KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyQuyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Nhân bẩm thiên địa, mệnh chúc âm dương, sinh cư phúc tái chi gian, tẫn tại ngũ hành chi nội. Dục tri quý tiện, tiên quan nguyệt lệnh cập đề cương.
(Tức là, Con người vâng chịu bởi trời đất, sinh mệnh thuộc âm dương, sinh ra nơi phủ đầy trong khoảng không gian nhất định, ở bên trong đều có ngũ hành. Muốn biết quý tiện, trước tiên xem Nguyệt lệnh bằng đề cương).
Giải thích Thơ ca: Đề cương tức là Nguyệt lệnh, đầu tiên xem khí hậu nông sâu mà định cát hung. Quan Ấn cùng Tài thần, kỵ Kiếp xung hình, suy ra vận gặp cát thì là đoán cát, gặp hung thì là luận hung, sinh ở tiết khí thuộc thần nào, quý tiện bần phú đều do định mệnh mà ra.


Thứ đoạn cát hung, chuyên dụng nhật can chủ bản. Tam nguyên yếu thành cách cục, tứ trụ hỉ kiến Tài Quan. Dụng thần bất khả tổn thương, nhật chủ tối nghi kiện vượng.
(Thứ đoán cát hung, chuyên dụng Nhật can vốn là chủ. Tam nguyên cần thành cách cục, tứ trụ hỉ thấy Tài Quan. Dụng thần không thể tổn thương, nhật chủ cần nhất là mạnh mẽ, thịnh vượng) .
Thơ ca giải thích : Chuyên lấy nhật can làm chủ, thứ xem Ấn thụ, Tài Quan. Giáp Tý sinh ở tháng Dậu, trong đó phải tường tận Quan Lộc. Dần Ngọ Tuất ngại Bính Đinh, lại không ưa có Tỉ Kiếp, Thương Quan phá Ấn, trái lại là hạ tiện, không có Kiếp Tài vận. Thìn Tuất Sửu Mùi, tổ tiên để lại tài của, có Mậu Kỷ thì danh đăng kim bảng.
Lại nói: Muốn hỏi Tam Nguyên là sao? Là Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa. Ví như ngày sinh Giáp Tý, thiên can Giáp, địa có Quý là tổ tiên của người, có Ấn thụ Tài Quan là chân thực có thể mừng. Nếu có chỗ này lại không có Thương, làm cho thân ở bàn của hương trời tọa nơi nội các. Lấy dụng Chính Quan làm ví dụ, sợ lấy Kiếp phá Thương Quan. Một vị Chính Tài là tốt, Tài nhiều sinh Sát là tai ương. Tỉ kiên vận hành mất vượng, gặp chỗ này nếu là Nam thì hiến dâng tài năng tốt; thân suy mà gặp Tài vận họa khó đảm nhận.


Niên thương nhật can, danh vi Chủ Bản bất hòa.
( Trụ năm gây tổn thương cho nhậtcan, gọi là Chủ và gốc bất hòa)
Thơ ca giải thích: Năm gặp Thất Sát khắc nhật chủ, tổ tông không có lực mà làm mất đi một nhánh trong gia tộc. Nếu còn tháng ngày cùng giờ Quy Lộc gặp Tài thì chết yểu không còn nữa.
Sát vượng vận gặp là thành họa, Ấn sinh nhiều phúc là tốt đẹp. Tỉ kiên vượng vận đoán không nghi ngờ, chỉ là đơn độc với tấm lều tranh.


Tuế nguyệt thời trung, đại phạ Sát Quan hỗn tạp.
( Năm tháng giờ, sợ nhất là có Quan Sát hỗn tạp)
Thơ ca giải thích: Phàm đại đa số Tài Quan Ấn Thực, đều dựa vào tháng sinh mà dụng. Thấy Tài lấy Tài mà đoán, gặp Quan lấy Quan mà luận.
Gặp Ấn lấy Ấn mà luận, liền suy ra khí nông hay sâu. Tử tuyệt bại suy đều cân đo tính toán, năm sinh tháng vận, quý nhiều gốc nhiều, tổ tiên phát sinh mà cầu lấy quý.


Thủ dụng bằng vu sinh nguyệt, đương thôi cứu vu thiển thâm. Phát giác tại vu viết thì, yếu tiêu tường vu cường nhược. Quan tinh chính khí, kỵ kiến hình xung.
( Lấy dụng đều ở tháng sinh, cần nghiên cứu suy ra ở nông sâu. Phát hiện nằm ở mùa, cần xem kỹ càng ở cường nhược. Quan tinh chính khí, kỵ thấy hình xung).
Thơ ca giải thích : Quan tinh, chính Ấn không hỗn tạp, Tài nhiều không gặp Thương Thực. Còn như Ất Mão thấy tháng giờ là Canh Thìn, gặp Tuất xung mà tổn hại; Giáp sinh tháng Tị Dậu Sửu, lại gặp Ngọ Mùi hỏa cục, như còn Quan vượng gặp xung, can có Ấn là cát dụng.


Thời thượng Thiên Tài, phạ phùng huynh đệ, sinh khí Ấn thụ, lợi Quan vận úy nhập Tài hương.
( Can giờ Thiên Tài sợ gặp Tỉ Kiếp, sinh khí Ấn thụ lợi gặp Quan tinh mà sợ nhập vào đất Tài)
Thơ ca giải thích : năm tháng giờ đến sinh ngày, gọi là Ấn thụ sinh thân. Vận hành Quan Ấn khởi đầu gặp quý trọng, Tài vượng vận gặp thì xung phá Ấn.
Ấn vượng không có chế thì cô đơn mà không thuận lợi, nếu Quan Ấn ngang nhau thì xuất sắc hơn người. Vượng Tài phá Ấn thì mệnh nói là kết thúc, còn được Quan vận là quý mệnh.


Thất Sát Thiên Quan hỉ chế phục, bất nghi thái quá.
( Thất Sát, Thiên Quan hỉ có chế phục, nhưng không nên thái quá)
Thơ ca giải thích: Không có chế nói là Thất Sát, Thất Sát có chế nói là Thiên Quan. Có chế có Sát thì là tốt, một chế một phục là thượng sách.
Chế quá thì bần hàn ngu xuẩn, hỉ hành đến đất Thất Sát. Thân vượng không có chế vượng thân cường, lại cần vận hành hướng về Sát.


Thương quan phục hành Quan vận, bất trắc tai lai, Dương Nhận xung hợp Tuế quân, bột nhiên họa chí.
( Thương Quan lại hành Quan vận thì tai họa đến bất ngờ, Dương Nhận xung hợp với Tuế Quân thì đột nhiên họa đến).
Thơ ca giải thích : Luận kỹ càng Thương Quan hỉ kỵ, kỵ là không cùng đến với Quan. Tuế Quân, Nguyệt kiến, Nhật thần nghi kỵ nhất là hình hại.
Ứng như gặp phải kẻ thù, phẩn nộ sinh ra chém giết khó mà cưỡng lại.

descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Quý nhật tọa hướng Tị Quan, nãi thị Tài Quan song mỹ.
( Ngày Quý tọa hướng Tị có Quan tinh chính là Tài Quan song mỹ)
Thơ ca giải thích: Ngày Quý sinh ở Tị, Tài Quan phúc lộc như thế nào? Tị tàng Bính Mậu là đứng đầu, Bính là Tài thần, Quan ở Tị.
Tháng, giờ, vận cùng đảo xung hình, nhiều bần tiện không nghi ngờ. Tuế Vận Quan Sát lộ phân rõ, giảm phúc mà lấy gian khổ, cực nhọc vậy.


Tài đa thân nhược, chính thị phú ốc bần nhân.
( Tài nhiều mà thân suy nhược chính là Nhà thì giàu mà người thì nghèo)
Thơ ca giải thích: Tài thần mà thấy có 2 hay 3 vị, thân suy phúc thiếu mà nhận nhiều khó khăn. Đoán trước thì giaù có nhiều trân châu, về sau thì phá hại gia đình giống như túi rỗng mà kêu to vậy.
Nhật chủ nhược mà gặp Ấn trợ giúp, bắt đầu hơi thấy có sự giàu sang. Chính Tài thừa vượng là dựa vào vợ mà hưng thịnh, chịu sự mê hoa mà không biết.


Dĩ Sát hóa quyền, định tác hàn môn chi quý khách.
( Lấy sát hóa thành quyền, xác định là thượng khách trong gia đình bần hàn)
Thơ ca giải thích: Ngày Quý tháng gặp Quý Sửu, thiên can có hai khí liền kề giống nhau. Mặc dù gặp Sát mà bản thân kiên cố, Tý Sửu hợp Sát là vũ chức. Không cùng với can chi năm là Sát, gọi là thân và Sát quân bình. Như vậy chỗ này là phú quý song toàn, hiển tổ danh dương phúc lộc bền vững.
Lại nói: Gặp Sát nên hợp cùng xem Ấn, Ấn thụ hóa Sát thành quyền. Sát nhiều cần Thực chế là trước tiên, về sau giàu có nhưng nhất định trước đó không thuận lợi.
Ngày Giáp thấy Canh Thân là Sát, hỉ gặp mộc vượng Đông hành. Bính Đinh Dần Ngọ hỏa táo khô, lại bị chế quá, trái lại là hạ tiện.


Như phùng thử giả, tất sinh tai họa, nghi tinh nghiên hỉ kỵ.
(Như gặp cách này thì nhất định sinh ra tai họa, cần phải nghiên cứu tinh tường hỉ kỵ)
Thơ ca giải thích: Như ngày Giáp Tý, giờ Đinh Mão, chính là gặp Dương Nhận. Tuế vận Tân Dậu nếu cùng gặp nhau thì Đinh phá Tân, Dậu xung Mão mà vô dụng.
Sinh ngày Bính giờ Giáp Tý, năm gặp Mậu hết hỗ trợ. Giáp có thể phá Mậu, Mậu Tý xung, chế thì trái lại là dụng tốt.


Phú nhi thả quý, định nhân Tài vượng sinh Quan.
( Phú mà còn quý, xác định dựa vào Tài vượng sinh Quan)
Thơ ca giải thích: Loại trừ nạn hồng thủy thì phú mà lại quý, xác định dựa vào Tài vượng sinh Quan. Thân cường Tài tích lũy phúc như núi, không lộ Tài Quan đoán là quý.
Tài vượng không có Quan cũng tốt, Tài thần chồng chất mà lộ ra thì hay rong chơi, không ổn định. Nếu lại là chủ suy nhược không có thể sinh, thì định là phú gia bần hán ( nhà thì giàu mà người thì nghèo).


Phi yêu tắc bần, tất thị thân suy ngộ Quỷ.
( Không yểu thì bần, nhất định là thân suy nhược mà gặp quỷ)
Thơ ca giải thích: Giáp sinh Canh kim là Thu vượng, thân suy gặp chế cũng khó mà gánh nổi. Giờ gặp Dần Mão cần phòng chết yểu, sao biết là mộc tuyệt kim vượng? nói không có tật họa nặng thì cũng là cô khổ, sớm cũng phát sinh mà chết yểu. Nhận Thực cần Ấn, họa khước từ mà suy ra là người quý hiển hào kiệt đạt đến trí thức.


Lục Nhâm sinh lâm Ngọ vị, hào Nhật Lộc Mã đồng hương.
( Lục Nhâm sinh ở vị trí Ngọ nói là ngày gặp Lộc Mã đồng hương)
Thơ ca giải thích: Ngày Nhâm sinh ở Ngọ, Ngọ có Đinh Kỷ là Tài Quan. Lại gặp Dần Ngọ Tuất đến mà xem kỹ, hỉ nhất là hình xung Quan Sát vượng.
Lại sợ Tài Quan hiển lộ, Khôi thương Tuế Vận là tai ương. Chính Quan là Lộc Mã Tài hương, tháng, giờ, vận là Ngọ cũng một dạng.

descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Đăng khoa giáp đệ, Quan tinh lâm vô phá chi cung.
( Bước lên khoa Giáp, cung Quan tinh không nên bị phá hại)
Thơ ca giải thích: Sinh ngày Bính có Quan ở tháng Sửu, Tài Quan quy lộc danh truyền. Vật trong Khố hỉ được xung, ngoài trụ cũng hỉ có vận hình xung.
Đến kỳ gặp xung thì quý, vị trí đăng khoa đến Tri huyện. Như còn bên trong trụ có hình xung, tiếp tục ở vận lại gặp nữa thì không tốt.


Nạp túc tấu danh, Tài khố cư sinh vượng chi địa.
( Nạp thóc mà lấy danh tiếng, là đất Tài khố ở nơi sinh vượng)
Thơ ca giải thích: Ngày Đinh Tị, tháng Kỷ Sửu, giờ gặp Tân Sửu là Tài đủ. Can năm Ất Mão trợ thân kiên cố, có Tị hỏa xuất ra để nung luyện.
Sao quản lý Tài đa quy khố, là hai sao thổ kim kết duyên. Phân rõ phải nạp thóc cho triều đình thì kẻ sĩ sẽ danh đăng kim bảng.
Lại nói: Ngày Canh sinh ở tháng Mùi, trong Mùi có Ất mộc là Tài. Tài tinh quy khố cần xung khai, nếu không thì không có nhảy qua được cửa hồng phúc quang vinh.


Quan tinh thái vượng, kinh lâm vượng xứ tất khuynh.
( Quan tinh quá vượng, sợ đến đất vượng nhất định bị ngã)
Thơ ca giải thích: Trong trụ có Quan tinh thái vượng, thân cường trái lại là kỳ thánh phúc. Chủ vượng phương luận không có xung, vận hành Tài địa thì gia đình giàu có.
Thân suy nếu hành Tài địa, hóa quỷ trái lại nhất định gặp nguy cơ là sụp đổ. Nếu như đúng Ấn thụ hỉ dựa vào Tài, cha mất sớm mà không có của để lại lâu dài.


Ấn thụ bị thương, thảng nhược vinh hoa bất cửu.
( Ấn thụ bị tổn thương, nếu như vinh hoa thì cũng không lâu bền)
Thơ ca giải thích: Lục Giáp sinh gặp Quý địa, sợ nhất là có Mậu Kỷ đến xâm hại. Như trụ Tài mà bên ngoài vận gặp thoái tàng, thì tránh được tai họa hình phạt.
Vận không thấy Tài là tốt, trong trụ Tài khí vận may hơn người. Đọc sách biết nhiều sự việc, danh tiếng đề cao nơi Hổ bảng.


Hữu Quan hữu Ấn, vô phá tác lang miếu chi tài.
( Có Quan, có Ấn, không có phá hại đảm nhận tài năng nơi Lang Miếu)
Thơ ca giải thích: Có Ấn gặp ở trên, đẹp nhất là gặp Quan Sát là tốt lành. Vẫn dựa vào phân ra Quan Sát không kiên cố, thì phú quý danh đăng kim bảng.
Kỵ nhất có Tài tinh phá Ấn, lại sợ có Thương Thực phá Quan. Vận hành đúng nơi có Thực thì có nhà tan cửa nát mà hủy hại.


Vô Ấn vô Quan, hữu cách nãi tác triêu đình đại dụng.
( Không có Ấn, không có Quan, có cách chính là được triều đình trọng dụng)
Thơ ca giải thích: Bên trong mệnh không có Quan không có Ấn, cần phải xem có cách là kỳ. Nhâm Kỵ Long Bối cùng phi thiên, Diêu Tị, Triều Dương các cách, Đảo xung, Thực Thương tạp khí. Khôi cương, Nhật Lộc cư thời, Kim Thần , Thử Quý, Tỉnh Lan xoa, lại không có phá, hóa sinh thành quý.


Danh tiêu kim bảng, tu hoàn thân vượng phùng quan. Đắc tá thánh quân, quý tại xung Quan phùng hợp.
( Dang vàng, kim bảng, cần còn có thân vượng gặp Quan. Được phò tá thành quân, quý hiển ở xung Quan gặp hợp)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ cao cường xem xét lý lẽ, nhận lấy Quan tinh có khí. Nếu gặp Tài Ấn trợ giúp căn cơ, không có phá hại thì hài lòng nơi văn trường.
Thương Thực, Kiếp Tài không gặp, Tài Quan vượng khí nắm quyền uy. Bước lên mà lấy Hổ bảng Phượng Hoàng trì mà làm quan.
Lại nói: Hợi xung Tị, tàng Bính là Quan Lộc. Bính Đinh thấu xuất thì gặp tai ương, trái lại Bính gặp Thìn thì phải buộc chân.
Quý Hợi Tị tàng Bính Mậu, là địa vị Quan lộc hiên ngang. Không gặp đất Dần Mậu Tị, xác định địa vị mang dây thao mà làm khanh tướng.


Phi cách phi cục, kiến chi yên đắc vi kỳ. Thân nhược ngộ Quan, đắc hậu đồ nhiên phí lực.
( Không phải cách, không phải cục, thấy thì sao được thành kỳ. Thân suy nhược mà gặp Quan, được mà về sau chỉ là uổng phí mà tốn hao sức lực)
Thơ ca giải thích: Không phải cách, không phải cục thì xét kỹ tường tận, chỉ dựa vào phá tổn, thương hại tinh thần. Thân nhược, Quan nhiều thì trước tiên là quý mà về sau là bần, tốn nhiều công sức là tinh thần quang vinh.
Thân nếu như ở Quan thì khó phát, vận hành thân vượng thì Tài vinh. Quan tinh mà có 1, 2 điểm nhược thì không sao, ngang nhau thì nói là quý mệnh.


Tiểu nhân mệnh nội, diệc hữu Chính Ấn Quan tinh, quân tử cách trung, dã phạm Thất Sát, Dương Nhận.
( Trong mệnh kẻ tiểu nhân, cũng có Chính Ấn, Quan tinh, trong cách quân tử cũng phạm Thất Sát, Dương Nhận)
Thơ ca giải thích: Kẻ tiểu nhân có Chính Quan, Chính Ấn mà gặp thương khắc, hình xung. Ác nhiều thiện ít thì trái lại là hung, có thể suy ra là hay bị gièm pha mà luận.
Người Quân tử có Dương Nhận, Thất Sát, thiện nhiều mà ác ít gặp nhau. Sát tinh hỉ Nhận mà giúp đỡ, chế Sát mà có thân cường thì là mệnh quý.


Vi nhân hảo sát, Dương Nhận tất phạm vu Thiên Quan.
( Là người háo sát, có Dương Nhận nhất định phạm ở Thiên Quan)
Thơ ca giải thích: Dương Nhận nếu gặp Thất Sát, chủ là người tâm độc ác mà hại dân, uổng phí phú quý không lâu dài, là tượng khí kiêu căng, thanh cao. Ngày Giáp thấy Canh là Sát, có Mão đến là Nhận hiển nhiên. Nếu gặp Ấn thì tốt cho cầu danh, gặp Sát cũng xem Nhận.

descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Tố thực từ tâm, Ấn thụ toại phùng vu Thiên Đức.
( Ăn chay mà tâm tính hiền lành, Ấn thụ toại nguyện gặp ở Thiên Đức)
Thơ ca giải thích: Đa số Ấn vượng trọng nặng, có Thiên Nguyệt Đức mà trợ cát. Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín luôn luôn tồn tại, hảo thiện mà giúp người, lợi vật. Phú quý hơn người, sản sinh tâm tính từ thiện, bái đạo mà cúng Phật, có chung mà có thủy. Sự tình suy tính cẩn thận, Tài vượng thì thành người phản phúc.


Sinh bình thiểu bệnh, nhật chủ cao cường. Nhất thế an nhiên, Tài mệnh hữu khí.
( Nhật chủ cao cường thì cả đời ít bệnh. Tài mệnh có khí, một đời bình yên)
Thơ ca giải thích: Dần Mão chuyên sợ đất bị khắc chiến, tuổi thọ như hạc đoán là ít gặp tai ương, phát đầy phúc giống như biển đầy. Giáp sinh Thìn Tuất Sửu Mùi, tài mệnh vinh xương mà yên ổn. Tài Quan Ấn thụ vượng là tốt, tâm địa khoan hồng, phương có thể một chút tốt đẹp.


Quan hình bất phạm, Ấn thụ Thiên Dức đồng cung. Thiểu nhạc đa ưu, cái nhân nhật chủ thân nhược.
( Quan hình không phạm, Ấn thụ có Thiên Đức giống như Quan. Vui mừng thì ít mà nhiều ưu sầu, là bởi vì nhật chủ thân nhược)
Thơ ca giải thích: Ấn thụ hỉ gặp Thiên Đức, cả đời phúc lộc thanh hương. Như ngày Ất, tháng Dậu là Sát cương cường, lại sợ có Kỷ Sửu kim vượng.
Nếu hoàn toàn không có chế thì giấc mơ hoàn toàn thất bại, khổ cực, ưu sầu mà gặp hình tang. Nếu như nhật chủ suy nhược, nhất định là người bất lương.


Thân cường Sát thiển, giả Sát vi quyền.
( Thân cường Sát ít, Lấy Sát thành quyền)
Thơ ca giải thích: Hóa Sát thành quyền có thể đạt, như Giáp sinh ở đất Dần Mão. Mộc gặp hành Hợi Mão Tuất Mùi, sao sợ Canh kim thành bè đảng.
Ất sinh tháng Tị Dậu Sửu, hỉ gặp Hỏa cục là ngang nhau. Nếu gặp Hợi Mão Mùi thì sinh ra tai ương, xử thế khó khăn mà nghèo nàn.


Sát trọng thân khinh, chung thân hữu tổn.
( Sát nặng mà thân nhẹ, cuối cùng gặp nhiều tổn hại)
Thơ ca giải thích: Âm không sinh ở Ất Dậu, giờ gặp Tân Tị thì ít cát lợi. Thân nhẹ mà Sát nặng thì đảm nhận khó nhất, lại sợ vận hành hướng Sát.
Dù có phú quý hay tật bệnh, hoặc không có bệnh tật thì phú quý cũng sớm mất mạng. Như thể cây cối còn non nớt mà gặp sương, sợi bông cây Liễu gặp gió thổi mà phất phơ vậy.


Suy tắc biến Quan vi Quỷ, vượng tắc hóa Quỷ vi Quan.

( Suy thì biến Quan thành Quý, vượng thì hóa Quý thành Quan)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ đến phát sinh suy nhược, Quan nhiều thì hóa Quỷ là tai ương. Nếu gặp chủ vượng Sát đến hàng phục thì biến Quỷ thành quan hiển đạt.
Quan nhiều nhất định khó nhận nỗi, Sát trọng không có chế thì thành mệnh yểu thọ. Thân suy, thân vượng cần phải nghiên cứu kỹ càng, chỉ có hỉ hóa Sát là thượng cách.


Nguyệt sinh nhật can vận hành bất hỉ Tài hương. Nhật chủ vô y, khước hỉ vận hành Tài địa.
Thơ ca giải thích: Nguyệt sinh nhật can là Ấn, không nên gặp Tài vận phá hại gây tổn thương. Như Giáp sinh Hợi Tý, Ấn không bị xung, có Tị Ngọ Thìn Tuất Sửu Mùi là tổn hại, nhật chủ sinh vượng thái quá nếu không có cách cục gặp Ấn, thì cũng hiểu là Thân vượng mà vô y ( không có chỗ dựa), vận hỉ đất Tài gặp nhiều phúc trọng.

Thời quy Nhật Lộc, sinh bình bất hỉ Quan tinh.
( Nhật lộc quy về giờ, cả đời không mừng gặp Quan tinh)
Thơ ca giải thích: Nhật Lộc ở giờ sinh là tốt nhất, năm tháng sợ có Sát Quan tinh cương cường, vì có Quan chế Lộc, lộc gặp khó khăn, nhưng thấy Quan tinh là cách tốt, tháng, vận hỉ ở đất Tài, không có quan chức mà lộ danh cao. Bên trong Thiên can thấy Quan tinh, vận hỉ có Thực Thương thì rất là phúc.


Âm nhược triều dương, thiết kỵ Bính Đinh Ly vị.

( Âm nếu hướng về dương, kỵ nhất là vị trí Bính Đinh, Ly hỏa)
Thơ ca giải thích: Lục Tân giờ gặp Mậu Tý, nói là ngày âm khứ mất hướng dương. Vận hành về đất phương Tây, chỉ một lần hành động mà bước lên bảng vàng.
Vẫn kỵ vị trí Bính Đinh cung Ly, sợ nhất Quan Sát cùng nhau gây tổn thương. Năm, giờ rất sợ ngôi sao ẩn tàng chỗ này, chỉ là lữ khách mua bán mà thôi.

descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Thái tuế nãi chúng sát chi chủ, nhập mệnh vị tất vi ương. Nhược phùng chiến đấu chi hương, tất chủ hình vu bản mệnh.
( Thái Tuế là chủ nhiều Sát, nhập mệnh không nhất định là gặp tai ương. Nếu gặp đất khắc chiến, nhất định chủ hình thương ở bản mệnh).
Thơ ca giải thích: Tuế chính là tượng vua của loài người, không thể thấy liền lấy hung mà nói. Ngày sinh gặp Dương Nhận khắc lưu niên, không có chết thì cũng gặp hình phạt, tai nạn không nhẹ.
Xung phá Tuế Quân là họa, ứng như thần phạm lệnh với Vua. Cũng như cha con gặp nhau ở đất Thái ( là nước chư hầu thuộc nhà Chu), giống như Lục Quốc chiếm lấy nước Tần.


Tuế thương nhật can, hữu họa tất khinh. Nhật phạm Tuế quân, tai ương tất trọng.
( Năm tổn thương nhật can có họa tất nhẹ. Ngày phạm Tuế Quân thì tai ương tất là nặng).
Thơ ca giải thích: Tuế ( năm) thương nhật ( ngày) giống như cha giận con, họa thì nhẹ mà có thể tha thứ. Ngày mà phạm Tuế như con giận cha, ở dưới mà phạm ở trên thì làm sao mà dung thứ.
Nhật can ví như bề tôi, Thái Tuế thì như là vua, là cha. Hung vận tai nạn trùng với Tuế lại gặp nhau. Trụ hung lưu niên nhất định là chết.


Ngũ hành hữu cứu, kỳ niên phản tất vi tường, tứ trụ vô tình, cố luận danh vi Khắc Tuế.
Thơ ca giải thích: Ngày Giáp chủ đến gặp Mậu, gọi là Nhật phạm Tuế Quân. Có trụ Canh Tân chế phúc không nhẹ, nếu trụ không có Canh vận không thuận lợi.
Nhật chủ Canh Tân đối với Giáp, là Tuế làm tổn thương nhật can bỏ bớt bệnh. Thực thần, Ấn thụ chế rõ ràng, không có chế thì tai nạn không phải hợp lại cùng với hình.
Canh Tân đến làm tổn thương Giáp Ất, phía trước thấy có Bính Đinh thì không có nguy. Bính Đinh trái lại khắc canh tân. Gặp Nhâm Quý thì không sợ.
Mậu Kỷ lo sầu gặp Giáp Ất, can đầu cần dụng Canh Tân. Nhâm Quý lo buồn gặp Mậu Kỷ, mừng có Giáp Ất đến giải cứu.
Nhâm đến khắc Bính, cần dụng Mậu khứ để đương đầu. Quý khứ thương Đinh, lại hỉ có Kỷ đến tương chế.


Canh đắc Nhâm nam chế Bính, phản tác trường niên. Giáp dĩ Ất muội thê Canh, hung vi cát triệu.
( Canh được con trai Nhâm chế Bính, trái lại lấy trường thọ. Giáp lấy Ất muội gả làm vợ Canh, hung biến thành cát ).
Thơ ca giải thích: Canh được con Nhâm chế Bính, là con đến cứu mẹ không có bệnh. Giáp được Ất muội kết duyên với Canh, trở thành thân thiết mà hung lại thành cát khánh.
Xưa nói có lòng trở thành yêu quý, quả nhiên không có ý hại người. Ham vui mà hỉ Hợp Sát vong Hình, phúc vượng mà đảm nhận của cải nổi tiếng.


Thiên nguyên tuy vượng, nhược vô y ỷ thị thường nhân, nhật chủ thái nhu, túng ngộ Tài Quan vi Hàn sĩ.
( Thiên can tuy là vượng, nếu không có chỗ dựa thì là người bình thường, nhật chủ quá nhượ, mà gặp Tài Quan thì là kẻ hàn sĩ).
Thơ ca giải thích: Thiên can Nhật chủ quá vượng, năm tháng giờ có Ấn, Tài, Quan. Tam tài không hiển lộ, chủ là người bần hàn, là tăng đạo, cô đơn hiện ra.
Nhật can nhu, kim sinh vượng, Tài Quan nhiều trái lại sinh ra tai ương. Gánh nhận không lấy gian khổ học tập, sớm cơ khổ, tướng mạo gầy ốm mà trong túi thì trống không.


Nữ nhân vô Sát, đái Nhị Đức thụ quốc gia chi phong.

( Nữ nhân không có sát, mang Nhị Đức thì được nước nhà phong tước)
Thơ ca giải thích: Nữ lấy Quan làm Phu tinh, không nên có Thất Sát tranh giành. Không có Quan, Thất Sát là Phu cung, không hỉ có Quan tinh tương hỗn.
Tài Quan Ấn thụ mang đủ, thì Phu vinh Thê quý danh môn. Thứ hai nếu thấy Thiên Nguyệt Đức cùng gặp, nắm chức vụ mà được vua ban thưởng bổng lộc.


Nam mệnh thân cường, ngộ Tam Kỳ vi nhất phẩm chi quý.
( Mệnh nam có thân cường, gặp Tam kỳ thì một lúc thành quý mệnh)
Thơ ca giải thích: Nhật chủ cao cường thì phú quý, có Tài Quan Ấn thụ đều đủ. Giáp gặp Tân Kỷ Quý thành duyên phận, Ất Mậu Canh Nhâm có thể thấy.
Ngày Bính gặp Quý Tân Ất, ngày Đinh gặp Nhâm Canh Giáp thì biến đổi thăng chức. Mậu hỉ có Quý Ất Đinh, Kỷ hỉ có Nhâm Giáp Bính tam nguyên.
Canh Tân Nhâm Quý thì theo ví dụ ở trước, không có phá hại thì danh đăng kim điện.

descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Giáp phùng Kỷ nhi sinh vượng, định hoài trung chính chi tâm.
( Giáp gặp Kỷ mà sinh vượng, xác định tư tưởng trong lòng là chân chính)
Thơ ca giải thích: Giáp gặp Kỷ thổ là hợp ở trong vượng, phú quý vinh hoa nhất định đo lường. Luôn luôn trong lòng chân chính mà được lòng người, luông gặp quý nhân đợi mong muốn. Giáp thuộc phương Đông khí sinh mộc, chủ về Nhân. Thổ thuộc trung ương khí thổ dày, chủ về Tín, Giáp Kỷ hợp hóa thổ, mà trong tứ trụ lại mang sinh vượng, thì là người trung hậu, là người chính trực vậy.


Đinh ngộ Nhâm nhi thái quá, tất phạm dâm ngoa chi loạn.
( Đinh gặp Nhâm mà thái quá, nhất định phạm lỗi dâm loạn)
Thơ ca giải thích: Ất sinh Lục Giáp, tư tưởng luôn tồn tại tính nhân nghĩa, trung lương. Ngày giờ Giáp Kỷ là Tài Quan, hóa hợp mà thành nhà cửa hưng thịnh, tiền của dồi dào.
Ngày Đinh gặp Nhâm quá nhiều, hóa Quan thành Quỷ là tai ương. Trong trụ có 2 hoặc 3 thì đúng là vừa dâm đãng, kỷ nữ, trọng xuôi theo đàn ông ở cánh cửa hát ca đàn xướng.


Bính lâm Thân vị, phùng dương thủy, nan hoạch duyên niên.
( Bính đến vị trí Thân, là gặp dương thủy, khó mà kéo dài)
Thơ ca giải thích: ngày Bính sinh ở vị trí Thân, Thân là trường sinh của thủy là khai thông. Nhâm Thân, Nhâm Tý cùng Thìn ở bên trong, là Thất Sát cương cường thì gặp họa nặng.
Nhâm Ngọ, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, là kỳ họa nhẹ mà vô dụng. Sát nhiều mà thân nhược định thành hung, cẩn thận mà nghiên cứu kỹ lý lẽ giống nhau.


Kỷ nhập Hợi cung, âm mộc kiến chung vi tổn thọ.
( Kỷ nhập Hợi cung, thấy âm mộc thì cuối cùng là tổn thọ)
Thơ ca giải thích: Người sinh ngày Kỷ Hợi, tại họa nếu gặp Ất mộc giao tranh. Đặc biệt biết Hợi có Giáp mộc ở trường sinh, không có chế thì mệnh gặp nhiều lận đận, trắc trở mà dẫn đến chết yểu.
Ất Tị, Ất sửu, Ất Dậu, hung thần trong lấy sự che đậy mà đánh mất ân huệ. Ất Mùi, Ất Hợi, Ất Mão, không chết cũng bần hàn, trục trặc không thuận lợi.


Canh trị Dần nhi ngộ Bính, sinh vượng vô nguy.
( Canh gặp Dần mà gặp Bính, sinh vượng không có nguy hiểm)
Thơ ca giải thích: Giả như nhật chủ Canh Dần, sinh ở Bính hỏa là Sát cương kiện. Dần được trở về cung Cấn thổ là cát tường, lấy Sát hóa quyền là tốt.
Ngày Canh sinh ở Thân là Quy Lộc, được vượng khí cao cường. Trái lại mang Bính hỏa hóa thành Quan, thấy lâm nguy mà không có việc gì.


Ất ngộ Tị nhi kiến Tân, thân suy hữu họa. Ất phùng Canh vượng, trường tồn nhân nghĩa chi phong.
( Ất gặp Tị mà thấy Tân, thân suy thì mang họa. Ất gặp Canh vượng, là cảnh tượng trường sinh nhân nghĩa)
Thơ ca giải thích : Ất mộc đến sinh ở vị trí Tị, thân suy thì có họa, thân vượng thì may mắn tốt lành. Bính Tân, Canh Ất kết đôi thành chim Loan Phượng Hoàng, xử thế không có bằng phúc thọ. Âm thủy gặp đất Canh, đoán gió xuân mà danh tiếng lẫy lừng bốn biển. Ở trên hòa ở dưới thuận, thân thể cường tráng, thông suốt hơn người, ít bệnh.


Bính hợp Tân sinh, trấn chưởng uy quyền chi chức.
( Bính hợp Tân sinh, trấn giữ nắm chức vụ uy quyền)
Thơ ca giải thích: Bính hợp Tân sinh mùa Hạ, năm tháng giờ thấy Tân nhiều. Rồng giấu kín mà Hổ Báo xâm lược, chí hướng là tiêu điều, lại sợ hình thương khắc phá.
Ngày Tân thấy Bính được hợp, gặp sinh gặp lộc là trung hòa. Vận hành Quan vượng phúc cao như Thạch Sùng, danh tiếng lấy lừng bốn biển.

descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
Mộc trọng phùng hỏa vị, minh vi khí tán chi văn.
( Mộc nặng gặp vị trí hỏa, văn nói ghi nhớ là khí tán)
Thơ ca giải thích: Một mộc mà gặp hỏa trùng điệp, sinh mùa Hạ lại gặp Bính Đinh. Hỏa có thể tiết khí mộc, lấy sự việc không thành mà nghèo khó bao vây. Chi hỉ có Dần Ngọ Tuất Tị, Mậu Kỷ tài thông. Hỏa mộc hóa không có hung, phúc lộc an nhàn, gia đình thông suốt.


Độc thủy tam phạm Canh Tân, hào nhật thể toàn chi tượng.
( Một thủy mà phạm ba Canh Tân, nói là tượng nhật chủ đầy đủ)
Thơ ca giải thích: Nhâm Quý hai Canh Tân, hỉ sinh đúng năm ngày giờ. Quý sinh Tân thấu lại gặp Canh, trong năm ngày giờ cùng dùng. Không có đạo, Ấn không có nhiều, một Kiêu một chính là không hung. Cho nên nói là sự việc vui mừng, chư hầu bá tánh đều được hưởng bổng lộc.


Thủy quy Đông vượng, sinh bình nhạc tự vô ưu.
( Thủy quy về Đông vượng, cả đời vui vẽ không ưu phiền)
Thơ ca giải thích: năm Quý Hợi tháng Giáp Tý, giờ Quý Hợi, Nhâm Tý là chân. Tháng giờ có Thương Kiếp vận trình phương Nam, hỉ nhất là Thực Tài Quan Ấn. Sát Quan xứ vượng trái lại là không tốt, hình phạt ví như chứng bệnh đủ điều.
Quý Hợi, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tý là mệnh của Lão Bành.


Mộc hướng xuân sinh, xử thế an nhiên hữu thọ.
( Mộc hướng về Xuân sinh trưởng, xử thế bình yên mà có thọ)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất sinh ở mùa Xuân, trụ gặp Dần Mão trọng nặng. tính cách ôn hòa, lương thiện, định là tư tưởng hiền lành, là người sắp xếp sử sách cho triều đình.
Tài Thực Ấn Quan đều vượng xứ, hỏa vượng trái lại là nghèo mà yểu mệnh. Có thể nghiên cứu phương pháp tinh thông giống như đạo Trung Dung, luận mệnh cần biết biến thông.


Kim nhược ngộ hỏa viêm chi địa, huyết tật vô nghi.
( Kim nếu gặp đất hỏa viêm, huyết bệnh không nghi ngờ)
Thơ ca giải thích: Ngày Canh sinh nơi hỏa địa, trụ gặp Bính Đinh lần nữa. Nếu còn có Dần Ngọ Tuất đủ thông, không bệnh cũng đề phòng tật nặng. Nam thì chủ bệnh điên, bệnh lao trong người, Nữ thì bệnh sản hậu, máu huyết bị khô. Nếu không có chế phục ở năm, giờ, cấp bách thì có thể vào nhà mồ.


Thổ hư phùng mộc vượng chi hương, tỳ thương định luận.
( Thổ hư gặp mộc vượng, tỳ vị bị tổn thương)
Thơ ca giải thích: Năm Giáp Tý, tháng Đinh Mão, ngày Kỷ Sửu, giờ Ất Hợi. Năm tháng giờ lộ mộc quanh quẩn một chỗ, mắc bệnh sốt rét làm hại. Vận hành Khảm địa chết yểu, năm gặp mộc địa xác định tai nạn. Tây Nam phương có thể phát sinh tiền tài, về sau càng tốt đẹp. Giáp Tý, Đinh Mão, Kỷ Sửu, Ất Hợi. Mệnh Ninh Tử.


Kim ngộ Cấn nhi ngộ thổ, hào viết Hoàn Hồn.
( Kim gặp Cấn mà gặp thổ, gọi là Hoàn hồn)
Thơ ca giải thích: Canh kim sinh Dần gặp hỏa, gặp đúng Cấn thổ thành cát tường. Nhật can Mậu nếu cùng gặp, bắt thang trèo cây Quế mà gặp vua. Trọng thấy Bính Đinh là tương khắc, nhất định lấy yểu thọ, bần hàn. Không thấy Bính Đinh gặp Mậu Kỷ, trông nom gia đình giàu có, thóc lúa nghìn kho.


Thủy nhập Tốn nhi kiến kim, danh vi Bất Tuyệt.
( Thủy nhập cung Tốn mà thấy kim, tên là Bất tuyệt)
Thơ ca giải thích: Nhâm Quý sinh nơi Tị địa, gốc là phú quý mà xem. Trụ sợ Mậu Kỷ lấy tai ương, khởi gặp Canh kim là tối cao. Nhâm thủy thụ khí ở Tị, thủy được mẫu mà trường sinh. Mà có thể sinh thủy, cho nên nói thủy nhập cung Tốn.


Thổ lâm Mão vị, vị trung niên tất định hôi tâm. Kim ngộ hỏa hương, tuy thiểu tráng tất nhiên tỏa chí.

( Thổ đến vị trí Mão, chưa trung niên mà đã nản chí. Kim gặp đất hỏa, dù thanh niên nhất định ghi lấy thất bại)
Thơ ca giải thích: Ngày Kỷ , tháng gạp chỗ Mão, thân cường có chế là quý nhân. Sát nhiều không có chế mà bản thân khinh thì tật khổ mà trong tư tưởng là bất chính. Canh Tân tính nhu mà Sát vượng, thiếu niên chí nguyện thất bại, không thành. Lấy thành tính khô mà gây nên hình phạt, vượng có chế thì đảm nhận là quý mệnh.


Kim mộc giao soa hình chiến, nhân nghĩa câu vô. Thủy hỏa đệ hỗ tương thương, thị phi nhật hữu.
( Kim mộc giao nhau mà hình chiến, nhân nghĩa đều không có. Thủy hỏa lần lượt cùng nhau thương hại, nhật chủ không phải là đầy đủ)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất Canh Tân trái phải, Ất gặp bên trái, phải gặp Canh Tân. Canh Tân Thân Dậu là vượng thần, tính tình yên ổn mà thủy chung. Lại nói về Quan Sát hỗn tạp, cho nên là không có nhân không có nghĩa. Tài hương phát phúc càng lao tâm, hồ chứa nước đọng tiền của có thể tốt đẹp.


Mộc tòng thủy dưỡng, thủy nhi mộc tắc phiêu lưu.
( Mộc được thủy dưỡng, thủy mà cùng mộc thì trôi nổi)
Thơ ca giải thích: Giáp Ất sinh nơi đất Tý, nhưng gặp 1,2 vì thì thành kỳ. Nhâm Quý Hợi Tý can chi trùng điệp, thì mộc trôi nổi không có chỗ dựa. Năm Tân Hợi, tháng Canh Tý, Giáp Thân, Ất Sửu có chi kết giao. Năm gặp Đinh Dậu, vận Thân theo thủy mà đắm chìm, Mân Ngô Cát chết.


Kim lại thổ sinh, thổ hậu nhi kim tao mai một.
( Kim đến thổ sinh trưởng, thổ dày mà kim bị chôn vùi)
Thơ ca giải thích: Ngày Canh Tân gặp Mậu Kỷ, Thin Tuất Sửu Mùi đều đủ. Nếu gặp hỏa thổ can chi trùng điệp, thì Thổ trọng mai Kim không có khí. Dù có kim châu vạn hộc, khó mà trèo cành Nguyệt Quế gặp thần tiên. Nghiên cứu đạo mệnh lý hết sức tinh vi.


Thị dĩ ngũ hành bất khả thiên cách, vụ bẩm trung hòa chi khí. Canh năng tuyệt lự vọng tư, giám mệnh vô soa vô ngoa hĩ.
( Ngũ hành vốn là không thể chấp nhất ở nơi Cách, sự việc vốn là ở khí trung hòa. Lại có thể cắt đứt suy nghĩ ngông cuồng xằng bậy, xem mệnh không có sơ qua, không có nói ngoa vậy)
Thơ ca giải thích: Xem mệnh trước tiên xem nhật chủ, thứ đến nghiên cứu kỹ chi của năm, tháng, giờ. Khử, lưu, cường, nhược ung dung phối hợp, khinh trọng, nông sâu quan sát lý lẽ kỹ càng. Đoạn nói khí trung hòa, tham khảo thêm vận trình đảm nhận hướng về hay quay lưng. Tam Tài, Thiên Chính phát sinh khi nào, đều ẩn tàng trong Nguyệt lệnh.


(Hết quyển 11)

10.5.2016



descriptionQuyển 11 - Kế Thiện Thiên EmptyRe: Quyển 11 - Kế Thiện Thiên

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết