Tứ trụ bài định, Tam Tài thứ phân. Chuyên dĩ nhật thượng Thiên nguyên, phối hợp bát tự can chi, chi trung hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu.
Phàm xem mệnh, trước tiên xem tứ trụ năm tháng ngày giờ, thứ đến phân ra Thiên, Địa, Nhân tam nguyên. Can là Thiên nguyên, Chi là Địa nguyên. Lấy bên trong chỗ tàng của địa chi là Nhân nguyên. Năm là gốc căn bản, tháng là đề cương, ngày là mệnh chủ, giờ là phân dã. Cho nên lấy thiên nguyên nhật chủ phối hợp, lấy kỳ Quan quý, Tài Ấn, Quỷ bại, Thương tranh. Việc này luận can chi bát tự có thấy hay không thấy hiện ra. Tạo ra sinh, vượng, chế, khắc, suy, tuyệt, chỉ là do bên trong sở tàng ở địa chi mà tạo ra vậy, không có thì không có thời. Trong Tứ quý có mộ, tuyệt thuộc dư khí, ngũ hành hưu vượng mà phối hợp với sinh tử, hình xung khắc phá mà biến hóa vậy. Hoặc tam hợp, lục hợp là đất quý hiển, tuy có Lộc Mã, Thê tài , Tử tôn, Phụ mẫu, Huynh đệ, đều là thấy hay không thấy hiện ra, không có thời mà không có vậy.
Thần Sát tương bạn, khinh trọng giác lượng.
Thần là Quý nhân vậy. Sát là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, xem tiết khí nông hay sâu, hoặc có khứ Quan lưu Sát, hoặc có khứ Sát lưu Quan, tứ trụ hoặc tuế vận cũng cần biết nặng, nhẹ mà đo lường vậy.
Như là Giờ gặp Thất Sát, thấy chưa chắc là hung. Tháng chế can cường, Thất Sát trái lại thành quyền ấn.
Việc này là luận Thời thượng nhất vị quý cách, chỉ dụng một vị, phương có thể thành quý. Vị trí khác không cần thấy tiếp. Bắt đầu là thanh quý. Như năm tháng ở bên trên lại thấy tiếp thì trái lại là mệnh sớm bị gian khổ. Cần có nhật can sinh vượng, không sợ hình thương, gặp Dương Nhận là người có tính cách nặng kiên cường, câu chấp, bất khuất, như trong tứ trụ gốc có chế phục, lại cần có hành vận Quan vượng, tất nhiên về sau có thể phát phúc, lại không có thể nói chuyên chế phục, quý là ở được đạo trung hòa, chính là nói Tận pháp vô dân. Giả như [ Giáp Thân, Bính Dần, Ất Mão, Tân Tị ], mệnh này chuyên dụng nhật can vượng, thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, mệnh này vốn là của Sử Di Viễn Vệ Vương vậy. [ Nhâm Tý, Canh Tuất, Mậu Tuất, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, hành Bính Dần vận Đông phương, tay trắng phát tài thành gia. [ Canh Tý, Mậu Tý, Mậu Thân, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Niên thượng chế phục, thiếu niên đăng đệ, làm quan đến chức Thượng Thư, chính là bát tự của Lý Như Khuê vậy.
Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng súc vu tứ quý chi trung.
Chỗ này luận Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Tứ Quý là Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, chính là khí của trời đất không thuần chính, là tạp khí vậy. Cái Thìn bên trong có dư khí Ất mộc, là mộ khố của Nhâm Quý, có Mậu Kỷ là xác định địa vị, Thìn Tuất Sửu Mùi đều tùy theo chỗ khí tàng mà nói. Bốn vị này là tích trữ ẩn chứa tạp khí, là Quan tinh, Tài khí, Lộc Mã, Ấn thụ của ta vậy. Cần phải xem tứ trụ có thiên nguyên thấu xuất chữ nào là phúc, thứ đến phân ra tiết khí nông sâu. Như Sát vượng Quan thiếu, cần có chế phục, không hỉ Tài, nếu chủ vượng tương xung cần có hành Tài vận Khố vượng, đại để là đất tụ phúc, không thể bị phá thương, như không có chỗ kỵ, thì đại phát tài.
Giả như [ Bính Tuất, Mậu Tuất, Giáp Ngọ, Kỷ Tị ], là Tạp khí Tài Quan cách. Mệnh này dụng Tân Quan, Kỷ là Tài, trong Tuất có Tân kim dư khí, Mậu Kỷ thổ là Tài, là mệnh Sử Thái Sư Việt Vương. [ Tân Sửu, Nhâm Thìn, Bính Tuất, Ất Mùi ], bát tự này là mệnh của Thiệu Mân. Hành Quan Ấn vận, thiếu niên sớm đăng khoa, làm quan đến Ngự Sử. [ Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn ], bát tự này cũng có đủ Thìn Tuất Sửu Mùi, sao mà Tỉ Kiếp nhiều, lại là Thổ trọng Kim mai, hành Dậu vận thân vượng, là đất quay lưng lại đuổi đi, cho nên chỉ là người phụ trách văn thư, công danh không thành, cuối cùng bản thân góa vợ, cô độc.
Quan tinh Tài khí trường sinh, trấn cư vu Dần Thân Tị Hợi.
Chỗ này là Tài Quan sinh vượng ở Tứ Mạnh: Dần Thân Tị Hợi, chính là ngũ hành gặp đất Trường sinh. Như [ Nhâm Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần ], mệnh này trước vinh sau nhục, Kỷ dụng Giáp là Quan, trong Hợi có Giáp mộc Trường sinh, Kỷ dụng Nhâm là Tài, trong Thân có Nhâm thủy Trường sinh, Kỷ dụng Bính là Ấn thụ, trong Dần có Bính hỏa Trường sinh, trong Tị có Canh kim Trường sinh, là cách cục Tứ mạnh. [ Nhâm Dần, Ất Tị, Quý Hợi, Canh Thân ], bát tự này ban đầu hành đến vận Bính Ngọ, Đinh Mùi là vận tốt, vừa đến Dậu Tuất Hợi, trong Tị có Bính Mậu Tài Quan tử ở Dậu, dụng thần bị tổn thương, gia đình tiêu tan, vợ con đều không còn nữa.
Canh thân thời phùng Mậu nhật, danh Thực Thần can vượng chi phương. Tuế Nguyệt phạm Giáp Bính Dần Mão, thử nãi Ngộ nhi bất Ngộ.
Chỗ này chính là Thực thần chuyên vượng cách. Mậu lấy Canh là Thực thần, ở trong có Canh kim Kiến Lộc, Mậu thổ dụng thủy là Tài, trong Thân có thủy Trường sinh, chính là Tài vượng vậy. Hoặc dụng Ất là Quan tinh, càng có thể hợp Mão trong có Ất mộc, thành Mậu thổ quan quý khí. Như tứ trụ thấu xuất Giáp Bính Dần Mão bốn chữ, thì phá mất Thân trong có Canh là quý khí, chỗ này chính là Ngộ nhi bất Ngộ (gặp mà không gặp) vậy. [ Bính Tý, Kỷ Hợi, Mậu Thìn, Canh Thân ], bát tự này chính là cả đời thành nhân viên đích xác, do lộ mất chữ Bính, nhưng phải đọc sách nhiều lần, năm Canh Tý bắt đầu cống nạp, vận hành Giáp Thìn thủy thổ khố ở Thìn, dụng thần nhập mộ, chết ở Bắc Kinh.
Nguyệt sinh nhật can vô Thiên Tài, nãi Ấn thụ chi danh.
Chỗ này chính là luận Ấn thụ cách, vốn là thập Can sinh Ta vậy. Là Phụ mẫu, là khí sinh Ta, lại có thể Quan tinh hộ Ta, cho nên Ấn thụ không có lo sợ Thương quan. Chủ yếu là sinh vượng, kỵ tử tuyệt, như trong tứ trụ gốc có Quan tinh thì càng tốt, kỵ gặp Tài vận. Như hành Quan vận thì phát, nếu hành đến đất Tài vượng là Tham Tài phôi Ấn, tai họa trăm điều, hành vận tử tuyệt phải chết.
Nhật Lộc cư thời một Quan tinh, hào Thanh vân đắc lộ.
Chỗ này luận Quy Lộc cách, trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh thì mới thành cách này, tên gọi là Thanh vân đắc lộ. Cần nhất là nhật can sinh vượng, kiêm hành đến đất Thực thần, Thương Quan là có thể phát phúc.
Nhưng Quy Lộc có 6 điều kỵ:
(1) Có Xung hình,
(2) Có xảy ra hợp,
(3) Có Đảo Thực,
(4) Có Quan tinh,
(5) Có thiên can tháng, ngày giống nhau,
(6) Có thiên can năm, tháng giống nhau.
Phạm 6 điều này thì không thể lấy thành quý vậy.
Giả như: [ Giáp Tý, Bính Tý, Quý Sửu, Nhâm Tý ], mệnh này là Trương Thống Lĩnh, chính là có chữ Tý nhiều mà tụ thành phúc quy về Lộc. [ Giáp Tý, Đinh Sửu, Ất Sửu, Kỷ Mão ], mệnh này là Thái Văn Huy, thuật sĩ đều đồng ý mệnh này nhờ đọc sách mà có công danh, sau học nghề thầy thuốc, hành vận Tân Tị, năm Canh Tý mất Lộc, chỗ này không phải là Nhật Lộc quy thời. 《 Độc Bộ nói 》: "Ất mộc vô căn, sinh lâm sửu nguyệt. Kim đa chuyển quý, hỏa thổ tắc chiết."
Phàm xem mệnh, trước tiên xem tứ trụ năm tháng ngày giờ, thứ đến phân ra Thiên, Địa, Nhân tam nguyên. Can là Thiên nguyên, Chi là Địa nguyên. Lấy bên trong chỗ tàng của địa chi là Nhân nguyên. Năm là gốc căn bản, tháng là đề cương, ngày là mệnh chủ, giờ là phân dã. Cho nên lấy thiên nguyên nhật chủ phối hợp, lấy kỳ Quan quý, Tài Ấn, Quỷ bại, Thương tranh. Việc này luận can chi bát tự có thấy hay không thấy hiện ra. Tạo ra sinh, vượng, chế, khắc, suy, tuyệt, chỉ là do bên trong sở tàng ở địa chi mà tạo ra vậy, không có thì không có thời. Trong Tứ quý có mộ, tuyệt thuộc dư khí, ngũ hành hưu vượng mà phối hợp với sinh tử, hình xung khắc phá mà biến hóa vậy. Hoặc tam hợp, lục hợp là đất quý hiển, tuy có Lộc Mã, Thê tài , Tử tôn, Phụ mẫu, Huynh đệ, đều là thấy hay không thấy hiện ra, không có thời mà không có vậy.
Thần Sát tương bạn, khinh trọng giác lượng.
Thần là Quý nhân vậy. Sát là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, xem tiết khí nông hay sâu, hoặc có khứ Quan lưu Sát, hoặc có khứ Sát lưu Quan, tứ trụ hoặc tuế vận cũng cần biết nặng, nhẹ mà đo lường vậy.
Như là Giờ gặp Thất Sát, thấy chưa chắc là hung. Tháng chế can cường, Thất Sát trái lại thành quyền ấn.
Việc này là luận Thời thượng nhất vị quý cách, chỉ dụng một vị, phương có thể thành quý. Vị trí khác không cần thấy tiếp. Bắt đầu là thanh quý. Như năm tháng ở bên trên lại thấy tiếp thì trái lại là mệnh sớm bị gian khổ. Cần có nhật can sinh vượng, không sợ hình thương, gặp Dương Nhận là người có tính cách nặng kiên cường, câu chấp, bất khuất, như trong tứ trụ gốc có chế phục, lại cần có hành vận Quan vượng, tất nhiên về sau có thể phát phúc, lại không có thể nói chuyên chế phục, quý là ở được đạo trung hòa, chính là nói Tận pháp vô dân. Giả như [ Giáp Thân, Bính Dần, Ất Mão, Tân Tị ], mệnh này chuyên dụng nhật can vượng, thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, mệnh này vốn là của Sử Di Viễn Vệ Vương vậy. [ Nhâm Tý, Canh Tuất, Mậu Tuất, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, hành Bính Dần vận Đông phương, tay trắng phát tài thành gia. [ Canh Tý, Mậu Tý, Mậu Thân, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Niên thượng chế phục, thiếu niên đăng đệ, làm quan đến chức Thượng Thư, chính là bát tự của Lý Như Khuê vậy.
Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng súc vu tứ quý chi trung.
Chỗ này luận Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Tứ Quý là Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, chính là khí của trời đất không thuần chính, là tạp khí vậy. Cái Thìn bên trong có dư khí Ất mộc, là mộ khố của Nhâm Quý, có Mậu Kỷ là xác định địa vị, Thìn Tuất Sửu Mùi đều tùy theo chỗ khí tàng mà nói. Bốn vị này là tích trữ ẩn chứa tạp khí, là Quan tinh, Tài khí, Lộc Mã, Ấn thụ của ta vậy. Cần phải xem tứ trụ có thiên nguyên thấu xuất chữ nào là phúc, thứ đến phân ra tiết khí nông sâu. Như Sát vượng Quan thiếu, cần có chế phục, không hỉ Tài, nếu chủ vượng tương xung cần có hành Tài vận Khố vượng, đại để là đất tụ phúc, không thể bị phá thương, như không có chỗ kỵ, thì đại phát tài.
Giả như [ Bính Tuất, Mậu Tuất, Giáp Ngọ, Kỷ Tị ], là Tạp khí Tài Quan cách. Mệnh này dụng Tân Quan, Kỷ là Tài, trong Tuất có Tân kim dư khí, Mậu Kỷ thổ là Tài, là mệnh Sử Thái Sư Việt Vương. [ Tân Sửu, Nhâm Thìn, Bính Tuất, Ất Mùi ], bát tự này là mệnh của Thiệu Mân. Hành Quan Ấn vận, thiếu niên sớm đăng khoa, làm quan đến Ngự Sử. [ Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn ], bát tự này cũng có đủ Thìn Tuất Sửu Mùi, sao mà Tỉ Kiếp nhiều, lại là Thổ trọng Kim mai, hành Dậu vận thân vượng, là đất quay lưng lại đuổi đi, cho nên chỉ là người phụ trách văn thư, công danh không thành, cuối cùng bản thân góa vợ, cô độc.
Quan tinh Tài khí trường sinh, trấn cư vu Dần Thân Tị Hợi.
Chỗ này là Tài Quan sinh vượng ở Tứ Mạnh: Dần Thân Tị Hợi, chính là ngũ hành gặp đất Trường sinh. Như [ Nhâm Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần ], mệnh này trước vinh sau nhục, Kỷ dụng Giáp là Quan, trong Hợi có Giáp mộc Trường sinh, Kỷ dụng Nhâm là Tài, trong Thân có Nhâm thủy Trường sinh, Kỷ dụng Bính là Ấn thụ, trong Dần có Bính hỏa Trường sinh, trong Tị có Canh kim Trường sinh, là cách cục Tứ mạnh. [ Nhâm Dần, Ất Tị, Quý Hợi, Canh Thân ], bát tự này ban đầu hành đến vận Bính Ngọ, Đinh Mùi là vận tốt, vừa đến Dậu Tuất Hợi, trong Tị có Bính Mậu Tài Quan tử ở Dậu, dụng thần bị tổn thương, gia đình tiêu tan, vợ con đều không còn nữa.
Canh thân thời phùng Mậu nhật, danh Thực Thần can vượng chi phương. Tuế Nguyệt phạm Giáp Bính Dần Mão, thử nãi Ngộ nhi bất Ngộ.
Chỗ này chính là Thực thần chuyên vượng cách. Mậu lấy Canh là Thực thần, ở trong có Canh kim Kiến Lộc, Mậu thổ dụng thủy là Tài, trong Thân có thủy Trường sinh, chính là Tài vượng vậy. Hoặc dụng Ất là Quan tinh, càng có thể hợp Mão trong có Ất mộc, thành Mậu thổ quan quý khí. Như tứ trụ thấu xuất Giáp Bính Dần Mão bốn chữ, thì phá mất Thân trong có Canh là quý khí, chỗ này chính là Ngộ nhi bất Ngộ (gặp mà không gặp) vậy. [ Bính Tý, Kỷ Hợi, Mậu Thìn, Canh Thân ], bát tự này chính là cả đời thành nhân viên đích xác, do lộ mất chữ Bính, nhưng phải đọc sách nhiều lần, năm Canh Tý bắt đầu cống nạp, vận hành Giáp Thìn thủy thổ khố ở Thìn, dụng thần nhập mộ, chết ở Bắc Kinh.
Nguyệt sinh nhật can vô Thiên Tài, nãi Ấn thụ chi danh.
Chỗ này chính là luận Ấn thụ cách, vốn là thập Can sinh Ta vậy. Là Phụ mẫu, là khí sinh Ta, lại có thể Quan tinh hộ Ta, cho nên Ấn thụ không có lo sợ Thương quan. Chủ yếu là sinh vượng, kỵ tử tuyệt, như trong tứ trụ gốc có Quan tinh thì càng tốt, kỵ gặp Tài vận. Như hành Quan vận thì phát, nếu hành đến đất Tài vượng là Tham Tài phôi Ấn, tai họa trăm điều, hành vận tử tuyệt phải chết.
Nhật Lộc cư thời một Quan tinh, hào Thanh vân đắc lộ.
Chỗ này luận Quy Lộc cách, trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh thì mới thành cách này, tên gọi là Thanh vân đắc lộ. Cần nhất là nhật can sinh vượng, kiêm hành đến đất Thực thần, Thương Quan là có thể phát phúc.
Nhưng Quy Lộc có 6 điều kỵ:
(1) Có Xung hình,
(2) Có xảy ra hợp,
(3) Có Đảo Thực,
(4) Có Quan tinh,
(5) Có thiên can tháng, ngày giống nhau,
(6) Có thiên can năm, tháng giống nhau.
Phạm 6 điều này thì không thể lấy thành quý vậy.
Giả như: [ Giáp Tý, Bính Tý, Quý Sửu, Nhâm Tý ], mệnh này là Trương Thống Lĩnh, chính là có chữ Tý nhiều mà tụ thành phúc quy về Lộc. [ Giáp Tý, Đinh Sửu, Ất Sửu, Kỷ Mão ], mệnh này là Thái Văn Huy, thuật sĩ đều đồng ý mệnh này nhờ đọc sách mà có công danh, sau học nghề thầy thuốc, hành vận Tân Tị, năm Canh Tý mất Lộc, chỗ này không phải là Nhật Lộc quy thời. 《 Độc Bộ nói 》: "Ất mộc vô căn, sinh lâm sửu nguyệt. Kim đa chuyển quý, hỏa thổ tắc chiết."