KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
Tứ trụ bài định, Tam Tài thứ phân. Chuyên dĩ nhật thượng Thiên nguyên, phối hợp bát tự can chi, chi trung hữu kiến bất kiến chi hình, vô thời bất hữu.
Phàm xem mệnh, trước tiên xem tứ trụ năm tháng ngày giờ, thứ đến phân ra Thiên, Địa, Nhân tam nguyên. Can là Thiên nguyên, Chi là Địa nguyên. Lấy bên trong chỗ tàng của địa chi là Nhân nguyên. Năm là gốc căn bản, tháng là đề cương, ngày là mệnh chủ, giờ là phân dã. Cho nên lấy thiên nguyên nhật chủ phối hợp, lấy kỳ Quan quý, Tài Ấn, Quỷ bại, Thương tranh. Việc này luận can chi bát tự có thấy hay không thấy hiện ra. Tạo ra sinh, vượng, chế, khắc, suy, tuyệt, chỉ là do bên trong sở tàng ở địa chi mà tạo ra vậy, không có thì không có thời. Trong Tứ quý có mộ, tuyệt thuộc dư khí, ngũ hành hưu vượng mà phối hợp với sinh tử, hình xung khắc phá mà biến hóa vậy. Hoặc tam hợp, lục hợp là đất quý hiển, tuy có Lộc Mã, Thê tài , Tử tôn, Phụ mẫu, Huynh đệ, đều là thấy hay không thấy hiện ra, không có thời mà không có vậy.

Thần Sát tương bạn, khinh trọng giác lượng.
Thần là Quý nhân vậy. Sát là Thất Sát vậy. Nếu Thần Sát hỗn tạp, xem tiết khí nông hay sâu, hoặc có khứ Quan lưu Sát, hoặc có khứ Sát lưu Quan, tứ trụ hoặc tuế vận cũng cần biết nặng, nhẹ mà đo lường vậy.
Như là Giờ gặp Thất Sát, thấy chưa chắc là hung. Tháng chế can cường, Thất Sát trái lại thành quyền ấn.
Việc này là luận Thời thượng nhất vị quý cách, chỉ dụng một vị, phương có thể thành quý. Vị trí khác không cần thấy tiếp. Bắt đầu là thanh quý. Như năm tháng ở bên trên lại thấy tiếp thì trái lại là mệnh sớm bị gian khổ. Cần có nhật can sinh vượng, không sợ hình thương, gặp Dương Nhận là người có tính cách nặng kiên cường, câu chấp, bất khuất, như trong tứ trụ gốc có chế phục, lại cần có hành vận Quan vượng, tất nhiên về sau có thể phát phúc, lại không có thể nói chuyên chế phục, quý là ở được đạo trung hòa, chính là nói Tận pháp vô dân. Giả như [ Giáp Thân, Bính Dần, Ất Mão, Tân Tị ], mệnh này chuyên dụng nhật can vượng, thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, mệnh này vốn là của Sử Di Viễn Vệ Vương vậy. [ Nhâm Tý, Canh Tuất, Mậu Tuất, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Nguyệt thượng chế phục, hành Bính Dần vận Đông phương, tay trắng phát tài thành gia. [ Canh Tý, Mậu Tý, Mậu Thân, Giáp Dần ], thời thượng Thiên Quan, Niên thượng chế phục, thiếu niên đăng đệ, làm quan đến chức Thượng Thư, chính là bát tự của Lý Như Khuê vậy.

Tài Quan Ấn thụ toàn bị, tàng súc vu tứ quý chi trung.
Chỗ này luận Tạp khí Tài Quan Ấn thụ cách. Tứ Quý là Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, chính là khí của trời đất không thuần chính, là tạp khí vậy. Cái Thìn bên trong có dư khí Ất mộc, là mộ khố của Nhâm Quý, có Mậu Kỷ là xác định địa vị, Thìn Tuất Sửu Mùi đều tùy theo chỗ khí tàng mà nói. Bốn vị này là tích trữ ẩn chứa tạp khí, là Quan tinh, Tài khí, Lộc Mã, Ấn thụ của ta vậy. Cần phải xem tứ trụ có thiên nguyên thấu xuất chữ nào là phúc, thứ đến phân ra tiết khí nông sâu. Như Sát vượng Quan thiếu, cần có chế phục, không hỉ Tài, nếu chủ vượng tương xung cần có hành Tài vận Khố vượng, đại để là đất tụ phúc, không thể bị phá thương, như không có chỗ kỵ, thì đại phát tài.
Giả như [ Bính Tuất, Mậu Tuất, Giáp Ngọ, Kỷ Tị ], là Tạp khí Tài Quan cách. Mệnh này dụng Tân Quan, Kỷ là Tài, trong Tuất có Tân kim dư khí, Mậu Kỷ thổ là Tài, là mệnh Sử Thái Sư Việt Vương. [ Tân Sửu, Nhâm Thìn, Bính Tuất, Ất Mùi ], bát tự này là mệnh của Thiệu Mân. Hành Quan Ấn vận, thiếu niên sớm đăng khoa, làm quan đến Ngự Sử. [ Tân Mùi, Tân Sửu, Canh Tuất, Canh Thìn ], bát tự này cũng có đủ Thìn Tuất Sửu Mùi, sao mà Tỉ Kiếp nhiều, lại là Thổ trọng Kim mai, hành Dậu vận thân vượng, là đất quay lưng lại đuổi đi, cho nên chỉ là người phụ trách văn thư, công danh không thành, cuối cùng bản thân góa vợ, cô độc.

Quan tinh Tài khí trường sinh, trấn cư vu Dần Thân Tị Hợi.
Chỗ này là Tài Quan sinh vượng ở Tứ Mạnh: Dần Thân Tị Hợi, chính là ngũ hành gặp đất Trường sinh. Như [ Nhâm Thân, Tân Hợi, Kỷ Tị, Bính Dần ], mệnh này trước vinh sau nhục, Kỷ dụng Giáp là Quan, trong Hợi có Giáp mộc Trường sinh, Kỷ dụng Nhâm là Tài, trong Thân có Nhâm thủy Trường sinh, Kỷ dụng Bính là Ấn thụ, trong Dần có Bính hỏa Trường sinh, trong Tị có Canh kim Trường sinh, là cách cục Tứ mạnh. [ Nhâm Dần, Ất Tị, Quý Hợi, Canh Thân ], bát tự này ban đầu hành đến vận Bính Ngọ, Đinh Mùi là vận tốt, vừa đến Dậu Tuất Hợi, trong Tị có Bính Mậu Tài Quan tử ở Dậu, dụng thần bị tổn thương, gia đình tiêu tan, vợ con đều không còn nữa.

Canh thân thời phùng Mậu nhật, danh Thực Thần can vượng chi phương. Tuế Nguyệt phạm Giáp Bính Dần Mão, thử nãi Ngộ nhi bất Ngộ.
Chỗ này chính là Thực thần chuyên vượng cách. Mậu lấy Canh là Thực thần, ở trong có Canh kim Kiến Lộc, Mậu thổ dụng thủy là Tài, trong Thân có thủy Trường sinh, chính là Tài vượng vậy. Hoặc dụng Ất là Quan tinh, càng có thể hợp Mão trong có Ất mộc, thành Mậu thổ quan quý khí. Như tứ trụ thấu xuất Giáp Bính Dần Mão bốn chữ, thì phá mất Thân trong có Canh là quý khí, chỗ này chính là Ngộ nhi bất Ngộ (gặp mà không gặp) vậy. [ Bính Tý, Kỷ Hợi, Mậu Thìn, Canh Thân ], bát tự này chính là cả đời thành nhân viên đích xác, do lộ mất chữ Bính, nhưng phải đọc sách nhiều lần, năm Canh Tý bắt đầu cống nạp, vận hành Giáp Thìn thủy thổ khố ở Thìn, dụng thần nhập mộ, chết ở Bắc Kinh.

Nguyệt sinh nhật can vô Thiên Tài, nãi Ấn thụ chi danh.
Chỗ này chính là luận Ấn thụ cách, vốn là thập Can sinh Ta vậy. Là Phụ mẫu, là khí sinh Ta, lại có thể Quan tinh hộ Ta, cho nên Ấn thụ không có lo sợ Thương quan. Chủ yếu là sinh vượng, kỵ tử tuyệt, như trong tứ trụ gốc có Quan tinh thì càng tốt, kỵ gặp Tài vận. Như hành Quan vận thì phát, nếu hành đến đất Tài vượng là Tham Tài phôi Ấn, tai họa trăm điều, hành vận tử tuyệt phải chết.

Nhật Lộc cư thời một Quan tinh, hào Thanh vân đắc lộ.
Chỗ này luận Quy Lộc cách, trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh thì mới thành cách này, tên gọi là Thanh vân đắc lộ. Cần nhất là nhật can sinh vượng, kiêm hành đến đất Thực thần, Thương Quan là có thể phát phúc.
Nhưng Quy Lộc có 6 điều kỵ:
(1) Có Xung hình,
(2) Có xảy ra hợp,
(3) Có Đảo Thực,
(4) Có Quan tinh,
(5) Có thiên can tháng, ngày giống nhau,
(6) Có thiên can năm, tháng giống nhau.
Phạm 6 điều này thì không thể lấy thành quý vậy.
Giả như: [ Giáp Tý, Bính Tý, Quý Sửu, Nhâm Tý ], mệnh này là Trương Thống Lĩnh, chính là có chữ Tý nhiều mà tụ thành phúc quy về Lộc. [ Giáp Tý, Đinh Sửu, Ất Sửu, Kỷ Mão ], mệnh này là Thái Văn Huy, thuật sĩ đều đồng ý mệnh này nhờ đọc sách mà có công danh, sau học nghề thầy thuốc, hành vận Tân Tị, năm Canh Tý mất Lộc, chỗ này không phải là Nhật Lộc quy thời. 《 Độc Bộ nói 》: "Ất mộc vô căn, sinh lâm sửu nguyệt. Kim đa chuyển quý, hỏa thổ tắc chiết."

descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
Dương thủy điệp phùng Thìn vị, thị Nhâm kỵ Long bối chi hương.
Như người sinh ngày Nhâm Thìn, gặp chữ Thìn nhiều là quý, chữ Dần nhiều là phú. Cái Nhâm lấy Kỷ thổ là Quan tinh, Đinh hỏa là Tài tinh, Thìn Tị cùng xung Tuất trong có Quan khố, cho nên quý vậy. Chữ Dần nhiều, có thể hợp Ngọ trong có Tài, cho nên phú vậy. [ Bính Tý, Giáp Ngọ, Nhâm Thìn, Giáp Thìn ], mệnh này cả đời viên thành, thuật sĩ thấy rõ là thiếu niên sớm thuận lợi trong thi cử, đều lấy là Nhâm kỵ long bối cách, đồng ý là có thể kham nổi làm quan. Tôi ( tác giả) thì lấy Tài cách xem, vận Mùi Dậu Tuất vận chưa tốt, đến đây quả quyết là mất lộc, mà không có con cháu nối dõi.

Âm mộc độc ngộ Tý thời, vi Lục Ất Thử quý chi địa.
Cách này là rất sợ chữ Ngọ xung giờ Bính Tý, chữ Tý nhiều là tốt, gọi là Tụ quý vậy. Hoặc trong tứ trụ có chữ Canh, chữ Tân, chữ Dậu, chữ Sửu bên trong đều có Canh Tân kim, thì giảm điểm số, Tuế quân, Đại vận cũng vậy. Như Nguyệt bên trong có Quan tinh, thì không dụng cách này. Nếu trong tứ trụ gốc không có Quan tinh, phương dụng cách này. [Đinh Mão, Nhâm Tý, Ất Tị, Bính Tý ], chỗ này đều là dựa vào bát tự, thuật sĩ gọi là Lục Ất Thử quý, đồng ý có công danh, hành Thân vận phục vụ rất được ở Bắc Kinh, đến Mùi vận thì công việc bị đình lại. Chỗ này tốt nhất là lấy Ấn xem.

Canh nhật toàn phùng Nhuận hạ, kỵ Nhâm Quý Tị Ngọ chi phương. Thời ngộ Tý Thân, kỳ phúc giảm bán.
Việc này luận là Tỉnh lan xoa cách. Chỗ này là ngày Canh Thân, Canh Thìn, Canh Tý, ba Canh mà thủy cục là quý. Sao vậy? Cái Canh dụng Đinh làm Quan mà Tý xung Ngọ, Canh dụng mộc là Tài mà Thân xung Dần, Tuất trong có Mậu thổ là Ấn của Canh mà có Thìn xung, lại có Thìn Tuất là Tài Ấn, cho nên lấy Thân Tý Thìn là Tam xoa (ba cái xiên ngang) đến xung Dần Ngọ Tuất là Tài Quan Ấn thụ. Như trong tứ trụ dụng Thân Tý Thìn đủ là quý, không chỉ có Canh kim, được tam Canh đủ thì càng tốt, hoặc Mậu Tý, Bính Thìn cũng không ngại. Hỉ hành Đông phương Tài địa, Bắc phương Thương Quan, Nam phương hỏa địa không thành quý, việc này chính là phương Nhâm Quý Tị Ngọ vậy.
Giả như: [ Canh Tý, Canh Thìn, Canh Thân, Đinh Sửu ], mệnh này là Vương Đô Thống Chế, Đinh Sửu xuất ra bên cạnh, được 14 quan dưới cấp; [ Canh Thân, Mậu Tý, Canh Thìn, Bính Tuất ], bát tự này cả đời cũng quá vâng chịu, sau nói hầu hạ cha, riêng sau đó cũng phát tài một chút mà không quý. Sao vậy? vì sinh Giang Nam thì làm cây Quất, sinh Giang Bắc thì làm cây Gai, là do đất nơi sinh ra vậy.

Nhược phùng Thương quan nguyệt kiến, như hung xử vị tất giai hung.
Việc này luận Thương Quan cách. Phép coi Thương Quan ắt phải cần thương tận, mà không thành họa. Tứ trụ như gốc có Quan tinh, thì thương tổn càng nặng, gốc không có Quan tinh, thương tổn thì nhẹ. Như tam hợp, hội khởi Sát cùng Thương quan, cùng với vận hành đất Thương Quan, thì họa không thể nói vậy. Cho nên, Thương Quan kiến Quan, là họa trăm điều. Như can năm gánh nhận sinh mệnh, có Thương Quan, Thất Sát là họa rất nặng, gọi là Phúc cơ thụ thương, cuối cùng không có thể trừ khứ, nếu Nguyệt Thời thượng thấy đất Thương Quan, có thể phát phúc. Như mệnh Nữ nhân có Thương Quan thì chủ khắc phu, nếu thấy hợp nhiều thì là Ti tiện, không làm kỷ nữ cũng là dâm loạn, không phải nô tỳ thì là sư ni. Sao vậy? Thương quan là thương phu. Nếu trong tứ trụ có Tài đến hợp khứ, không phải là phụ nữ hiền lành vậy. [ Kỷ Mão, Quý Dậu, Mậu Dần, Canh Thân ], địa chi lục xung, lấy Mậu nhật, giờ Canh Thân là cách không thành, chỉ tốt là lấy Thương Quan xem, hành Nam phương vận, thi cử bình thường không có lợi, khắc vợ không có con cháu, Kỷ vận thì tốt.

Nội hữu Chính Đảo Lộc phi, kỵ Quan tinh diệc hiềm ky bán.
Bên trong có Chính đảo Lộc phi; chính là Đinh Tị được nhiều chữ Tị. Tị xung xuất Hợi trong có Nhâm thủy là Quan tinh, chính là Chính Phi thiên Lộc Mã cách vậy. Nếu Tân nhật được chữ Hợi nhiều, Hợi xung xuất Tị trong có Bính hỏa là Quan tinh, chính là Đảo phi thiên Lộc Mã vậy. Bên trong nếu có Nhâm Quý Thìn Tị, đều là Quan tinh bị trói buộc chân vậy, thì bị giảm điểm số, Tuế Vận cũng luận như vậy. Nhâm Thìn, Tân Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, bát tự của Đô Đường Vương, là Đảo phi thiên lộc mã cách. Mậu Dần, Quý Hợi, Quý Hợi, Quý Hợi, bát tự này chính là người ăn mày, lộ xuất chữ Mậu là Quan tinh, vì thế thành hạ mệnh vậy.

Lục Quý nhật, thời phùng Dần vị, tuế nguyệt phạ Mậu Kỷ nhị phương,
Chỗ này luận Hình Hợp cách. Lấy ngày Lục Quý làm chủ tinh, dụng Mậu thổ là chính khí Quan tinh, hỉ gặp giờ Giáp Dần, dụng Tị trong có Mậu thổ, Quý nhật đắc Quan tinh, như Canh Dần hình thể không thành, suy ra giờ Giáp Dần, vốn là hành vận cùng Phi thiên lộc mã giống nhau. Sợ trong tứ trụ có chữ Mậu chữ Kỷ, lại sợ Canh Dần đả thương chữ Giáp hình phá con, kỵ chữ Thân, kỹ càng mà suy ra. Giả như Quý Dậu, Tân Dậu, Quý Mão, Giáp Dần, mệnh này là Lâu Tham Chính. Kỷ Mão, Ất Hợi, Quý Mùi, Giáp Dần, bát tự này có Niên thượng lộ xuất chữ Kỷ, cho nên công danh lận đận, liên tục khoa thi hỏng.

descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
Giáp Tý nhật tái ngộ Tý thời, úy Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ.
Chỗ này luận là Tý Diêu Tị cách. Giáp dụng Tân Quan. Tân lộc ở Dậu, hai chữ là Ấn thụ của Giáp mộc, hợp xa Tị trong có Bính Mậu, hợp động Dậu trong có Tân, là Quan của Giáp. Mộc hỉ tháng là Nhâm Quý Hợi Tý, kỵ Canh Tân Thân Dậu, chính là kim đến tổn thương Giáp mộc, Ngọ đến xung Tý, Tý Sửu hợp trói buộc, thì không thể khứ hợp xa vậy. Giả như Canh Thân, Giáp Tuất, Giáp Tý, Giáp Tý, mệnh này chính là La Ngự Sử, tuy nhiên là Diêu Tị, nhưng mà Niên thượng có Canh Thân, xung khắc Giáp vận, hành Mậu Dần, Dần hình Tị, trái lại thành họa, năm Ất Sửu bãi quan. Quý Sửu, Kỷ Mùi, Giáp Tý, Giáp Tý, bát tự này chính là một người thích đánh bạc. Gia nghiệp làm sạch, bên trong sợ Canh Tân Thân Dậu Sửu Ngọ, chỗ này chi năm chính lộ xuất chữ Sửu, hành Đông phương gặp đất Lộc bại, cho nên bần cùng.

Tân Quý nhật đa phùng Sửu địa, bất hỉ Quan tinh. Tuế thời phùng Tý Tị nhị cung, hư lợi hư danh.
Chỗ này luận là Sửu diêu Tị cách. Chỉ có hai ngày Tân Sửu, Quý Sửu có thể dụng, nhưng trong tứ trụ cần không có một điểm Quan tinh, phương dụng cách này. Cái Tân dụng Bính Quan, Quý dụng Mậu Quan. Bính Mậu lộc ở Tị. Duy chỉ có Sửu thì có thể Diêu Tị, Bính Mậu lộc xuất ra vậy. Không thích hợp Điền Thực vị trí Tị, chữ Tý hợp trói buộc không thể xa được, như Thân Dậu được một chữ là đẹp. Giả như Ất Sửu, Kỷ Sửu, Quý Sửu, Quý Sửu, chính là mệnh của Diệp Thị Lang. Lại có Đinh Sửu, Quý Sửu, Tân Sửu, Kỷ Sửu, mệnh này của Vương Thông Phán vậy. Quý Sửu, Ất Sửu, Quý Sửu, Quý Hợi, bát tự này tay trắng phát tài thành gia, chính là Sửu diêu Tị cách chân chính vậy.

Củng Lộc Củng Quý, Điền thực tắc hung.
Chỗ này luận Củng Quý Củng Lộc hai cách, chính là hai vị trí hư không là đất Củng quý lộc, tứ trụ không thể chiếm mất cung Quý Lộc, thì Điền thực không dung nạp vật, chỉ vì Quan tinh vinh hiển vậy. Kỳ Lộc Quý là so với vật dụng hưng thịnh, nếu trống rỗng thì có thể chứa đựng được vật, chính là Quý Lộc hiển vinh. Kinh nói: Quan sùng lộc hiển, xác định là đất Giáp lộc. Lại kỵ tổn thương mất ngày giờ, đều là không tạo điều kiện để dung nạp vật. Giả như Đinh Tị, Bính Ngọ, Giáp Dần, Giáp Tý, mệnh này là Vương Lang Trung, chỗ này là hai Giáp đến xen lẫn Sửu là quý khí bên trong, Sửu trong có Quý thủy là dư khí, Tân kim mộ khố, Kỷ thổ thừa vượng chính là Tài của Giáp mộc, cho nên không thành quý, về sau vận hành Tân Sửu loại trừ thông phán, nhập vận Canh Tý, Canh kim khắc Giáp mộc, lại là tháng Ngọ, xung phá Giáp Tý, Thiên Trung Sát tức là Không Vong, không được xen lẫn quý, làm mất quý nhân, phá hủy một ngày. Canh Tuất, Mậu Tý, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, mệnh này chính là mang theo vật quý báu, 11 tuổi hành Canh Dần được cất lên, 19 tuổi năm Mậu Thìn được Thám Hoa, hành Tân Mão vận điền thực tốt.

Thời thượng Thiên Tài, biệt cung kỵ kiến.
Chỗ này luận Thời thượng Thiên Tài cách, lại có tên là Thời Mã cách, cùng với Thời Thượng Thiên Quan là giống nhau, dụng Thời thượng Thiên nguyên, cùng chi bên trong Nhân nguyên, chỉ cần Thời thượng có một vị thì mới thành quý, nếu có vị khác thì nhiều Tiện, khó lấy Thiên Tài mà luận, cần có thân vượng, không có khắc phá, nếu Tài vượng lập tức phát liền. Giả như Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Mậu Tý, Nhâm Tý, là mệnh Thiệu Thống Chế vậy. Đinh Sửu, Kỷ Dậu, Đinh Sửu, Tân Hợi, bát tự này là Thời thượng Thiên Tài, chi tháng lại là Dậu Sửu hội cục, nói là thấy kỵ cung khác vậy, cho nên gia nghiệp bị phá hết.

Lục Tân nhật phùng Mậu Tý, hiềm Ngọ vị vận hỉ tây phương.
Chỗ này luận là Lục âm triều dương cách, Tân kim đến Hợi là đất Lục Âm, mà được giờ Tý, cho nên viết là Lục Âm hết một xứ Nhất dương sinh, cho nên nói là Lục âm triều dương cách, chính là nói Âm hết thì Dương đến. Tân dụng Bính Quan, Quý là Thọ tinh, chỉ cần có một vị trí chữ Tý, nếu nhiều thì không phải, hỉ can Mậu, Mậu đến hợp Quý, động Tị trong ám tàng Bính, Bính là Tân là Quan tinh. Trong Tứ trụ kỵ thấy Ngọ xung phá Tý lộc. Tây phương chính là kim vượng địa, cho nên là hỉ vậy, Đông phương đất Tài khí là thứ yếu, không nên hành Nam phương đất hỏa, Bắc phương đất thủy Thương Quan vậy.
Giả như Mậu Thìn, Canh Thân, Tân Mão, Mậu Tý, mệnh này là Tất Phủ Ngộ, vận hành Tây phương. Lại như Kỷ Mùi, Tân Mùi, Tân Mùi, Mậu Tý, mệnh này là Vương Quận Ngọc, vận hành Đông phương. Giáp Dần, Giáp Tuất, Tân Mão, Mậu Tý, mệnh này là Nhất Sinh Viên, thuật sĩ đều lấy là Lục Ấm triều dương cách mà suy ra, hành Đông phương vận phá gia, kiểm tra tuổi hỏi bổ sung lại, đến xem lại lấy Tham Tài phá Ấn mà luận.

Ngũ hành ngộ nguyệt chi Thiên Quan, tuế thời trung diệc nghi chế phục. Loại vi khứ Quan lưu Sát, diệc hữu khứ Sát lưu Quan, tứ trụ thuần tạp hữu chế, định cư nhất phẩm chi tôn. Lược kiến nhất vị Chính Quan, Quan Sát hỗn tạp phản tiện.
Chỗ này luận Thiên Quan, tức Thất Sát, như trong tứ trụ hoàn toàn không có một điểm Quan tinh, dụng Thất Sát là Thiên Quan. Nếu có Chính Quan, thì là Thất Sát là quỷ, chính là người hay tranh đoạt vậy, cho nên mới nói là hình thấy hay không. Cần nhất là Nhật can sinh vượng, cho nên hỉ thân vượng, sợ xung, hỉ Dương Nhận, chỉ cần có chế phục, không thích hợp tứ trụ thấy Chính Quan, có Huynh thì không hiển Đệ vậy. Hoặc trong tứ trụ phạm Tuế Vận, hoặc là khứ Quan lưu Sát sao vậy? là có thể được chế phục vậy. Nếu Quan Sát hỗn tạp, không thành thanh phúc, nếu chỉ có Thiên Quan Thất Sát là quý. Thất Sát là tiểu nhân, mà tiểu nhân thì nhiều hung bạo, không sợ kỵ chính là có thể lao động lấy để dưỡng người quân tử vậy. Đúng là không chỉ có không thuật lấy khống chế thì không thể thuần phục mà thành dụng vậy. Nếu trong tứ trụ gốc không có chế phục, cần hành vận chế phục. Trong Tứ trụ gốc có chế phục cần hành đến đất Sát vượng; nếu có chế phục lại hành vận có chế phục nữa thì gọi là Tận pháp vô dân vậy.
Giả như Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, mệnh này Vương Chương Minh, chỗ này tháng là Thiên Quan bị chế phục ở Niên thượng, lại gồm cả Nhật tọa Trường sinh, lại vừa có mộc tam hợp, nhật chủ phùng quý, cho nên phát lộc, về sau gặp nhục hình không có áo quan tài để chôn, chỉ có hành vận ban đầu Nhâm Thân là khởi phúc.
Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, Ất Dậu, hai người phụ nữ , bát tự giống nhau, một người thì cực quý, một người thì cực bần mà thọ, là sao vậy? Bởi vì mệnh phụ nữ, quý tiện là theo chồng vậy. Ất Dậu, Tân Tị, Ất Mão, Tân Tị, mệnh này là Chu Cử Nhân, hành vận Mậu Dần, Ất Mão trúng khoa thi, hành Đinh Sửu, Tị Dậu Sửu hội kim cục, chính là Sát trọng, năm Nhâm Tuất mất lộc.

Mậu nhật Ngọ nguyệt, vật tác Nhận khán, thời tuế hỏa đa, khước vi Ấn thụ.
Chỗ này luận Dương Nhận, không phải là Dương là Dê, Chó mà Dương chính là âm dương. Trước một vị là Lộc, là chỉ có Dương nói là có Nhận, Âm thì là không phải. Như Bính Mậu lộc ở Tị, Ngọ là Dương Nhận vậy. Ngày Mậu được tháng Ngọ, đến Ngọ không thành Nhận. Nhận không thành Nhận là sao vậy? Chính là Âm hỏa sinh Dương thổ, gọi là Nguyệt sinh Nhật can, nếu can năm, can giờ lại thấy hỏa, thì chính là Ấn thụ cách.

descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
Nguyệt lệnh tuy phùng Kiến Lộc, thiết kỵ hội Sát vi hung.
Nói chung trong mệnh lấy Tài Quan là quý. Như trong tứ trụ có lấy hợp, lấy Tham hợp vong Quan, lại bao gồm cả hội khởi Thất Sát, trái lại là hung triệu. Mà như Giáp nhật dụng Dậu nguyệt, là Quan tinh chính khí. Như năm giờ là Tý Thìn, thì hội khởi Thân trong có Canh là Thất Sát, chính là quỷ tặc của Giáp vậy, cho nên là hung.

Quan tinh Thất Sát giao soa, khước dĩ hợp Sát vi quý.
Quan tinh chính là thần quý khí. Thuần mà không tạp chính là thanh phúc, tạp mà không thuần liền phá tạo hóa, trong chi có hợp xuất Thất Sát là cát triệu, Kinh nói: Hợp Quan tinh không thành quý, hợp Thất Sát không thành hung, chính là ngũ hành dựa vào cứu trợ, mà như ngày Giáp được giờ Mão, trong Mão có Ất, có thể hợp chữ Canh, là Thiên Quan của Giáp, vốn là hợp Sát vậy. Như nam tử được khí trung hòa, cùng người đều hợp quý. Nữ nhân được, phát sinh nhiều tâm ý không đủ, tuy là đẹp nhưng tính hay vui với ái tình, chủ khắc phu phá tử vậy. Như ngày Canh, tứ trụ thấy Bính là Sát, thì có Thân Thìn hợp khởi Tý là thủy cục đến cứu, Bính hóa thành Quan, thì là cát.

Trụ trung Quan tinh thái vượng, thiên nguyên doanh nhược chi danh.
Đại để con người sinh ra lấy Tài Quan Lộc là quý, lấy khí trung hòa là phúc hậu, bè lũ với khí thiên lệch là phúc bạc. Như Quan tinh thái vượng, Thiên nguyên thân nhược, lại hành về đất Quan vượng, trái lại là thành họa. Mà như ngày Giáp Ất, Thiên nguyên dụng Canh Tân Thân Dậu Tị Sửu là Quan quý, trong tứ trụ Quan tinh đã nhiều, gốc có chế phục thì tốt. Bản thân nhược, dù là hành vận có chế phục chính là có thể phát phúc. Như hành đến đất Quan vượng, chính là tạo hóa thái quá, họa hại phá tài không thể nói hết, vận số cũng vậy. Tân Tị, Canh Tý, Bính Tý, Quý Tị, bát tự này có Quan vượng, hành vận Bính Thân, Bính lâm Thân là vị trí Sát trọng, năm Giáp Tý, tháng 10 mất lộc.

Nhật can vượng thậm vô y, nhược bất vi tăng tức đạo.
Chỗ này luận Thời vượng, bản chủ đắc địa, chính là đất Thời vượng vậy. Là người không nhiễm bệnh trầm kha, về già răng chắc biến thành màu đen, thể cốt mạnh mẽ, tuổi thọ quá số, cách này đa số là xuất tục mà né tránh địa vị, chí hướng vượt lên cao, mộ đạo tu thiện, chính là nhật can quá vượng. Như sinh ngày Canh, tháng giờ ở Thân, hoặc vận lại về Tây phương, Canh lấy hỏa là Quan tinh, hỏa đến Tây phương mà tử, Canh lấy mộc là Tài, mộc đến Tây phương mà tuyệt, đã Tài Quan Lộc Mã đều không có thì đường công danh muốn sao mà sắp bày, cho nên là không có chỗ dựa, cái gọi là mệnh hại xa toàn thân vậy. Giả như Ất Mão, Bính Tý, Bính Ngọ, Quý Tị, mệnh này là Kỳ chân nhân, nhật can vượng ở Đông phương, Nam phương vận vậy.

Ấn thụ sinh nguyệt, tuế thời kỵ kiến Tài tinh, vận nhập Tài hương, khước nghi thối thân tị vị.
Chỗ này luận Nguyệt sinh nhật can, chính là gọi tên Ấn thụ. Ấn thụ thì hỉ Quan tinh, mà sợ Tài khí, nếu thiên can là Tài, chính là Phá Ấn vậy, Ấn thụ chính là khí gốc sinh Ta, cần phải có gốc kiên cố. Như hành Tài vận cần phải lui thân tránh chức vị, nếu không tất nhiên sẽ bị mất chức mà đi bộ vậy. Giả như Canh Tuất, Giáp Thân, Quý Sửu, Đinh Tị, mệnh này Nguyệt trung chính khí, Canh kim Ấn thụ, bản chủ là tạp khí, không hợp Tị trong có Bính hỏa, thành tái Quý, kỳ thủy là thấy tài là Tham tài phá Ấn. Cả đời vất vã, cho nên viết: Ấn thụ ở đất hình khắc, cho nên thân bị loạn li mà mạng vong vậy. Đại vận sau hành đến Kỷ Sửu, lưu niên Bính Dần, tháng tư phá gia, sao vậy? Gốc có Ấn có Thương là Sát, Tuế Vận lại hành Thương vận khí, Canh nhập mộ vậy. Bính Dần, Bính Thân, Quý Sửu, Ất Mão, bát tự này có nhật can Quý thủy, lấy trong Thân có Canh kim là Ấn thụ, Bính hỏa là Tài khắc Canh kim, Ấn thụ bị thương, Hợi vận lập tức bị bệnh lạc huyết mà chết. Cái Ất mộc là Thọ tinh, Ất tử ở Hợi, kim chủ Phế, bị bệnh huyết mà chết.

descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
Kiếp Tài Dương Nhận, thiết kỵ thời phùng. Tuế vận tịnh lâm, tai ương lập chí.
Kiếp Nhận chính là Thiên nguyên ở trên Nhật, là phân tranh tài lộc, vốn là Tỉ kiên vậy. Dương Nhận, là Nhật can gặp trước Lộc một vị trí, mà như Lộc Mã, Giáp lộc ở Dần, Giáp dụng Kỷ thổ là Tài, thấy Mão là Nhận, Nhận đến xâm chiếm cướp đoạt bản thân vậy. Giả như ngày Mậu Ngọ cùng tháng là tương đồng, 2,3 chữ Ngọ Mậu, cộng hưởng xâm chiếm cướp đoạt Quý thủy là Tài, cho nên viết là Kiếp Tài. Lấy Mậu lộc ở Tị trước Thìn một vị, thấy Ngọ, Ngọ có Kỷ thổ khắc Quý thủy, chỗ này gọi là Kiếp tài, Dương Nhận. Cho nên là chủ phá tài tán nghiệp, thoát ly gia đình mất đất, ban ơn mà phản oán, tâm tính bạo ngược, tiến thoái đơn lẻ, trời sinh lấy vợ thứ làm chính, mang tật bệnh phù thủng, tính tình dũng cảm, tham lam, chí nguyện to lớn, tâm hướng lên cao, thương hại không đủ. Nếu đại vận, lưu niên gặp, cạnh tranh nhân tài, nếu không tật bệnh thì cũng liên lụy vợ con vậy.
Giả như Quý Mùi, Ất Mão, Giáp Tý, Kỷ Tị, mệnh này là Nhạc Phi, chỗ này là Kiếp tài, Dương Nhận, hành vận Tân Hợi, lưu niên Tân Dậu, 39 tuổi, hợp khởi Tân Hợi, tai họa khởi ở nơi ngục thất mà vong thân. Mậu Dần, Ất Mão, Giáp Tuất, Giáp Tý, bát tự này có tổ nghiệp, có tử tức, không có huynh đệ, phụ mẫu mất sớm. Bản thân trước mắt là khởi phát, hành Kỷ Mùi, năm Giáp Tý, do có sự tình mà phá tài, mất lộc. Mậu Dần, Kỷ Mão, Giáp Tý, Giáp Tý, bát tự này có tổ nghiệp, có nhiều anh trai, không có tử tức, phụ mẫu cũng mất sớm, vận Đinh Tị, năm Quý Mão, bị huynh đả thương thành tật mà chết, sao vậy? Cái Xuân Mộc không có kim, tuế vận lại thấy Mão vậy.

Nhật can Bối lộc, tuế thời hỉ kiến Tài tinh. Vận chí Tỉ kiên, hào nhật Bối lộc Trục mã.
Lộc là hướng thuận, Bối là nghịch, mà như Giáp được Dần là Lộc, nếu gặp Kỷ Bính là Bối Lộc. Kinh nói: Bối lộc là không có vậy. Chủ trước là sáng, sau là mờ, hỉ Tài tinh, Mậu Kỷ thổ trợ giúp thân, hỏa đến Hợi là vô khí, Tỉ kiên thấy Giáp thì phân tài, Kinh nói: Mã là ở vị trí Tài, là Giáp thấy Dần là xứ sinh vượng; Giáp dụng thổ là Tài, dụng kim là Quan, thổ đến Dần là Bệnh, kim đến Dần là tuyệt, chính là Lộc Mã không phù thân. Phú nói: Mã xếp vào vị trí Tài suy thì cần phải thoái thân mà tránh né địa vị. Chẳng phải nói là lấy đường cùng mà gặp thê lương.

Ngũ hành chính quý, kỵ hình xung khắc phá chi Quan.
Chỗ này luận chính khí Quan tinh. Đề cương là trọng yếu, can năm, giờ cần phải có Tài khí, chính là quý nhân vậy. Kỵ thần hình xung khắc phá mất.

Tứ trụ can chi, hỉ tam hợp lục hợp chi địa.
Phàm can chi có Tam hợp, Lục hợp, chính là thiên địa âm dương vạn vật, đều có cảm ứng tương hợp. Nhưng được cương nhu tương chế, hai phía tương đối do đó có gia quyến, thê thiếp, quý ở trọng đại nhân, gần như là tượng bề trên. Hợp Tài là Quan lộc cùng nhau tương tòng, xá hình là tương chế hình Sát vậy.

Nhật can vô khí, thời phùng Dương Nhận bất vi hung.
Mà như ngày Giáp Thân, gặp giờ Mão là Nhận, chỗ này là Thân trong có Canh kim có thể khắc Mão trong có Ất mộc là Tài, là Mã, là Thê, cần phải gặp Nhận thì không thành hung vậy. Giáp Ngọ, Đinh Mão, Mậu Tý, Mậu Ngọ, bát tự này có Mậu thổ sinh mùa Xuân thì nhược vậy, hỉ có giờ Ngọ là Nhận, lấy kỳ bang trợ thân. Gốc có phúc nghiệp, hành Nam phương Ấn vận, sang thêm đại nghiệp. Nhưng mà Quan Sát hỗn tạp, thi rớt sau bẩm chịu, nạp đủ khứ lấy quốc tử sinh chung.

Quan Sát lưỡng đình, hỉ giả tồn chi, tăng giả khí chi.
Giáp dụng Tân Dậu là Quan tinh, lại thấy Thân Canh, tại sao quyết? Lại thấy tam hợp cùng hỗn, Giáp Ất dụng Canh Tân là quan quý, mà có Tị có Sửu, là Quan Sát hỗn tạp, tuy hành vận chế phục, hoặc khứ Sát dụng Quan, hoặc khứ Quan dụng Sát, phương thành phát phúc. Như mệnh hỗn tạp, năm càng ở đất vượng hỗn Quan Sát, kỳ họa không thể thuật lại.

Địa chi thiên can hợp đa, biến vân Tham hợp vong Quan.
Mà như Giáp dụng Tân là Quan, mà có Bính, thấy Canh là Sát mà có Ất. Ất dụng Canh là Quan, mà Tân là Sát, lại có Bính cùng can chi nhiều hợp, chỗ này là Dương Quan Âm Sát, chính là tạo hóa tất nhiên vậy. Nếu tứ trụ có hợp, vốn là nói Tham hợp vong Quan. Kinh nói: Hợp tinh Quan không thành quý, hợp Thất Sát không thành hung, vốn là Ngũ hành có cứu trợ vậy.

Tứ trụ Sát vượng vận thuần, thân vượng vi Quan thanh quý.
Chỗ này Thất Sát tức là Thiên Quan vậy, hỉ chế phục, tứ trụ bên trong lấy Sát là Quan. Mà như Giáp kỵ Canh là Sát, mà Giáp sinh ở đất Dần, chính là thân vượng, Giáp ám tàng bao Bính trường sinh, thì không sợ kim thành Sát, lấy Sát hóa thành Quan tinh, thì Giáp Canh các chữ có thế lực đặc biệt vượng, mà hành thuần vượng vận, chính thành quý cực phẩm.

Phàm kiến thiên nguyên thái nhược, nội hữu nhược xứ phục sinh.
Chỗ này luận Nhật chủ tự tọa Quan Sát, chính là xứ Nhân nguyên nhược phục sinh, chính là Thai Sinh nguyên mệnh. Mà như Giáp Thai ở Thân, Thân trong có Canh kim là Thiên Quan, Nhâm thủy là Ấn thụ, thụ khí tương cảm, khí sinh Thai nguyên. Được Nhâm thủy Trường Sinh, Dậu ở trên ngôi Mộc Dục, Tuất ở trên ngôi Quan Đái, Hợi ở trên ngôi Lâm Quan, như người mà tính ngày nhất định sinh mộc, cách này chỉ cần vận Quan tinh vượng, phương có thể phát phúc, không phù hợp gặp xung phá hình khắc.

descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
Trụ trung Thất Sát toàn chương, thân vượng cực bần vô cứu.
Thương Quan chính là lộc của Thất Sát. Bại Tài chính là Mã của Thất Sát, Thiên Quan chính là thân của Thất Sát, tứ trụ nếu có, thân vượng kiến Lộc, thì không thành phú vậy.

Vô Sát nữ nhân chi mệnh, nhất quý khả tác lương nhân.
Đại để xem nam mệnh, cùng nữ mệnh không giống nhau, nữ mệnh không lấy Quan tinh, không lấy Tài tinh, không lấy Quý nhân, không lấy tam hợp, lục hợp, không cần Bại Mã sinh vượng chiến bại dữ dội, không cần can chi cương cường Dương Nhận, không cần Tỉ kiên, chính là thấy như thế, sao lại biết là quý tiện vậy? Đáp viết: Nữ nhân hoàn toàn dựa vào chồng , chồng phú quý thì vợ cũng phú quý, chồng bần tiện thì vợ cũng bần tiện, chính là lý lẽ Thiên Địa âm dương vậy. Phàm mệnh nữ nhân, đại hỉ là cần an tĩnh thanh quý, vượng phu vượng tử là tốt. Nếu tuyệt khí cùng hình xung phá hại thì không tốt, nếu nữ mệnh có một quý cùng kẹp thêm quý nhất định thành vợ quý nhân vậy.

Quý chúng hợp đa, định thị ni sư xướng tỳ.
Quý tức là Quan Sát vậy. Quan là chính phu, Sát là thiên phu. Hợp là địa chi ám hợp, tam hợp lục hợp, tâm nhiều không đủ, tuy sinh chất tốt mà tính vui tư tình, không phải là vợ hiền vậy.

Thiên quan thời ngộ chế phục thái quá nãi thị bần nho.
Thiên Quan là mệnh chủ có nhân tính thông minh, cương cường ngạo vật. Nếu trong tứ trụ nhiều chế phục, chính là Tẫn pháp vô dân vậy. Khí trung hòa là phúc hậu, bè đảng thiên lệch là phúc bạc. Giả như Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Quý Hợi, Ất Mão, chỗ này chính là mệnh tú tài tiền chim Nhạn, nguyệt thượng Thiên Quan, do đó thương tàn, mắt mù thọt đủ, lại có văn chương tú khí, cuối cùng là thân bần cùng vậy.

Tứ trụ Thương Quan, vận nhập Quan hương tất phá.
Chỗ này luận Thương Quan, tứ trụ có Quan tinh, vận nhập đất Quan phá vỡ nhẹ, cần phải rõ khinh trọng. Giả như Quý Mùi, Quý Hợi, Tân Mùi, Quý Tị, mệnh này là Ngũ Đô Thừa, Tân lấy Bính là Quan, Tị trong có Bính, trong tháng có Nhâm thủy, thì phá kỳ Quan tinh vậy.

Ngũ hành tuyệt xứ, tức thị Thai Nguyên, sinh nhật phùng chi, danh viết Thụ khí.
Lý Thị Lang mệnh, tức là Thai Nguyên phùng sinh, danh viết Thụ khí. Thi viết "Ngũ hành tuyệt xứ là Thai Nguyên, ngày sinh gặp thì hoàn toàn phú quý. Nếu có gốc địa chi đến để trợ giúp, định là áo mũ vinh quang, xe sớm cưỡi", lý lẽ đo lường có thể lấy biết tinh vi thâm thúy huyền diệu, tính chất đo lường có thể biết lý lẽ sinh tử. Giáp Thìn, Nhâm Thân, Bính Tý, Kỷ Sửu, ngày Bính Tý chính là ngày bào thai, chi hội thủy cục, hỉ Giáp mộc sinh, Kỷ thổ chế, nhất giao vận Giáp Tuất, Giáp Tý thi khoa cử đậu.

descriptionQuyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Hỷ Kỵ Thiên

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết