập bỏ mệnh. Như gặp chân Cô Thần, là mệnh khắc thê hại tử. Thông Huyền Tử giải thích, chân bản không phải của Lạc Lục Tử, là tự soạn tập, cùng Từ Tử Bình là giống nhau. )

descriptionQuyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú EmptyRe: Quyển 11-Tăng Ái Phú, Tiêu Tức Phú

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết