Chân Bảo phú
(Binh bộ Thượng Thư Vạn Kỳ thời Minh biên soạn –Vạn Dân Anh tiên sinh hiệu là Dục Ngô sơn nhân chú giải)
Quan tinh đới Nhận không khắc phá, nắm đại quyền binh hình; Tài Ấn giúp nhau không có hình xung, quý đăng Hoàng các Tam Công.
( Chính Quan cách. Dương Nhận ở cùng Tài Ấn giúp nhau, có Thương quan thì khắc, có hình xung thì phạm. Không Ấn, không Nhận, chỉ có Tài tinh giúp nhau, cũng cát. Tuế cũng vậy. )
Tài Quan sinh vượng phùng Ấn thụ, bái hoạch viên hiến phủ chi tôn; tam hợp Ấn Tài hội cục toàn, quý đăng Chư Hầu Ngũ Mã.
( Tài Quan sinh vượng cách. Trụ có Thiên, Chính Ấn, lại có tam hợp Ấn cục, hoặc Tài cục, là cát. )
Thương quan phùng Kiếp Nhận, kiêm lẫn nhau lộ ở giờ; Nếu Ấn thụ tương phù, đăng Long môn lúc tuổi trẻ.
( Thương Quan cách. Thân nhược hỷ Nhận Ấn giúp đỡ nhau, thì cát. )
Thương quan đắc Thực thần phụ trợ nặng, nói lấy bức tranh lầu tía Ngụy tướng công; tuế vận kị chế phục hình xung, lại tiếp tục có Thương quan mà họa đến.
( Thương quan gặp Thực thần trùng điệp phù nhau, cát. Chỗ kị hình xung cùng chế phục thái quá. Phục hành vận Thương quan, họa đến bất trắc. Trong trụ không có Quan, hỷ hành lúc Quan vận; không có Ấn, hỷ hành vận Ấn thụ, chủ dời quan. Tuế vận giống vậy. )
Tài giúp Thất Sát, uy quyền độc áp vạn người; nếu Ấn tương phù, đoán định quan cư cực phẩm.
( Thất Sát cách. Hỷ Tài sinh trợ, lại được Ấn hóa, rất tốt. Duy chỉ có Sát, cho nên có chủ quyền; được Ấn, cho nên làm quan cực phẩm. )
Tháng đã hội cùng Sát Nhận, tên tuổi sánh Hoắc Quang thời nhà hán; Năm giờ lại mang Tài Ấn. Địa vị cao xếp hàng Đặng Võ Trung hưng.
( Thất Sát, Kiếp Nhận cùng ở nguyệt lệnh, năm và giờ có Tài, có Ấn, là tối quý. Nghĩa giống đoạn văn ở trên, nhưng chỗ này lại kiêm nói Nhận vậy. )
Sát thất thời mà Ấn vô khí, thêm chủ vượng mà đảm nhận thường lưu.
( Thất Sát, Ấn thụ, nếu không đương lệnh nắm quyền, còn nhật can tự vượng, dụng thần rất bé, chỉ có chức hư thanh lãnh đạm. Tuế vận hành Tài Sát, thì cát. )
Ấn nắm lệnh mà Sát tương phù, lại thấy Tài làm quan Hàn Uyển.
(Ấn thụ cách. Phải nắm quyền nguyệt lệnh, chi ngày lại đắc trọng sinh khí vượng, không thấy hình xung phá hại. Chỉ được một Tài, một Sát là hay, không nên thái quá. Tài Ấn lưỡng đình chỉ là thường lưu vậy. 《 Phú 》 lại nói: Ấn thụ trọng phùng, Quan cư Hàn Uyển là vậy. )
Thiên Tài thời thượng kiến Quan, sớm đăng tên bảng vàng; lại được Thực thần phụ giúp, thiếu niên gần với thượng giới.
( Thời thượng Thiên Tài cách. Năm tháng có Quan tinh, lại có Thực trợ giúp, câu trên rất chuẩn. Kị Tỉ Kiếp, phùng Tỉ, thì trăm không toại một. )
Phúc Đức kiến Tài mà ẩn Quan, quan cư cực phẩm; trụ vận phùng Ấn mà không có thổ, chỗ đến dưới cô hình.
( Phúc đức. Ví dụ như ngày Nhâm Quý, sinh ở 3 tháng mùa đông. Hỷ Tài Quan trợ giúp nhau, can chi tác hợp, hoặc đắc hỏa cục, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, nhưng chỉ có một chữ mới tốt. Nếu không có Tài Quan, mà gặp Ấn thụ, không hành Tài Quan, mà hành Ấn thụ cùng vận bắc phương, là hình thê khắc tử, là mệnh cô quả bần tiện vậy. )
Lục Nhâm xu Cấn, thấu Tài Ấn là tuyệt diệu; Quan Sát tương xâm, lại bần cùng mà còn hạ tiện.
( Ngày Lục Nhâm gặp giờ Nhâm Dần, là Xu Cấn cách vậy. Năm tháng lại thấy Dần, thiên can thấu Đinh Tân là vi diệu, phú quý song toàn. Tối kị Quan Sát, hoặc thấy ở hành vận, cốt nhục lục thân phân tán, là người bần bạc nô tỳ vậy. )
Lục Giáp xu Càn, hỷ Tài Ấn mà vị trọng danh cao; tuế vận xung hình, cùng Sát Quan mà tai hưng họa đến.
( Ngày Giáp gặp giờ Ất Hợi, là Xu Càn cách vậy. Năm tháng lại thấy Hợi, lại gặp Tài tinh, trùng gặp Ấn thụ sinh thân, Chính Quan tự nhiên xuất hiện, lại hành đất Tài vượng, là cát. Kị chữ Tị hình xung, Quan Sát khắc phá, Giáp Ất Kiếp đoạt. Tuế vận cũng vậy. )
Tài túc điệp phùng đắc Ấn sinh, thiếu niên thụ phúc.
(Tức là trước Tài sau Ấn, trái lại thành phúc, không thể thấy Tài phá Ấn là sợ. )
Đảo xung đới Ấn gặp Tài Thực, tuổi trẻ thành danh.
( Đảo xung Lộc Mã cách. Chính là các ngày Bính Ngọ, Đinh Tị, Tân Hợi, Quý Hợi, trụ có Thiên Ấn, lại hành vận Tài Thực, là quý. Kị điền thực, Quan Sát không tốt. 《 Phú 》 nói: "Đảo xung đới Ấn, tuổi trẻ thành danh, Tài Thực phụ nhau, thân gần thềm son" là vậy. )
Tuế Đức phù can, hỷ Tài tinh mà sợ chế phục; ở vận Ấn tinh, hội Dương Nhận mà nắm binh hình.
( Can năm Thất Sát gọi là Tuế Đức, không nên thấy trùng, tối hỷ Tài tinh cùng Ấn thụ, Dương Nhận không thể chế phục, tuế vận giống vậy. Như Giáp Thân, Kỷ Tị, Mậu Tý, Quý Hợi, Tuế Đức không có chế, giờ có Thất Sát đắc dụng, có Ấn hóa Sát trợ thân, có Nhận hợp Sát phù thân, cho nên đại quý. )
(Binh bộ Thượng Thư Vạn Kỳ thời Minh biên soạn –Vạn Dân Anh tiên sinh hiệu là Dục Ngô sơn nhân chú giải)
Quan tinh đới Nhận không khắc phá, nắm đại quyền binh hình; Tài Ấn giúp nhau không có hình xung, quý đăng Hoàng các Tam Công.
( Chính Quan cách. Dương Nhận ở cùng Tài Ấn giúp nhau, có Thương quan thì khắc, có hình xung thì phạm. Không Ấn, không Nhận, chỉ có Tài tinh giúp nhau, cũng cát. Tuế cũng vậy. )
Tài Quan sinh vượng phùng Ấn thụ, bái hoạch viên hiến phủ chi tôn; tam hợp Ấn Tài hội cục toàn, quý đăng Chư Hầu Ngũ Mã.
( Tài Quan sinh vượng cách. Trụ có Thiên, Chính Ấn, lại có tam hợp Ấn cục, hoặc Tài cục, là cát. )
Thương quan phùng Kiếp Nhận, kiêm lẫn nhau lộ ở giờ; Nếu Ấn thụ tương phù, đăng Long môn lúc tuổi trẻ.
( Thương Quan cách. Thân nhược hỷ Nhận Ấn giúp đỡ nhau, thì cát. )
Thương quan đắc Thực thần phụ trợ nặng, nói lấy bức tranh lầu tía Ngụy tướng công; tuế vận kị chế phục hình xung, lại tiếp tục có Thương quan mà họa đến.
( Thương quan gặp Thực thần trùng điệp phù nhau, cát. Chỗ kị hình xung cùng chế phục thái quá. Phục hành vận Thương quan, họa đến bất trắc. Trong trụ không có Quan, hỷ hành lúc Quan vận; không có Ấn, hỷ hành vận Ấn thụ, chủ dời quan. Tuế vận giống vậy. )
Tài giúp Thất Sát, uy quyền độc áp vạn người; nếu Ấn tương phù, đoán định quan cư cực phẩm.
( Thất Sát cách. Hỷ Tài sinh trợ, lại được Ấn hóa, rất tốt. Duy chỉ có Sát, cho nên có chủ quyền; được Ấn, cho nên làm quan cực phẩm. )
Tháng đã hội cùng Sát Nhận, tên tuổi sánh Hoắc Quang thời nhà hán; Năm giờ lại mang Tài Ấn. Địa vị cao xếp hàng Đặng Võ Trung hưng.
( Thất Sát, Kiếp Nhận cùng ở nguyệt lệnh, năm và giờ có Tài, có Ấn, là tối quý. Nghĩa giống đoạn văn ở trên, nhưng chỗ này lại kiêm nói Nhận vậy. )
Sát thất thời mà Ấn vô khí, thêm chủ vượng mà đảm nhận thường lưu.
( Thất Sát, Ấn thụ, nếu không đương lệnh nắm quyền, còn nhật can tự vượng, dụng thần rất bé, chỉ có chức hư thanh lãnh đạm. Tuế vận hành Tài Sát, thì cát. )
Ấn nắm lệnh mà Sát tương phù, lại thấy Tài làm quan Hàn Uyển.
(Ấn thụ cách. Phải nắm quyền nguyệt lệnh, chi ngày lại đắc trọng sinh khí vượng, không thấy hình xung phá hại. Chỉ được một Tài, một Sát là hay, không nên thái quá. Tài Ấn lưỡng đình chỉ là thường lưu vậy. 《 Phú 》 lại nói: Ấn thụ trọng phùng, Quan cư Hàn Uyển là vậy. )
Thiên Tài thời thượng kiến Quan, sớm đăng tên bảng vàng; lại được Thực thần phụ giúp, thiếu niên gần với thượng giới.
( Thời thượng Thiên Tài cách. Năm tháng có Quan tinh, lại có Thực trợ giúp, câu trên rất chuẩn. Kị Tỉ Kiếp, phùng Tỉ, thì trăm không toại một. )
Phúc Đức kiến Tài mà ẩn Quan, quan cư cực phẩm; trụ vận phùng Ấn mà không có thổ, chỗ đến dưới cô hình.
( Phúc đức. Ví dụ như ngày Nhâm Quý, sinh ở 3 tháng mùa đông. Hỷ Tài Quan trợ giúp nhau, can chi tác hợp, hoặc đắc hỏa cục, cùng Thìn Tuất Sửu Mùi, nhưng chỉ có một chữ mới tốt. Nếu không có Tài Quan, mà gặp Ấn thụ, không hành Tài Quan, mà hành Ấn thụ cùng vận bắc phương, là hình thê khắc tử, là mệnh cô quả bần tiện vậy. )
Lục Nhâm xu Cấn, thấu Tài Ấn là tuyệt diệu; Quan Sát tương xâm, lại bần cùng mà còn hạ tiện.
( Ngày Lục Nhâm gặp giờ Nhâm Dần, là Xu Cấn cách vậy. Năm tháng lại thấy Dần, thiên can thấu Đinh Tân là vi diệu, phú quý song toàn. Tối kị Quan Sát, hoặc thấy ở hành vận, cốt nhục lục thân phân tán, là người bần bạc nô tỳ vậy. )
Lục Giáp xu Càn, hỷ Tài Ấn mà vị trọng danh cao; tuế vận xung hình, cùng Sát Quan mà tai hưng họa đến.
( Ngày Giáp gặp giờ Ất Hợi, là Xu Càn cách vậy. Năm tháng lại thấy Hợi, lại gặp Tài tinh, trùng gặp Ấn thụ sinh thân, Chính Quan tự nhiên xuất hiện, lại hành đất Tài vượng, là cát. Kị chữ Tị hình xung, Quan Sát khắc phá, Giáp Ất Kiếp đoạt. Tuế vận cũng vậy. )
Tài túc điệp phùng đắc Ấn sinh, thiếu niên thụ phúc.
(Tức là trước Tài sau Ấn, trái lại thành phúc, không thể thấy Tài phá Ấn là sợ. )
Đảo xung đới Ấn gặp Tài Thực, tuổi trẻ thành danh.
( Đảo xung Lộc Mã cách. Chính là các ngày Bính Ngọ, Đinh Tị, Tân Hợi, Quý Hợi, trụ có Thiên Ấn, lại hành vận Tài Thực, là quý. Kị điền thực, Quan Sát không tốt. 《 Phú 》 nói: "Đảo xung đới Ấn, tuổi trẻ thành danh, Tài Thực phụ nhau, thân gần thềm son" là vậy. )
Tuế Đức phù can, hỷ Tài tinh mà sợ chế phục; ở vận Ấn tinh, hội Dương Nhận mà nắm binh hình.
( Can năm Thất Sát gọi là Tuế Đức, không nên thấy trùng, tối hỷ Tài tinh cùng Ấn thụ, Dương Nhận không thể chế phục, tuế vận giống vậy. Như Giáp Thân, Kỷ Tị, Mậu Tý, Quý Hợi, Tuế Đức không có chế, giờ có Thất Sát đắc dụng, có Ấn hóa Sát trợ thân, có Nhận hợp Sát phù thân, cho nên đại quý. )