KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
+ Xem mệnh làm Tăng đạo: Lại không phải là người làm nghệ thuật. Ngũ hành ở đất vô khí, thập can lâm đất tử mộ. Năm tháng tận phùng Cô Quả, ngày giờ toàn thấy Nguyên thần. Phạm nhiều Không Vong, trọng bồi Hoa Cái. Thê tử suy tuyệt, là Thân vượng vô y. Hỏa thịnh mà thân tâm thiền định, thủy nhiều mà tự do an nhàn. Nếu mệnh hợp quý cách mà tử tuyệt, tâm vui với hư thanh; mệnh không có quý khí nhi sinh vượng, tính thích thiền môn. Trên tháng ngũ hành điềm hòa, đạo hạnh cao khiết mà giáo môn tăng trọng; ngũ hành trụ giờ an tĩnh, phụ trợ hành quả. Mà số chúng đồ nhiều. Trụ tháng có được phúc thần trợ giúp, thì giỏi cùng pháp niệm mà khen ngợi đồng y. Trụ ngày hình xung mang Sát, thì cầu hoá vô duyên, mà lại đi phiêu lưu bốn phương. Thấy Sát Ấn, thì nắm quyền phục chúng, gặp Tang Điếu thì khổ hạnh tổn thân. Hoa Cái, kẹp quý cùng Tam Kỳ, tuy nói là Cát Sát; tự tử, tự tuyệt, tự sinh vượng, thì không có cát trợ. Nếu sinh vượng thái quá mà kiêm mang can quỷ, thì tâm không quên danh lợi; gặp khắc hại quá mức, mà lại gặp hung sát, thì khó miễn lễ phàm tục. Hàm Trì là sao tửu sắc, phạm thì đam mê không kiểm soát; Dương Nhận là vật hung ác, gặp thì là đồ tài lợi. Tuế vận thấy Tang Điếu phản phục, ở người phàm tục thì hung, còn tăng đạo thì cát. Nguyên mệnh gặp Cô Quả, Vong Kiếp, ở thường nhân thì có trở ngại, còn tăng đạo thì vô hại. Cổ ca nói: Hai loại phụ mẫu thấy Cô tinh, bốn mùa lộc cũng không có. Thìn Tuất Sửu Mùi được gia lâm, đa số là đạo sĩ cùng tăng đồ. Lại nói: Tam hợp sinh giờ Thìn Tuất, định là tăng đạo không sai. Nếu có Hoa Cái cùng lâm mô, áo túi to lớn định tử y. Phàm luận tăng đạo, lại lấy chỗ này là đúng chất vậy.

Lại có trước bần sau phú, trước phú sau bần, cả hai cách biệt, hoàn toàn xem ở tháng, ngày. Ngày giờ sinh vượng là tụ phúc, về già vinh hoa; nguyệt lệnh có khí tích trữ Tài, tuổi trẻ phú quý. Nếu tháng cát mà dẫn dụng nhiều khinh, trước phú sau bần; nhật cường mà bản căn bất lợi, trước bần sau phú. Sinh ra thụ ấm, năm tháng ở xứ Tài phú; cuối chủ cô hàn, ngày giờ phạm đất Không phá. Năm tháng phùng Tài vô khí, lúc trẻ khốn cùng; ngày giờ gặp tự có khí, về già hân hoan. Tứ trụ suy vi, cả đời bất toại; Bối Lộc trục Mã, cả đời thê lương. Nếu nói can đầu lộ Tài, trong chi không tàng, đất Thương Kiếp Thực, Lộc Mã hư phù. Thân vượng Ấn trợ, cả đời phá bại không tụ tài. Tài đa thân nhược, bên ngoài thì có dư còn bên trong thì không đủ. Hoặc tứ trụ vốn không có Tài Quan, gặp tuế vận bỗng nhiên phát tài. Mệnh chỗ này, là hữu danh vô thực.
Lại có mệnh bỏ đất xa quê. Đóng cửa rời nhà: Chính là năm khắc tháng cùng nhau chế phục, ngày xung giờ ở nơi Tý Ngọ. Tứ Sát nếu xung thân mệnh, định phải ly biệt tha hương; Tam hạn lại dụng tử tuyệt, khó tránh phiêu bạc xứ ngoài. Trùng trùng quỷ hại, nhiều lần hình Không. Vận xấu thời trái nghịch, ly biệt hàng xóm mà bôn ba đường trình. Mệnh kém ngày suy, từ biệt thân thích mà lui tới trên đường.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Lại luận huynh đệ cùng với thê tử. Như mệnh mộc xuân giáng đến Dần Hợi Mão, tất nhiều anh em; nếu sinh tây nam, tất ít. Mệnh kim sinh mùa thu lâm Tị Thân Dậu, anh em tràn đầy; nếu gặp đất đông, không có chỗ nương tựa. Thuỷ cư Nhuận Hạ gặp Càn Khảm, đồng khí đa vinh. Thìn Tuất qua lại thì phóng khoáng. Hỏa hướng viêm thượng cư cung Ly Tốn, là liền cành cộng mỹ. Đến ở Dậu Hợi, là điêu tàn. Thổ lâm tứ quý, chú bác thành hàng. Nếu luận đắc lực hay không đắc lực, tam nguyên không lạc Không Vong, tứ trụ không phạm Cô Quả. Thanh Long tác tử, đừng cưới vợ Bạch Hổ; Hỏa Đức thành nam, chớ cưới vợ Hợi Tý. Thủy sinh con cháu, mẫu kị trung ương. Năm hợp ngày giờ phạm Mậu Quý, quyết chủ 3 vợ; Giáp phùng 2 Kỷ đến Tị Ngọ, không chỉ hai vợ. Bính phùng trọng Tân cư Dậu Tý, đa số là thương yêu thiếp; Canh cùng Ất hợp sinh Mão Ngọ, định có vợ bé; Nhâm phùng trọng Đinh ở Tị Dậu, trùng hôn chia phòng. Dương hợp Âm thịnh lập hai vợ, Dương hợp Âm suy vợ tái giá.

Lại có con nhiều mà vinh quý, cũng có con ít mà ngu đần. Lý nói là sao? Phải luận thật kĩ. Kim cư cung Ly phùng viêm hỏa, con cháu đầy nhà; hỏa lâm cung Khảm gặp thuận dưới, đời sau hưng vượng. Mộc phùng Canh Tân đến Tị Thân, thổ sinh Giáp Ất kiến Dần Mão. Thủy lâm tứ quý, hỷ kiến Mậu Kỷ. Ngày giờ sinh phùng không có khắc chế, tử tôn nhiều vinh; Quan Sát trọng phùng kiến Tài sinh, con cháu tất quý. Nếu nói ngày lâm suy mộ tử bại, nam nữ phải tổn thương; giờ phạm Không Vong có khắc, con cháu tất ít. Mộc là đời sau, kị phùng phương Thân Ngọ; hỏa nếu là trai, chớ gặp đất Dậu Hợi. Kim là vị trí con, sợ thấy Khảm Dần; thủy làm trai quan, kị thấy Mão Tị; thổ là con cháu, sợ lâm Chấn Đông. Nam thủ chỗ khắc là con, nữ thủ can sinh làm con. Tứ trụ quy về nơi bại tuyệt, ngũ hành đều ở Thương quan. Tuy có can chi ám hợp, cũng phải lấy con nuôi làm con kế thừa. Dù có thiên xuất, cũng khó định họ. Xưa có nói nhờ vợ an con, lý này rất sâu sắc. Mộc mà thấy Quỷ, được bắc phương, Khảm thì tồn tại nữ nhiều. Thủy tử gặp Sát, dựa vào tây phương Đoài vợ có nuôi dưỡng; thủy chế hỏa là nam, nhờ Thanh Long làm nhũ mẫu; Mộc tổn thổ Nhi, tìm Chu Tước làm mẹ kế. Ngũ hành có tổn, phải nhờ tương sinh. Tứ trụ tuy khắc, phần đa cũng vô hại. Nếu không tiếc mẫu an Tử. Sao có thể con cháu không thiếu?

Về phần luận nữ mệnh, rất sợ hình phu.
Ngày sinh mộc xà, khó thành hôn phối; Kỷ dụng kim kê, định là phụ nữ mất chồng. Thổ là vị hôn phu, Dần Mão có nhiều ít. Mộc làm hôn kỳ, cung Ly phải hại. Tái phạm Cô Loan càng nặng, lại phạm Bát Chuyên nói thế nào?
Về phần làm phụ nữ thanh khiết, sinh mà không phạm hợp quý;nếu muốn tính cách kiên trinh, trường mà không gặp Sát Thương. Đinh Nhâm vô khí, tất phạm xướng dâm; Mậu Quý hưu tù, phần đa là trọc loạn. Tứ trụ hợp Lộc, tam nguyên thuần nhất. Ngày giờ có hợp, có chồng mà không bỏ tư tình; Đào Hoa Kiếp Sát, ngũ hành cư Mộ. Tài lộc mộc dục, nghịch chồng mà trở thành ám ước. Âm gặp can dương nhiều hợp, không làm xướng cũng là kỹ; Tỉ Kiếp phân tranh thân nhược, không làm thiếp cũng làm nô tỳ.

Lại có ngũ hành thất vị, tứ trụ hưu tù. Thập can trên dưới giao chiến, vận hành vô khí Không Vong, Tam Nguyên ở trong mộc dục, ngũ hành cư xứ tử mộ, sinh làm nô tỳ, đem ai oán thán?

Lúc có mệnh phạm Đảo Thực mà không có Thực, có thể cùng người khác làm phúc; Thiên Tài gặp Tỉ mà thân vượng, ngọt thì làm giàu còn khô thì làm hầu tớ. Đàn ông bỏ nhà, gửi rễ khác họ: Kim cư kim vị gặp Mão Dần, mộc đếu xứ mộc gặp Sửu Mùi. Ngày giờ phạm gặp Nguyệt Quỷ phá môn. Bính Dần biệt tổ tông nhập mộ. Khôi Cương lâm mệnh kiến Hoa Cái, cả đời nhờ vợ mà sống; Sửu Mùi trọng phạm, gặp Quả Tú, nửa đời theo vợ vào nhà. Tứ trụ qua lại hữu tình, dắt nhau thành hôn. Tam nguyên trọng phạm âm hợp, không môi giới mà làm vợ. Dương suy âm vượng, nữ thì lấy con trai khác họ làm con. Mệnh phối thành hôn, trước xem hưu bại khắc trệ, sau xem tương sinh, đa số là gọi rễ về nhà. Chi nhiều khắc trệ, định biết người mạo hiểm trên dưới vô sinh, một cửa sao có thể giữ vững? Thân như hiển hóa tự vô khí, bản tính hoàn toàn suy nhược; nếu là Giả hợp thành tượng khác, là cô nhi dị tính, cả đời khốn khó, sao có thể được của tổ tông? Nếu như hưng vượng, vì cầm khác nhà cha mẹ.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Lạc Dịch phú

Tham khảo cơ không có tạo hóa, trắc diệu lý ngũ hành. Phán đoán nhân mệnh được mất, quyết một đời vinh khô. Phép là thủ ở nhật can, luận hưng suy ở chi tháng. Giáp Ất thuộc mộc, tối hỉ sinh mùa xuân. Nhâm Quý thuộc thủy, thiên vượng ở mùa đông. Bính Đinh hỏa sáng tỏ ở mùa hạ, Canh Tân kim sắc nhọn ở mùa thu. Mậu Kỷ hai can thổ, vượng ở thời kỳ tứ quý.

Ngày là bản thân, phải xét cường nhược. Năm là chủ bản, nên suy xét tường tận. Can năm là cha chi là mẹ, nhật can là bản thân còn chi là vợ. Can tháng là huynh còn chilà đệ, chi giờ là con gái còn can là con trai.

Sát sau khắc năm, cha mẹ sớm mất. Trước Sát sau khắc, tử tức tất suy. Mã nhập cung Thê, tất được vợ có tài năng trong gia đình. Sát lâm cung Tử tức, tất con trai gây ra bội nghịch. Lộc nhập cung Thê, ăn lộc vợ. Ấn lâm Tử tức cung, nhận vinh con cái. Kiêu cư Tổ vị, là cơ phá tổ. Tháng Tài Quan vượng, được của cải của cha. Chỗ kỵ Tài thương Lộc bạc, tối sợ Quỷ vượng thân suy. Thấy Thực thần chiếm, người vật béo phì. Kiêu Ấn trọng sinh, của cải Tổ tiên phiêu đãng.

Hàm Trì Tài lộ chủ dâm túng xa xỉ. Hung sát hợp năm đề phòng Tỉ Nhận. Đào Hoa trọng mang hợp thần, loại hạng ăn chơi. Dịch Mã nếu gặp vật xung, chiều ở Sở sáng ở Tần. Kim hỏa giao tranh, đoán không lễ nghĩa. Ấn Tài đều mất, thiếu tổn cha mẹ. Đào Hoa hội Lộc, tửu sắc vong thân. Tài vượng Kiêu suy, vì Tài tang mệnh. Thân lâm năm mộc dục, e gặp thủy ách. Chủ nhập đất tranh đấu, tất gặp hỏa thương.

Tài sinh Quan, dùng của cầu quan. Tài phôi Ấn, tham tài mất chức. Tài vượng sinh Quan, tự thân vinh hiển. Tài sinh Sát đảng, tuổi trẻ chết yểu.

Độc Sát xung phá phế người nhàn rỗi, chư Sát phùng chu đường hung ngoan. Thiên can nhiều Sát, gặp can năm phải chết yểu. Địa chi nhiều Quỷ, gặp chi năm tất kiến hung tai. Tài sinh Quan, Quan sinh Ấn, Ấn sinh thân, phú quý song toàn. Thương đảng Tài, Tài đảng Sát, Sát khắc thân, hung cùng lưỡng bức.

Dậu Dần hình hại, kế hại hôn nhân. Tị Mão phong lôi, quá nóng tính. Sát Quan hỗn gặp, là cửu lưu kỹ nghệ. Tài Lộc tọa Mã, là khách kinh thương. Mã lạc Không Vong, dời nhà phiêu bạc. Lộc gặp xung phá, cánh bèo ly hương. Âm nhiều lợi ở nữ nhân, dương thịnh lợi cho nam tử. Âm thịnh hơn dương, nữ chủ hưng gia. Dương thịnh hơn âm, nam đang xây phủ. Thuần dương nam tất cô quả, thuần âm nữ tất khốn cùng.

Năm sinh Quan quý, hóa hung sát mà uy danh vạn cổ. Bào Thai lâm ngày, gặp Ấn thụ mà lộc hưởng ngàn chung. Nhất khí là căn, biểu thị tú xuất quần anh. Lưỡng can không tạp, người tài đức nỗi danh xuất chúng. Mộc tú hỏa minh, thông minh tuấn tú. Thủy thâm thổ dầy, làm tàu bè lớn vượt sông. Mệnh nguyên sinh Sát phùng thân vượng, tất chủ gia quyền. Lâm quan tuế gặp quý nhân, ăn bổng lộc trọng. Thương quan rất cẩn khử quan tận, chế Sát không bằng hóa Sát cao. Nếu như hóa thần nhược, chế thần cường, thi ân không đủ mà có oán. Hóa thần vượng, chế thần suy, tài năng lâm sự không quyết đoán. Có Sát không có Ấn khiếm khuyết văn chương, có Ấn không có Sát thiếu uy phong. Sát Ấn lưỡng toàn, văn võ đều kiêm. Vận suy phát mà vận vượng dừng, vận vượng phát mà vận suy chết. Chỗ này là Xuân Thu luân phiên, thiên vận hồi quyển, lý lẻ muôn đời là không đổi vậy

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Kim Ngọc phú

Sưu tầm bát tự, chuyên luận Tài Quan. Thứ nghiên cứu ngũ hành, phải tìm khí hậu. Luận Tài Quan hướng bối trọng khinh, khảo sát khí hậu thiển thâm sinh tử.
Nó đến khắc ta là Quan Quỷ, thân vượng tất có quyền.
Ta đi khắc nói là Thê Tài, can cường thì phú.
Năm tổn thương Nhật chủ, là cha và con bất hoà.
Giờ khắc Nhật thần, là mệnh con không tuân ở cha.
Năm khắc ngày, là trên có thể phạm dưới.
Ngày khắc năm, dưới đi phạm trên.
Nếu được có vật chế nhật can, thì có thể hóa ác thành cát.
Bản Chủ lại cần phùng Hỉ thần, thì biến hung thành cát.
Hỉ thần khánh hội, nên biết tài sản hưng long.
Tứ trụ vô tình, định kiến họa đoan cùng lấy.
Hoặc thấy Bản Chủ tương xung, tam hình trùng điệp.
Tuế Vận khinh xâm, tất gây ra tai hoạ.
Ngũ hành thuần túy nhập cách, phong thanh đài các.
Thân cường lại gặp Thất Sát, trấn thủ đô thành.
Không có Tài Quan mà có cách cục, là Thanh vân đắc lộ.
Không có cách cục mà có Tài Quan, hoàng giáp thành danh.
Tài Quan cách Cục đều tổn, không bần hàn thì công danh cũng gian truân.
Nhật can cùng nguyệt lệnh đều cường, không vì nghèo tất là người ẩn dật.
Bính Đinh tọa Nam Ly mà không có chế, là bất tuân lễ pháp, kẻ hung bạo.
Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ tương ứng, là ôm lấy tài đức, người thông tuệ.
Tân phùng Ất mộc ở mộ Nam, tuy phú mà bất nhân.
Bính phùng Tân kim trấn ở bắc, tuy bần mà có đức.
Năm tháng giờ có Thiên Ấn, cát hung không này sinh.
Đại vận Tuế quân phùng Thọ tinh, tai ương lập tức đến.
Lúc nhỏ mất sữa, Thực thần phùng cung hình khắc.
Thanh niên tranh vanh, vị trí Tài Quan cư thuần túy.
Ngày dương Thực thần đắc địa không có xung tổn, là ám hợp Quan tinh.
Ngày âm Thực thần không có phá suy cần phải phù hợp, thì thân cận Ấn thụ.
Thiên Tài có thể lợi ích là sống thọ.
Dương Nhận thiện đoạt Tài hóa Quỷ.
Tài tinh có phá, phá tổ mà đi tha hương.
Ấn thụ bị thương, mất tổ nghiệp xa rời đất tổ.
Nhân mệnh lấy Quý thần là phúc, gặp khắc hãm thì hung họa không cát tường, ngũ hành hội sao hung là hoạ, hỉ hợp Sát cùng Thực thần là quý.
Mệnh suy Sát vượng, gặp Thiên Xá nhị Đức là cát tường.
Thân nhược Tài phong, hỉ Dương Nhận Huynh đệ để trợ.
Nguyệt lệnh gặp Thực thần kiện vượng, thích ẩm thực mà tư chất sung túc.
Tứ trụ có cát tinh tương phù, mang kim tích ngọc.
Ngũ hành không có hung sát xâm phạm, thanh danh hiển dương.
Dần Thân Tị Hợi trùng điệp phạm, có tâm thông minh phát sinh.
Tý Ngọ Mão Dậu trọng phùng, dẫn đến đam mê hoang dâm tửu sắc.
Đào Hoa mang Sát, tâm ý xương cuồng.
Nhị Đức phùng Ấn, đức tính nhân từ.
Thực thần nhiều, mà thích tham ăn ẩm thực.
Chính Quan vượng, mà tiếp nhận mưu lược.
Kiêu thần hưng thịnh, tuổi trẻ chết yểu. Tước tinh vượng, lão thọ di cao.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Muốn biết nữ mệnh khó kết hôn, vận nhập vị trí bối phu.
Muốn biết nam nhi cưới sớm, định là vận hợp đất Tài.
Tử khắc trùng trùng, Sát không có Quan suy Thương Thực trọng.
Thương thê trùng điệp, Tài khinh thân vượng Tỉ Kiếp nhiều.
Nếu không như vậy, định là hình xung vị trí thê thiếp.
Ám hội Tài tinh, nhiều thê thiếp.
Hư hướng Tài vị, chủ nhiều vợ.
Tài tinh nhập mộ, tất định hình thê.
Chi dưới phục Tài, thương yêu thiếp hơn vợ.
Thê tinh rõ ràng, muốn cầu kiều mộc.
Đại vận lưu niên, tam hợp đất Tài, tất chủ cát triệu hồng loan.
Hoặc Quan lâm Tài bại, tài sản suy tàn, thương thê tổn thiếp, hôn phối khó thành.
Thê tinh nói vị trí ở cung nào, yêu cầu đích xác.
Quan Lộc cư vị trí Thiên Trù, phải xét căn nguyên.
Cách cục có thuần túy, bỗng gặp ác vật tương xung, cũng chủ tử vong.
Có Tài Lộc suy bạc, hoặc phùng tuế vận vượng tướng, cũng bỗng nhiên phát.
Nhật cầu thăng hợp, Thực thần vượng xứ Kiếp tài nhiều, sinh ra bần yểu, Tài Thực đắc địa Kiêu Ấn trọng.
Quan nhược Sát cường, không có chế thì yểu.
Nhật suy Tài trọng, đảng Sát là nghèo.
Lại xem tuế vận, hung ở đâu cát ở đâu.
Dần Thân Tị Hợi dựa vào lẫn nhau, không di chuyển tất phải tha hương.
Càn Khôn Cấn Tốn gặp qua lại lẫn nhau, cùng đuổi nhau tâm không chủ định.
Trong trụ nếu phùng Hoa Cái, gặp Nhị Đức là người thanh quý.
Quan tinh Thất Sát hoặc lạc Không Vong, ở cửu lưu nhậm chức hư nhàn.
Ngũ hành khắc chiến, không hại nhật chủ thì không có hoạ.
Tuế vận cùng lâm, nếu tổn dụng thần tất có họa.
Tài tinh nhập mộ, một chút hình xung tất phát.
Thương quan thương tận, hoặc thấy Quan tinh thì hung.
Có 18 cách, nên theo Thiện Ác mà suy tìm.
Nói chung hệ ngũ hành, đều thủ suy vượng tiêu tức.
Thân vượng sao nhọc Ấn thụ, can suy không hỉ Tài Quan.
Trung hòa là phúc, thiên đảng là họa.
Nếu thấy Quý thần triều củng, Lộc Mã phi thiên, Diêu hợp hư cách.
Không được hình xung gặp hợp, đều kỵ Thất Sát Quan tinh, đều sợ hợp trói, Điền thực là hung.
Bỗng nhiên đến vận Quan hương, nên thoái thân mà né tránh chức vị.
Mã Bì phá Quan, khốn thủ đường cùng.
Lộc vượng Tài phong, làm quan cao ngất.
Như lâm xứ hỉ lấy phải họa, là do tam hợp còn ẩn hung tinh.
Hoặc phùng xứ hung mà lại cát tường, chính là Cửu cung mà lộ cát diệu.
Muốn biết chức phẩm cao thấp, phải tìm vận thần hướng bối.
Thanh kỳ trắc tuổi trẻ thành danh, khuyết tì thì về già đắc địa.
Đường mới hanh thông, quyền cao tước hiển.
Đồ trình trục trặc, là lộc bạc quan thấp.
Suy tìm vị trí tử tức, trước xem Thê cung.
Tử tuyệt thì đa số khó tồn.
Thái vượng là tìm kiếm cửa khác.
Tử tinh hiển lộ, tử tức tất nhiều.
Hình hại Tử tức cung, nam nữ khó được.
Nếu hỏi huynh đệ nhiều ít, tinh tế chọn can chi tứ trụ.
Nguyệt lệnh tuy cường, lại xem vận thần hướng bối.
Tử tuyệt hình thương, anh em mất thứ tự.
Tương sinh khánh hội, anh em kết vinh.
Huynh đệ thân vượng, phụ mẫu có suy.
Tài bạch nhiều cung, sớm có tang mẹ.
Nếu thấy Quan Quỷ xuất ra, mẹ lại có thọ.
Như phùng thoát khí xếp nối tiếp, cha vẫn có thọ.
Nhâm lâm ở Ngọ, Quý tọa Tị.
Nắm trung hòa là Lộc Mã đồng hương, thoái hưu tù cũng là Thai Nguyên tuyệt địa.
Bính lâm ở Thân, Canh tọa ở Dần, Kỷ nhập Tốn Càn, Ất lâm Song Nữ.
Kim ngồi hỏa vị, Giáp tọa Khôn cung, danh viết hưu tù, rất sợ khắc chế.
Thất Sát kỵ phùng nói tang ma hồn phách, Thọ tinh vui gặp viết là Hoàn Hồn.
Thiên mệnh có thi hành, trí lực khó xuất; bộ phận tiếp nối tạo hóa, âm đức có thể đoạt.
Bần hàn hết tận, có thể khiến cho nhà nghèo xuất công khanh.
Xa xỉ thái quá, vẫn khiến giàu sang sinh nghèo đói.
Gia sản hao phí, định sinh con trai chẳng ra gì.
Kết hôn tự hình, tất cưới thê thiếp không thọ.
Tứ cung bối lộc, không thể vọng cầu.
Quan tướng không thành, lúc Tài gặp phí.
Bát tự không có Tài, cần phải an phận.
Vượt ngoài nếu tham, tất gậy ra hung sự.
Y! Cam bần nuôi vụng, vốn không có Tài cung hiến.
Vổ bụng thổi tiêu, sao Ngũ Viên tỏa chí!
Chẳng lẽ là mệnh vậy, chỉ cần thuận mà thôi.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Kinh Thần luận

Ngũ hành sinh vượng, là người vinh quý trong triều đình.
Tứ trụ hưu tù, là khách ở ẩn thanh tu.
Quỷ vượng thân suy, thiếu niên khó mà vinh hoa.
Lộc phá Thân hình, tuổi trẻ không nơi nương tựa.
Nam ít nữ nhiều, chỉ vì Âm thần thái trọng.
Nam nhiều nữ ít, định là có lệch Thuần Dương.
Nghịch khắc Huyền Châm, là thế hệ bị tù tội, khắc mặt đánh sắt.
Khôi Cương Sát Nhận, thân dễ bước vào đường quân ngũ.
Quan gặp Vong Kiếp kiêm Thất Sát, là đảm nhận võ tướng.
Quý điền Tài Ấn gặp Nhị Đức, xứng làm trung thần.
Tài xung Lộc phá, mua bán giết mổ gia súc.
Lộc vượng thân cường, khách quý nhà giàu có.
Cô thần gặp Hoa Cái, đạo sĩ tăng ni.
Kiếp Sát gặp Khôi Cương, thầy mo thuật sĩ.
Hàm Trì tọa vượng mang Nhận, vì sắc vong thân.
Dịch Mã lâm hình mang Lộc, vì môi giới làm giàu.
Mệnh trường phú quý, bởi vì Thiên Đức gặp Trường Sinh.
Y thực sung túc, chính là Tài tinh không có khắc phá.
Nhật cư chuyên lộc, chắc chắn là địa chi hoàn toàn hội quý.
Chi là Nhận can là Quan, tháng giờ thấy Quan tất hiển danh.
Mậu Ngọ, Mậu Ngọ, quý nhân hóa Nhận sinh thân.
Củng Lộc, củng Quý, họa là lúc Tuế đến Điền Thực.
Tài đa hiển lộ, có bại có thành.
Tài thiếu ám tàng, tiền nát quán mục.
Tuổi trẻ không con, đều là do ngày giờ hình thân.
Về già thêm con, vì biết giờ được Nhật Quý.
Bính ở Thân, Canh ở Dần, Giáp ở Tị, là chân quý nhân.
Giáp Tý, Kỷ Tị, Nhâm Thìn, chuyên nghề y bốc.
Ngày phùng Nhận Sát, vợ tất chết khi sinh đẻ.
Giờ gặp Cô Hư, sinh con không ra gì.
Trong chi Tý Mão phùng một quý, phú mà không bần.
Can chi hình hợp mang Hàm Trì, làm ca kĩ đón khách trước cửa.
Trụ giờ Thiên Quan có chế, về sau con cái anh kỳ.
Trong trụ có Tài vượng sinh Quan, tuổi trẻ làm quan.
Hàm Trì, Hoa Cái, tháng giờ phạm nhau là chủ mồ côi.
Điếu Khách, Tang Môn, tuế vận cùng lâm phương tang phục.
Thủy nhiều thì thế hệ phiếm lạm, lâm chuyện không thành.
Thổ nhiều là kẻ ngu trọc, hóa sinh lấy phúc.
Mã nhiều thì quanh năm bôn tẩu.
Lộc nhiều thì công việc khó ngừng.
Hình nhiều thì chung thân có tàn tật.
Phá nhiều thì cả đời khổ hận.
Mã nhiều Lộc ít, là thề hệ bôn ba quỷ trá.
Tài vượng thân cường, lè kẻ sĩ trung lương hiển hách.
Hàm Trì mang hợp gặp Quỷ tặc, tán gia hại người.
Kiếp Vong Sát Nhận hội Thương quan, hung ngoan rước họa.
Thiên Tài thân vượng, người truy cầu làm con buôn.
Lục hợp hội Tài, thế hệ kinh doanh hưng thịnh.
Củng Ấn củng Quý, là khách chốn tam đảo ngọc giai kim điện.
Củng Lộc củng Tài, vạn khoảnh tang điền sánh Chu Lý.
Có Ấn không có Quan, mệnh kiến hưởng thành thanh cao.
Kim thần thông thủy, là kẻ bần hàn mang tật.
Ngu si vô tri, đều là do tiết khí hại thân.
Biết võ biết văn, Thiên Đức quý nhân sinh Ấn.
Phong lưu phá đãng, Ấn nhiều can nhược tọa Hàm Trì.
Áo dài khăn đóng, do hai sao Cô Quả lâm Hoa Cái.
Đầy bàn Dương Nhận, quyết định phân thây.
Ngày giờ đều có Không, vợ con bất lực.
Can chi trọng phạm còn thêm Quan, cố tật triền thân.
Một chữ Thiên Ất gặp Trường sinh, lợi danh đều có.
Lưng gù chân thọt, chỉ vì Sát thần gặp Khúc Cước.
Nho Chu tàn tật, bởi vì Quỷ vượng ngày suy nhược.
Chi vượng can suy nhà kiên cố, Chi suy can vượng ngoài hư hoa.
Tứ trụ liên châu, Quan Ấn trợ tôn cư nhất phẩm.
Ngũ hành liền nhau, Tài Lộc hưởng giàu nghìn chung.
Thân nếu cương cường, không sợ quỷ đến khắc ta.
Nhật can nhu nhược, hỉ phùng Tỉ Kiếp tương phù.
Thân nhược Thực nhiều là yểu thọ.
Kim thần mang hỏa thì quý.
Khảng khái là Thiên Tài, Kiếp Nhận.
Keo kiệt là Chính Quan, Chính Tài.
Thất Sát không có chế, chính là kẻ hung ác.
Thương quan Hàm Trì, định làm khách trên đường.
Phàm thấy nhật can thái nhược, trong có chỗ nhược phục sinh.
Nếu thấy vượng tướng tương sinh, cũng có khắc phá ở trong vượng.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Tinh Vi luận

Phàm xem nhân mệnh, chuyên luận lục cách.
Phùng Quan xem Tài, kiến Tài là phú quý.
Phùng Sát xem Ấn, gặp Ấn lấy vinh hoa.
Phùng Ấn xem Quan mà gặp Quan, 10 có 7 phần quý.
Phùng Tài kỵ Sát mà có Sát, 10 có 9 phần là bần.
Quan hỉ lộ, lộ thì thanh cao.
Tài nên ẩn tàng, tàng thì phong hậu.
Quan Sát hỗn tạp, thân nhược thì bần. Quan Sát tương đình, hợp Sát là quý.
Năm tháng có Quan tinh, tuổi trẻ làm quan.
Ngày giờ có Chính Quý, về già thành danh.
Bào Thai phùng Ấn thụ, Lộc hưởng nghìn chung.
Tài khí phùng Trường Sinh, điền phì vạn khoảnh.
Thu Đông Quan tinh phòng Nhận Thương, hoàn toàn thấy Nguyên Vũ (Huyền Vũ là giữ hướng bắc, còn gọi là Nguyên Vũ) quý không sai.
Tháng chạp âm lịch có Thương quan hỉ kiến Quan, phá Ấn thương trọng họa mà chết.
Tài vượng sinh Quan, là quý ít mà nhiều phú.
Thương quan kiến Tài, Quan vừa cao mà Tài sung túc.
Không có tổn thương thì không quý, có bệnh mới là quý.
Tuy đầu là dụng, nhưng cuối khử đi thì mới phúc. Lý kỳ diệu ở chỗ này, không cần tìm bên ngoài.
Như hỏa viêm thủy thiếu gặp Canh Tân, đừng lấy thân vượng Quan khinh mà thủ.
Hoặc thổ trọng mộc tuyệt phùng Nhâm Quý, khó lấy Quan vượng thân khinh mà quyết.
Tài khinh chớ gặp Kiếp địa, Ấn nhiều tối diệu Tài hương.
Tài vượng sinh Quan, vì hối lộ lấy quan.
Sát tinh chế Nhận, cướp báu vật ghi danh.
Thân vượng có thể thủ Thiên Tài, tất được tài phú.
Chủ kiện Chính Tài bị Kiếp, lần lượt thấy thê tai.
Kiếp tài Dương Nhận nhập Quan Sát, làm thần đài các.
Quy Lộc xung Thực phùng Nhận Thương, quý nơi Lang Miếu.
Thân vượng có Sát phùng Ấn thụ, đoán là quan quyền.
Chủ nhược phùng Ấn kiến Tài tinh, làm kẻ tầm thường.
Dương Nhận, có Thiên Quan chế, xứng chức nắm binh hình.
Chính Quan, Chính Ấn không tổn thương, thủ lệnh làm quan quản dân.
Tài vượng giá sắc, làm quan cấp lương.
Phi Lộc triều Dương, chức vị cận vua.
Càn Khôn vốn là thanh khí, vinh quan kiến quốc.
Tý Ngọ là cực tôn, làm quan hoàng môn.
Ngày Quý giờ Quý kiêm Sửu Hợi, khôi danh cập đệ nhập Hàn Lâm.
Ngày Nhâm giờ Nhâm gặp Dần Thìn, cao tước thừa ân đăng Ngự Các.
Nhật Đức kiến Khôi Cương, dù là cát cũng chỉ là kẻ sĩ bần hàn.
Khôi Cương gặp Tài Quan, người đảm nhận y lộc đắc địa.
Thương quan kiến Quan, diệu là gặp đất Tài Ấn.
Tài tinh phá Ấn, quý hành đất Tỉ Kiếp.
Mệnh trọng Tài, vận phùng Sát, rất cát tường.
Mệnh trọng Sát, vận phùng Tài, hung có thể quyết.
Giáp Ất nhập vận tây phương, thân vượng thì có thể hứa lấy công danh.
Nhâm Quý kinh lộ ở đất nam, chủ kiến có đường Tài Lộc.
Kiếp Sát không nên hành đất vượng, Thực thần tối diệu đất Thiên Tài.
Nữ mệnh Thương quan, được Quy Lộc là cực cát.
Nam tạo Dương Nhận, thân nhược gặp là tối kỳ.
Kim thần, Kiến Lộc, Lan Xoa, nữ mệnh gặp là tối kỵ.
Dương Nhận, Thương quan, Thất Sát, nam tử gặp là được quyền.
Kim thần nhập hỏa phùng Sát Nhận, quý là không sai.
Sát trọng có Ấn phùng Thực Thương, vinh là có chuẩn.
Chính Quan, Chính Ấn, quan cư không hiển.
Dương Nhận, Thất Sát, làm quan nắm hiển danh.
Thân vượng vô y, làm kẻ tăng đạo.
Đào Hoa cổn lãng, làm kẻ xướng tỳ.
Kim nhược hỏa cường, giống như thổ mộc tiêu dong.
Thổ nhiều thủy ít, làm công may vá.
Mây nhiễu Ngũ Hồ, đầu vinh sau nhục tất thân bần.
Biến dã Đào Hoa, cả đời phong lưu tửu sắc.
Vong thần, Củng Sát, làm tặc đạo.
Tú khí thất thời, làm kẻ sĩ thanh bần.
Ấn vượng thân cường đa số thích tửu, Đinh Nhâm đố hóa phạm dâm ngoa.
Thân Ấn đều vượng, cả đời ít bệnh.
Thiên Nguyệt Đức trợ, xử thế không có tai.
Thực thần sinh vượng, tự thắng Tài Quan, quý hơn Tài Sát.
Có bỏ mệnh tựu Tài, tựu Sát, tựu Quan là có dư phú quý.
Vô y chuyên vượng tuyệt Thực, tuyệt Tài, tuyệt Quan là bần cùng vô hạn . Thân nhược bỏ mệnh phải không có căn, làm quan đồ tể.
Can suy thân hóa được thời kỳ, địa vị cận thiên đình.
Nam mệnh loại thuộc Tòng Hóa, Chiếu phản Quỷ phục, nên suy xét cho tinh tường. Nữ mệnh thuần hòa thanh quý, trọc lạm xướng dâm, nên xét cho kĩ vậy.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Nguyên Diệu luận

Thường nghe phân Nhị Khí để định Tam Tài, truyền bốn mùa mà thành vạn vật.
Nhân mệnh: Vinh khô được mất, đều ở hết trong ngũ hành sinh khắc.
Phú quý vinh hoa, không vượt ra ngoài bát tự trung hòa.
Trước tiên xem Tiết khí thiển thâm (nông sâu).
Thứ xem Tài Quan hướng bối.
Phàm trong nhân mệnh, thực ra khó mà có đủ Tài Quan, còn lại xem trong cách, chỉ cần Hư Yêu Lộc Mã.
Tiên hiền đó lấy thành công thức, hậu học phải biết biến thông.
Thái quá mà không có khắc chế, là bần tiện.
Bất cập mà mất sinh phù, là hình yểu.
Nên hướng mà vận bối, quyết là bần tiện.
Nên bối mà vận hướng, định là khốn cùng.
Hỉ sinh mà phùng sinh, quý có thể biết.
Thích khắc mà được khắc, cát không thể nói.
Mộc thịnh phùng kim, đoán làm trụ cột tài năng.
Thủy nhiều gặp thổ, diệu là có công thành đê ngăn.
Hỏa luyện thu kim, nung luyện thành khí kiếm sắc nhọn.
Mộc khai thông thổ, bồi thành mùa giá sắc.
Hỏa viêm có thủy, danh đều là Ký tế.
Thủy ít kim nhiều, hào viết tượng Thể Toàn.
Hợi Mão Mùi phùng ở Giáp Ất, phú quý không sai.
Dần Ngọ Tuất phùng ở Bính Đinh, vinh hoa có chuẩn.
Canh Tân cục toàn Tị Dậu Sửu, vị trọng quyền cao.
Nhâm Quý cách được Thân Tý Thìn, Lộc cao Tài dư.
Mậu Kỷ cục toàn tứ quý, vinh quan Chư Tào.
Lại gặp Đức Tú Tam Kỳ, danh dương tứ nhạc.
Phương mộc có đủ Dần Mão Thìn, tự có công danh.
Kim được đất Thân Dậu Tuất, phú quý không sai.
Thủy quy nguyên Hợi Tý Sửu, lợi danh đều có; hỏa lâm đất Tị Ngọ Mùi, người hiển đạt.
Mộc vượng cần hỏa cùng chiếu sáng, vây thu có thí nghiệm.
Kim kiên thích thủy bao hàm, văn học kham khoa.
Dụng hỏa sầu thủy, dụng mộc sợ kim.
Xuân mộc trùng trùng, là dừng nơi thái vượng vô y.
Hạ hỏa viêm viêm, chớ lấy có áp chế thái táo.
Thu kim bén nhọn là tối kỳ. Đông thủy uông dương chuyên khả mỹ.
Sinh ta phù ta là kỵ, có công khắc ta chế ta.
Ngũ hành có phối, viết là Hóa, viết là Trì, nhật hòa.
Tứ trụ vô tình, là loạn, là thương, là họa.
Trong Hợp phùng xung chiến, như an ninh mà gặp loạn lạc.
Tử địa phùng sinh, nếu phủ cực lại lấy thế thịnh.
Một trì một loạn, trong trụ cổn lãng hình xung.
Chợt vượng chợt suy, mệnh lý giao hoành phá hại.
Lưu Trách không đỗ giáp, chỉ vì năm văn học suy.
Lý Quảng không làm quan, bởi vì người cường Mã bại.
Muốn biết cả đời quý tiện, nên suy tinh Khoa Giáp.
Muốn hỏi chức phận cao thấp, xem xét vị trí Tài Quan.
Cầu quan không thành, xung thương mệnh quý liền đăng khoa.
Công danh đã thành, phúc không thể lâm thương lấy phá.
Khôi thắng Quan, thì chung thân không đậu quan.
Quan thắng Ấn, mà nhổ nước miếng thành danh.
Mộc tướng hỏa minh, thế hệ này cần đăng giáp đệ.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Kim hàn thủy lạnh, cuối cùng là bần hàn.
Thai Nguyên Nhật chủ, Đề cương Ấn vượng đoạt khôi nguyên.
Tụ quý ở năm, cao tọa Ngọc Đường vinh Hàn Uyển.
Bệnh là Khôi tinh, khử bệnh mới có thể thành tựu.
Văn là giáp thủ, Quan đến mới thấy thăng quan.
Nguyên Vũ cách mà nhiều Tỉ Kiếp, Thái Ất Ngọc Đường chân giáp đệ.
Chu Tước phú mà Thực thần vượng, năm Quan tuế Ấn định đăng khoa.
Tỉ kiên nhiều thấy Quan Sát, Ấn là Khôi tinh, hợp tuế xung quan cập đệ.
Quan Sát trọng gặp Ấn Thương, chính là có khoa giáp, năm Thực tuế Ấn là đề danh.
Mộc khôi nếu lâm năm tháng vượng, chính là Trạng nguyên.
Hỏa tú như gặp can Tuế viêm, thuộc loại giáp bảng Trạng Nguyên.
Số khoa bất cập, chỉ vì Tài phá Văn thư.
Nhất cử thành danh, chính là Khôi tinh mang giáp.
Ngũ hành tiêu trưởng, đều vì quỷ lấy thành công.
Tứ trụ hưng long, nếu không có bệnh là không quý.
Tuy dụng là Quỷ bệnh, cuối cùng được khử là phúc.
Lại tìm năm tam hợp Lộc Mã, phải xem năm Thiên Ất Ngọc đường.
Bính Đinh sinh ở mùa đông, quý ở Mậu Kỷ trên đầu.
Canh Tân sinh ở mùa hạ, diệu ở Nhâm Quý đắc cục.
Giáp Ất sinh mùa thu, quý cần Nguyên Vũ.
Canh Tân sinh mùa hạ, diệu dụng ở Câu Trần.
Bính Đinh thủy nhiều sợ bắc địa, phùng Mậu Kỷ lại lấy quý suy.
Canh Tân hỏa thịnh sợ nam phương, gặp Mậu Kỷ là lấy quý đoán.
Giáp Ất sinh mùa thu thấu Bính Đinh, chớ lấy Thương xem.
Mậu Kỷ sinh mùa hạ lộ Canh Tân, nến lấy quý luận.
Hỏa mang nhiều thủy, quý hành mộc vận.
Thổ phùng mộc vượng, vinh nhập hỏa hương.
Canh phùng thủy trọng, thủy lạnh kim hàn, tối hỉ viêm nhiệt.
Mậu gặp Dậu nhiều, thân suy khí thoát, rất thích Huỳnh Hoàng (hoả).
Bất cập cần sinh phù, thái quá cần cướp khắc.
Thanh Long toàn tòng cách kim, vừa bần vừa tiện.
Bạch Hổ bị thuỷ Nhuận Hạ, viết phú viết vinh.
Xuân nhiều mộc mà ít thủy, bổ nạp làm tăng.
Hạ hỏa viêm mà kim suy, nói trâm cài trên nón.
Câu Trần cục toàn Nhuận Hạ, làm kẻ bôn ba.
Chu Tước tam hợp Nguyên Vũ, kẻ khốn nhược.
Kim kiên hỏa nhược, người hành thương mua bán.
Thổ bại thủy ngưng, khách tha hương phá tổ.
Kim sinh mùa thu thổ trùng điệp, bần không có tấc sắt.
Hỏa sinh mùa hạ thiên kim trùng điệp, phú có nghìn chung.
Xuân mộc chuyên gặp nhiều thủy, làm kẻ bần tiện.
Đông thủy độc phùng kim thịnh, thế hệ hàn nhược.
Thìn Tuất Sửu Mùi gặp hình xung, không có người nào là không phát.
Tý Ngọ Mão Dậu mang hình hợp, phạm đa dâm.
Hạ kim điệp hỏa, thu thủy trọng kim, quá thiên đảng thì không bần cũng tiện.
Xuân kim nhiều hỏa, đông thủy thịnh kim, không có chế phục thì không yểu cũng bần.
Thu mộc vô căn tòng phúc vợ, lộc quý sùng cao.
Hạ kim thất địa phối phu vinh, công danh hiển đạt.
Hỏa hướng xuân lâm phùng mộc vượng, nên đi cầu danh.
Thổ lâm quý địa thấy nhiều kim, có kham làm quan.
Giáp Ất mùa hạ vinh thổ tinh hậu, nửa công danh hỉ đủ điền trang.
Bính Đinh đông thịnh thủy nguyên thanh, tước lộc toàn hân vinh cẩm tú.
Chuyên Lộc mang Thực Thương, cầm quyền ngoài song cửa.
Dương Nhận nhập Quan Sát, uy trấn biên cương.
Củng Lộc, củng Quý, Giáp Khâu, tước lộc phong dụ.
Đảo xung, Diêu Hợp, Lan Xoa, công danh hiển đạt.
Nhâm xu Cấn và Giáp xu Càn, là quan thanh danh.
Tân triều Dương cùng Ất Thử quý, làm quan văn học.
Cục toàn Phong (Tị là phong) Hổ (Dần là Hổ), đấng tài lương.
Trụ gặp Vân Long, đức đại nhân.
Tứ khố toàn bị Long (Long là Thìn) biến hóa, phùng Đại Hải là tôn đấng Cửu Ngũ.
Tam Kỳ cục tú Phượng đằng vân, gặp Thiên Môn ( là Hợi) làm quan đài các.
Vượng Tài Quan phú quý, Ám Lộc Mã lấy vinh hoa.
Nhập cách là lấy quý mà suy, phá cục là đoán không có quý.
Nghiên cứu một lý mà xét trăm đường, rõ vài câu nói mà thông vạn loại.
Hậu học quân tử, nên xét chỗ này.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Minh Tân tiên sinh Cốt Tủy ca

Muốn biết ngũ hành sinh tử quyết,
Dễ dàng sao nói cùng phàm.
Ngũ tinh chỉ dựa ở là hạn,
Tử Bình chuyên lấy trong vận quyết.
Sinh biết phú quý hỏi tiền trình,
Giờ chết không tường làm sao đoán?
Cách cục chỉ lấy dụng thần suy,
Dụng không thụ thương người bất diệt.
Vận hành trước phân 12 cung,
Xem ở cung nào chịu tiết nào.
Tài Quan Ấn thụ cùng Thực thần,
Phải biết khinh trọng thẩm phân minh.
Quan tinh sợ hành Thất Sát vận,
Thiên Quan càng sợ Chính Quan lâm.
Quan Sát hỗn hành phải suy xét,
Khử Sát lưu Quan tử tế bình.
Lưu Quan khử Sát chớ phùng Sát,
Lưu Sát hội Quan Quan chớ gặp.
Quan Sát thụ thương người tuyệt tự,
Lại xem Tài cách định tiền trình.
Ngày giờ Thiên Chính hỏi Tài đâu,
Lại sợ can đầu mang Sát đến.
Sát vận trọng phùng người thọ yểu,
Nào ngờ Thiên Chính đúng là tai?
Tự chuyên Thiên Chính đều là phúc,
Huynh đệ cùng chia là mối họa.
Vận đến Chính Tài tất cạnh tranh,
Đều cần Thiên Chính lưỡng phân suy.
Có Tài Quan vận là vinh phát,
Quan vận Tài hương là phúc thai.
Chỉ sợ nhật nguyên nơi tự nhược,
Tài đa sinh Quỷ cản thân suy.
Tài đa thân nhược hành Tài vận,
Xứ này mới biết nhập tuyền đài.
Quan không thụ thương Tài không động,
Thọ sơn cao Tủng sao có sụp?
Đệ nhất khó suy đất Ấn thụ,
Vận hành thân vượng tất vinh xương.
Quan hương hội hợp phùng Quan chức,
Tử địa nên biết là tai ương.
Nếu như phùng Tài đến hại Ấn,
Treo cổ rơi sông chết trong ác.
Quan cư đảm nhận ở đất tử,
Trù tính gặp đây ở bên đường.
Ấn không phùng Tài người bất tử,
Từng cái như trước suy tế tường.
Tài Quan Ấn thụ phân rõ nói,
Lại có Thực thần không dễ quyết.
Thực thần hữu khí thắng Tài Quan,
Chỉ sợ tàn thương trước sau tiệt.
Đảo Thực vận gặp lại hại năm,
Phải biết sớm gặp ở tuyền đài.
Cách trước dạy người nói đoản trường,
Cách sau lại cũng tiệt trước lộ.
Lại phân khinh trọng tử tế suy,
Rất sợ Tài Quan lâm tử tuyệt.
Thương quan vận mệnh lại phùng Quan,
Là đoán lưu dời họa bách đoan.
Nhật quý Nhật đức phùng xung chiến,
Mệnh này nguy vong có lập xem.
Phi thiên Củng Lộc sợ Điền thực,
Lại xem trói thần đến phạm can.
Nếu theo chương Hỉ Kỵ mà đoán,
Cách cục phùng Thương lấy yểu xem.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Cách sau sinh tử điềm không khác,
Đệ nhất Tài Quan là yếu khẩn.
Vận hành nếu không gặp Tài Quan,
Đã gặp Tài Quan trẻ yểu thọ.
Hỏi thọ phải biết hỏi Dụng thần,
Dụng thần thụ chế định khắc thân.
Thụ thương chớ lấy liền là họa,
Phải dạy khinh trọng nhận lấy chân.
Dụng thần kiện vượng định không ngại,
Vận nếu gặp Thương Thực trì trệ.
Từ chức lui quan cứ thế nói,
Vong gia bại nghiệp tổn cháu con.
Lục thân quyến thuộc còn liên luỵ,
Lễ phục thân tang bách sự lâm.
Dựa cái gì biết là có thọ?
Nhìn thẳng trên vận tử tế suy.
Nhật can cùng vận như phùng Sát,
Phùng Sát phùng hình họa đến xâm.
Ngoại địch vẫn còn phòng nội địch,
Ngoài ra chia cung tìm bên ngoài.
Nội phùng ngoại địch là tai trọng,
Ngoại phùng nội địch là họa xâm.
Mậu Kỷ thổ cần phân tứ quý,
Tạp khí trung gian khó lại dễ.
Cận niên phân định gặp số phân,
Thụ chế thụ thương theo khí Tuế.
Chỉ định cát hung trong vận này,
Năm nào tháng nào tai ương đến.
Tý vận tuế phùng Thìn Tý quý,
Khắc ứng Thái tuế cùng nơi tháng.
Dần vận Bính Thân gặp giống năm,
Tị Bính cùng nhau loại họa phúc.
Mão vận Ất mộc sợ tương phùng,
Trong Tị Mậu Canh Bính tạp hội.
Ngọ vận đến năm Ngọ Mậu hung,
Gặp năm Sửu Mùi là phải sợ.
Thân cung Canh Hợi chớ tương phùng,
Dậu phùng Tân Sửu đều là kỵ.
Hợi vận Nhâm Giáp sợ Thân Quan,
Chỉ là 8 cung bao tứ quý.
Tứ quý từ đầu hỗn bát cung,
Nói chung xoay tròn như chỉ thị.
Không biết chỗ nào là vô cùng,
Can chi phối hợp cùng một vị.
Liền phân khinh trọng định hung tai,
Vận trọng Tuế khinh cùng hợp luận.
Cát hung đồng nhất tuế theo vận,
Đây là thiên kim bí không truyền.
Tôi vì tế thế viết kính tặng,
Nói người chớ có mà khinh khi.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Sưu Tủy ca

Tạo hóa trước tiên xem Nhật chủ,
Sau nắm Đề cương phân thứ tự.
Tứ trụ chuyên nhất luận Tài Quan,
Thân vượng Tài Quan nhiều phú quý.

Như còn thân vượng Tài Quan tổn,
Chỉ là sớm cầu chiều kiếm con.
Tài Quan vượng khi Nhật chủ vượng,
Áo bào đeo vàng có ngờ đâu?

Tài Quan vượng mà Nhật chủ nhược,
Vận hành thân vượng là hàng đầu.
Nhật chủ vượng mà Tài Quan nhược,
Vận nhập Tài Quan giữ lợi danh.

Nhật chủ tọa dưới có Tài Quan,
Nguyệt lệnh tương phùng quý không khó.
Nói chung Tài Quan là khẩn yếu,
Tuổi trẻ phú quý lộc trèo cao.

Tài Quan suy bạc thân thái vượng,
Thái vượng vô y chịu cô hàn.
Lại có Ấn đến Tỉ Kiếp trợ,
Thương thê khắc tử có thể xem.

Quan Sát thái trọng thân lại cường,
Vừa gặp chế phục là hiền lương.
Sát Quan củng Ấn quý không nhỏ,
Uy danh hiển hách định chấn dương.

Sinh cư mùa hạ nhiều hỏa thổ,
Lợi phùng thủy cứu quý trung hòa.
Thủy hỏa nguyên lai cần Ký tế,
Quản giáo lợi danh trấn sơn hà.

Hỏa nhiệt viêm viêm như không thủy,
Vận hành đất thủy cũng là hay.
Thế thủy thao thao nếu không thổ,
Vận nhập đất thổ thật đáng vui.

Đông phương nhiều mộc cần tây vận,
Tây phương kim vượng thích đông hành.
Ngũ hành cứu nhau thành tạo hóa,
Nhân mệnh gặp đây phúc không khinh.

Tam Khâu Ngũ Mộ sợ kiến trọng,
Cốt nhục tham thương tổn lục thân.
Đề cương hình xung khắc phụ mẫu,
Ngày giờ đối xung thê tử khó.

Tỉ Kiếp Thương quan nếu tái vượng,
Không những thương thê lại tổn nhi.
Dẫu có một con cũng bất hiếu,
Hoặc là xin nuôi cũng không nghi.

Thân vượng Tỉ kiên tọa Dịch Mã,
Huynh đệ phiêu bồng tự nhiên tốt.
Bát tự Dịch Mã cùng tranh chạy,
Thân vinh lao khổ khắp đông tây.

Nếu được thân nhàn tâm bất định,
Động thì phong lưu Tĩnh thì sầu.
Nếu là Tài tinh tọa Dịch Mã,
Thê hiền không có không ung dung.

Tài tinh nhập khố chủ tụ tài,
Cẩn thủ giữ của không làm người.
Vợ con bủn xỉn thường không trợ,
Chỉ sợ ám tàng Dương Nhận giận.

Quan Sát trùng trùng không mang Tài,
Vợ có hỗ trợ không hài hòa.
Vô lễ bất kính cha mẹ chồng,
Tước đoạt quyền chồng bài trong mệnh.

Quan tinh nếu cũng phùng sinh vượng,
Lại được trường sinh vượng ở giờ.
Con cái thông minh lại tuấn tú,
Từng người con cháu được áo quan.

Nhật chủ Thất Sát mang Kiêu Thực,
Thê chủ hư thai hoặc đẻ non.
Kinh mạch không điều thành huyết tật,
Lại xem hành vận như thế nào.

Nam tử Kiêu Thực trùng trùng thấy,
Thân nhược đa số ứng bệnh lao.
Nữ nhân Kiêu Thực là không cát,
Đẻ khó kinh người bệnh cũng nguy.

Nữ mệnh Quan vượng kiêm Tài vượng,
Vẫy gọi hiền phu lại có lợi.
Nếu như Tài Quan đều bị tổn,
Thương phu khắc tử có ngờ gì.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Ấn thụ sinh thân thân càng vượng,
Là người hình khắc chủ bần cô.
Nếu gặp Quan hiển Tài lại hiển,
Cũng là vượt bước quý nhân phù.

Nữ mệnh nếu cũng Thương quan vượng,
Tọa dưới Thương quan sẽ mắng chống.
Sớm tối thì thào miệng không dứt,
Cuối cùng trăm năm hình vẫn khô.

Ất Tị Tân Mùi cùng Canh Ngọ,
Nhật can mang theo là rất cát.
Lại xem tứ trụ như thế nào,
Định chủ chồng hiền mình cũng quý.

Bính Đinh Tý Sửu thành tình xuân,
Người sinh ngày này định bất đồng.
Giáp Ngọ Giáp Thân cùng Ất Dậu,
Tọa dưới Tài Quan phú quý vinh.

Đinh Hợi Mậu Tý cùng Canh Dần,
Nhật chủ gặp đây phúc không khinh.
Tân Mão BÍNH thân cùng Đinh Dậu,
Tài Quan nội ẩn hiển thanh danh.

Kỷ Hợi Giáp Thân kiến Canh Tuất,
Ấn thụ Tài Quan ám lý tàng.
Lại gặp Bính Thìn đến Nhâm Tuất,
Tứ trụ phù Ấn không tầm thường.

Giáp Tý Bính Dần cùng Đinh Mão,
Kỷ Tị Nhâm Thìn cùng Quý Tị.
Nếu là thân cùng nguyệt lệnh cường,
Hư danh hư lợi lại phiêu bồng.

Tân Hợi Canh Thân cùng Kỷ Sửu,
Tọa dưới Tài Quan cũng không có.
Thê cung Tử nữ là hư hoa,
Đông tây nam bắc là cửa nhà.

Giáp Dần Mậu Tuất cùng Canh Tý,
Nữ khắc trượng phu nam khắc con.
Kỷ Tị Bính Ngọ cùng Đinh Mùi,
Trùng trùng Nhâm Tý chủ cô cùng.

Tân Dậu Ất Mão cùng Mậu Ngọ,
Can chi đồng loại vợ không đủ.
Kỷ Mùi Canh Thân cùng Quý Hợi,
Nguyệt lệnh lại vượng thành họa hại.

Nhật chủ Tài Quan Ấn thụ đủ,
Tháng giờ phù hợp phúc triền miên.
Can chi đồng loại cùng thân vượng,
Khắc tử hình thê phá tổ điền.

Cùng đem tứ trụ phân cường nhược,
Chớ nắm âm dương chỉ một lời.
Đây là ngũ hành chân diệu quyết,
Không gặp kẻ hiền chớ có truyền.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Chú giải 《 Thiên Nguyên phú 》

Tam tài tức định, ngũ khí hỗn đồng, phân chi nghịch thuận, hiền giả giai thông.
Chú thích: Tam Tài là thiên can, địa chi và tàng can. Ngũ khí là khí kim mộc thủy hỏa thổ. Hỗn đồng ở trong, là lấy dương thuận âm nghịch mà phân, cuối cùng là có thể luận mệnh.

Giáp đắc Quý nhi tư vinh, y thực tự nhiên phong túc.
Chú thích: Giáp dương mộc vô căn, nếu không có thủy thì khô mục vậy. Quý thủy, là âm thủy vậy. Là giống như mạch nước chảy ở trong khe đá mà ra, không trôi không nổi. Giáp mộc dựa vào để sinh thân, mới được tươi tốt. Quý thủy là mẹ Giáp mộc, là mẫu tử cùng nương tựa nhau, thì ăn mặc tất nhiên sẽ dồi dào. Như Giáp mộc sinh ở mùa Xuân, tất nhiên là nhận vượng, sinh ở mùa Đông, thì Quý thủy vượng có thể sinh thân, cho nên nói là phúc vậy.

Ất bạn Nhâm nhi hoạch phúc, thiên tứ lộc vị cao sùng.
Chú thích: Ất âm mộc có căn, dựa vào Nhâm thủy để nuôi dưỡng. Nhâm thủy, là dương thủy vậy. Ví như thủy ở Giang Hải ( sông lớn), gốc không thể tổn hại căn. Tuy nhiều nhưng không chìm ngập, không thể chảy bềnh bồng, giống như cây cối được mưa liên tục, cho nên viết là Thiên tứ lộc vị cao sùng (trời ban bổng lộc và chức quyền).

Bính Ất giao hội, bình sinh phúc thọ siêu quần, xuất thế thâm thành tài nghiệp.
Chú thích: Bính, là dương hỏa vậy. Ất, là âm mộc vậy. Âm mộc sinh dương hỏa, là tương sinh vậy. Ất là mẹ Bính. Bính là tượng Thái Dương, ở trên trời mà mặt trời, ở đạo làm người là vua, là cha, là chồng, chủ cương nghị bất khuất, có dạng văn minh. Lại được Ất mộc sinh, thì gọi là Giao hội (gặp nhau). Đạt được ánh sáng rực rỡ, cho nên được tượng Siêu quần (ưu việt) , mà sống thọ.

Mậu Ấn Đinh hề, tự Hổ cư sơn cốc chi uy.
Chú thích: Mậu là dương thổ, dựa vào Đinh hỏa để sinh. Đinh tức là mẹ Mậu, mẹ là Ấn thụ, mà thổ không có chính vị, ký sinh ở hỏa, nhận khí vượng ở bốn mùa, phương Thìn Tuất Sửu Mùi. Cho nên lấy thổ là Sơn cốc, nếu Hổ ở giữa sơn cốc, tất nhiên là có uy.

Kỷ giao Bính hề, tượng long đắc phong vân chi thế.
Chú thích: Dương hỏa sinh âm thổ, giống như tượng cha sinh con gái. Bính là cha Kỷ, là nói ví như được sự che chỡ của cha mẹ, giống như Rồng được thế lực của gió mây, tự nhiên đảm nhận vậy, là phú quý vậy.

Canh phùng Kỷ thổ, quan lộc hữu dư.
Chú thích: Canh kim lấy Kỷ thổ làm mẹ. Người sinh kim, gặp hỏa địa, thì thân bại vậy. Phải có thổ để sinh, thì là phúc vậy. Nếu đến vận thổ cũng được, nhưng nếu thổ quá nhiều, thì chôn kim vậy, là không có phúc. Ngũ hành lấy trung hòa là chủ.

Tân đáo Mậu hương, y thực tự túc.
Chú thích: Tân kim gặp đất Mậu thổ, là được cha mẹ trợ giúp, là chỗ được. Mà kim dựa vào thổ sinh, giống như ngày Tân gặp đất Mậu, mệnh cục gốc không có Ấn thụ, bỗng nhiên gặp đất Ấn, như gặp được cha mẹ, thì khoan khoái vậy, là chủ có cơm áo đầy đủ. Nhưng nếu tứ trụ nhiều thổ, thì không nên lại hành đến thổ vận, gọi là Thổ đa kim mai (tức là thổ nhiều thì kim bị chôn vùi vậy).

Nhâm thủy đắc hội, phúc thọ vô cương.
Chú thích: Nhâm thủy dựa vào Tân kim là mẹ, nghĩa là được sinh sinh bất tuyệt, giống như Nhâm thủy sinh vào mùa Hạ, thì không có căn vậy. Nếu gặp Tân sinh, gọi là phúc thọ vô cương.

Quý Canh tương phùng, thiên nhiêu phó mã.
Chú thích: Quý thủy lấy Canh kim làm mẹ, như lấy can ngày là Quý, tứ trụ có Canh kim là Ấn. Như không có Bính hỏa khắc thương, thì chủ là người phó mã phú hậu (giàu có nhiều ngựa và nô tỳ). Trong trụ không có Ấn Canh kim, mà gặp phương Ấn thụ Canh vận, cũng có thể lấy vinh vậy.

Thanh cao phù ấn, tu tri quan miện dĩ thừa hiên.
Chú thích: Phù ấn, là sao Quan Ấn, thì gọi là sao Đường Phù, Quốc Ấn, sinh mệnh mà gặp, chủ có địa vị mũ quan xe đón. Không phải là vua, thì là địa vị vương hầu. Lấy can năm khởi cung Lộc, đếm thuận tám vị gọi là Đường Phù, chín vị gọi là Quốc Ấn. Như người sinh Bính Mậu, Bính Mậu lộc ở vị trí "Tị", từ vị trí "Tị" đếm thuận đến tám vị là "Tý" gọi là Đường Phù; đến đến chín vị là "Sửu" gọi là Quốc Ấn, chỗ hai sao này gọi là Quý.

Như biểu dưới đây:

CAN NĂM: GIÁP ẤT BÍNH ĐINH MẬU KỶ CANH TÂN NHÂM QUÝ
THẦN SÁT: Đường Phù
...............Dậu Tuất Tý Sửu Tý Sửu Mão Thìn Ngọ Mùi
THẦN SÁT: Quốc Ấn
...............Tuất Hợi Sửu Dần Sửu Dần Thìn Tị Mùi Thân

(đọc là can Giáp có Đường Phù tại Dậu, Quốc Ấn tại Tuất, tiếp tục với các can sau đó)

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Xung phá lộc tinh, ứng hiển uy quyền nhi giải thụ.
Chú thích: Lộc tinh, là Quan lộc vậy. Dụng là Quan, không thể xung. Dụng là Lộc, không thể phá. Phá và xung, cả hai đều là hại, dù có uy quyền, gặp thì bản thân nên né tránh địa vị vậy. Như Giáp dụng Tân là Quan, Quan bị Đinh hỏa khắc phá, thì gọi là hại quan.

Dương mộc Giáp phùng Canh bại, chi sao bất đắc vô thương.
Chú thích: Giáp là dương mộc, gặp Canh kim, thị bị khắc gọt, thân không thể tránh bị tổn thương, tức là Canh kim khắc Giáp mộc, lấy thân mệnh làm ví dụ, chủ gân cốt bị bệnh đau nhức, khó mà nhận phúc. Chỉ có hành vận đất hỏa chế Canh, có thể nói là vận may vậy.

Âm mộc, Ất ngộ Tân kim, hành diệp tự nhiên hữu tổn.
Chú thích: Tân kim, là kim ở cát bùn, chỉ có thể tổn thương cành là mà thôi, không thể hại thân thể vậy. Chính là do âm khắc âm, như Ất mộc chủ có khí, tọa ở vượng địa, thì không có sợ vậy.

Viêm viêm Bính hỏa, ngộ Nhâm nhi hách hách vô quang.
Chú thích: Bính hỏa, là dương hỏa. Tượng là mặt trời, tượng treo lơ lững ở trên trời, chiếu sáng thật rõ ràng. Nhâm thủy, là dương thủy, là Giang hải ( sông biển). Bính hỏa gặp hội cục ( tam hợp, tam hội ) thì có tổn hại. Nếu không hội cục, thì vô hại vậy.

Thước thước âm Đinh, phùng Quý nhi minh huy tự ám.
Chú thích: Âm hỏa gặp âm thủy, Đinh hỏa là thước thước tinh quang (sao sáng nhấp nháy), tượng lơ lững ở trên trời, Quý thủy ở dưới đất gọi là Tuyền thủy ( nước khe suối). Thủy hỏa tương khắc, chủ con mắt, có bệnh trong tim.

Mậu cư Giáp vị, duy lại Canh phương năng cát.
Chú thích: Mậu thổ gặp Giáp mộc khắc, chủ bệnh tỳ vị. Mậu, là dương thổ, là đất ở tường thành, là bờ đê phòng, gặp Giáp dương mộc khắc, thì có họa sụp đổ. Như được Canh dương kim chế Giáp mộc, thì có thể cứu nguy, nói là cát vậy.

Kỷ tọa Ất hương, tri thị can đầu hữu quỷ.
Chú thích: Âm can khắc âm can, gọi là Quỷ vậ. Như nhật chủ Kỷ thổ, lâm vị trí Mão, chính là Quỷ tọa ở dưới. Lại hành vận Dần Mão, lại gặp Giáp Ất, đất tương khắc, thân vượng thì gặp Quan là phúc; thân nhược thì gặp Quỷ là họa, là tổn thất hoặc là bần.

Canh Phùng bính chiến, thế tự khuynh nguy, Tân bị Đinh xâm, khắc phạt thành hại.
Chú thích: Canh kim gặp Bính hỏa khắc, chủ bệnh gân, phổi. Canh Tân kim, bị Bính Đinh hỏa khắc, thì không thể là phúc, cần được Nhâm Quý thủy, chế Bính Đinh hỏa, giúp cho quân bình, có thể thành phú quý.

Nhâm ưu Mậu chí, kiển khí nan thông, Quý phạ Kỷ lâm, trì hối kinh hoàng.
Chú thích: Nhâm Quý là thủy, rất ưa nhuận hạ, như gặp Mậu Kỷ thổ là trì trệ không thông, chủ không thể nhận phúc. Thổ nếu quá nhiều, thì là bần tiện. Còn nấu thủy quá nhiều, thì là chảy bừa bãi tràn lan. Duy thủy không có thổ, thì chảy mà không dừng lại, dựa vào thổ ngăn mà phòng thủ. Thổ ngăn thủy chảy, hoàn toàn phúc thọ.

Can quỷ đới lộc vượng, phù trì cánh phá.
Chú thích: Thân nhược, nhật can thụ khắc, gọi là Can quỷ. Nếu gặp lộc vượng, thì có thể phù trì. Nếu có phá bại, là phúc thì ít, là họa càng nhiều. Chủ hoặc là phú hoặc là bần, là mệnh tiến thoái vô thường.

Chi thần vô cát thần, họa giai nan miễn.
Chú thích: Chi thần, là Nhân nguyên vậy. Tức là thần tàng can địa chi, cần có cát thần tương trợ, có thể thành phúc. Nếu thần tàng chi tương khắc, gặp họa hoạn thì khó tránh vậy. Như Giáp mộc sinh ở tháng Tý, cung Tý tàng Quý thủy là Ấn, thì là tốt vậy. Nếu như trong trụ năm ngày giờ có Kỷ thổ, vượng khắc Quý thủy, thì là cát thần bị tổn, thì họa khó miễn.

Thực đường phúc thọ sùng cao, giai ngôn giáp đáo Bính hương.
Chú thích: Thực Đường chủ người giàu có phúc hậu. Giáp đến Bính, là đất Thực thần. Giáp mộc sinh Bính hỏa, Bính là con của Giáp vậy, Giáp giống như cha của Bính. Giáp lộc Thực Bính, giống như con cái nuôi dưỡng cha, cho nên viết nhật can Giáp gặp Bính, là phúc thọ sùng cao.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Triều tỉnh văn quý ưu thăng, cái vi Ất cư Đinh xá.
Chú thích: Ất mộc sinh Đinh hỏa, Ất đến đất Đinh, cũng là chỗ ở của Thực thần, giống như cha nuôi cho con ăn, là cát vậy.

Quan lộc tịnh điệp, Bính thực Mậu nhi thành công.
Chú thích: Bính hỏa sinh Mậu thổ, cũng là đất Thực thần, nói Bính hỏa nuôi Thực Mậu thổ, là cát.

Cốc mạch doanh thương, Đinh đạm Kỷ nhi hữu vượng.
Chú thích: Đinh hỏa là lộc Thực Kỷ, chủ cát.

Yếu đắc phong túc, vô quá Mậu đắc phùng Canh.
Chú thích: Mậu thổ là lộc Thực Canh kim.

Dục vấn cao thiên, toàn lại Kỷ gia Tân địa.
Chú thích: Kỷ thổ là lộc Thực Tân kim vậy.

Mãn đường kim ngọc, Canh lộc hữu Nhâm. Quảng trí điền viên, Tân năng thực Quý.
Chú thích: Canh kim là lộc Thực Nhâm thủy, Tân kim là lộc Thực quý thủy, đều là nói nuôi dưỡng cho con ăn vậy.

Nhâm Thực Giáp nhi hữu vượng, chúng phúc như ma. Quý hướng Ất nhi sinh thành, nhập thực liệt đỉnh.
Chú thích: Nhâm thủy là lộc Thực Giáp mộc, Quý thủy là lộc Thực Ất mộc, đều là lộc can can sinh thành.

Can chi kiến Thực thần, như phụ đắc tử chi dưỡng, tất nhiên hưởng phúc an thọ, nhi vô sở hại dã.
Ngũ hành ký phế, đắc cứu trợ dĩ tai khinh.
Chú thích: Tứ trụ ngũ hành, gặp đất hưu tù tử tuyệt, như nếu trong trụ có một phương ở trường sinh, đế vượng, thì có phần tương trợ, có họa thì cũng nhẹ vậy.

Tứ trụ Quan Ấn, vô tổn hoại nhi lộc trọng.
Chú thích: Can đầu tứ trụ có Quan tinh, Ấn tinh, không có khắc, chủ người cả đời lộc trọng, nhưng chỉ sợ gặp vận khắc hại. Phạm tiểu vận, lưu niên khắc phá, chủ một năm gặp bất lợi, thì không lâu dài vậy.

Giáp phùng Đinh nhi thành diễm, tư tài luy tuế đa hủ. Ất ngộ Bính nhi hóa hôi, kim ngọc tự tiêu nan tụ.
Chú thích: Giáp mộc sinh Đinh hỏa, Ất mộc sinh Bính hỏa, luận là Thương quan cướp khí. Thương quan, là ta sinh con vậy. Là người kiêu ngạo, không tuân theo quy củ, làm tiêu hao tài vật của cha mẹ, nhìn người không bằng mình. Thương hỷ Quan Tài, thì vinh; không có Tài thì bần.

Thiên nguyên chính bại, Bính kiến Kỷ nhi thương tàn. Can lộc toàn khinh, Đinh trị Mậu nhi suy nhược.
Chú thích: Bính hỏa thấy Kỷ thổ, Đinh hỏa thấy Mậu thổ, gọi là Hỏa thổ Thương quan là hại.

Mậu nhược phùng Tân, tu trượng cát sát dĩ phù trì. Kỷ nghi thâu Canh, thực lại ngũ hành chi cứu trợ.
Chú thích: Mậu thổ gặp Tân kim, Kỷ thổ thấy Canh kim, gọi là Thổ kim Thương quan. Thổ kim đều thấy cả hai thì trái lại là thành hỉ, dựa vào Tài Ấn để trợ thì là phúc, kị có Quan.

Canh trung kiến Quý, đãng tán tư tài.
Chú thích: Canh kim sinh Quý thủy, thì có họa làm sạch tiền tài. Cần được thổ để ngăn, mới là phát phúc; không có thổ ngăn, thì thành tản mạn. Chủ người lưu đãng dâm dục phá gia đình.

Tân lộc ngộ Nhâm, dong tiêu phúc lộc.
Chú thích: Tân kim sinh Nhâm thủy, gọi là Thương quan, là Kim thủy Thương quan. Chủ người thanh tú yêu thích ca nhạc, cực kỳ thông minh nhưng dâm dật vô độ. Gặp thổ ngăn thì thành phúc; không có thổ ngăn, là hạ cách.

Niên thiếu phùng tai, Nhâm Thương Ất vận.
Chú thích: Nhâm thủy sinh Ất mộc, là Thương quan. Lại hành vận Thương quan, chủ có họa.

Tổ tài tùy phế, Quý bị Giáp xâm.
Chú thích: Quý thủy sinh Giáp mộc, là Thương quan. Trong trụ có chế thì cát, không có chế thì hung.

Y thực nan cầu, ấu tuế thường phùng ngũ quỷ.
Chú thích: Nhật can nhược, thấy Thất Sát, gọi là Quỷ. Gọi là Âm Quỷ hại thân, là âm thầm không ngờ. Nếu là thân vượng, thì hóa Quỷ thành Quan, thì có thể sinh thân thành phúc. Gặp Ngũ Quỷ, là Âm Sát vậy, hại người không ít.

Tuần muộn hưu tường, trường niên nguyên trị tam hình.
Chú thích: Tam Hình: Dần Tị Thân, Tuất Sửu Mùi, Tý Mão chi hình. Địa nguyên nếu gặp, là bất lợi vậy.

Họa lai nan miễn, lộc bản phùng suy. Nhược ngộ bại thần, tư sinh hưu cữu.
Chú thích: Quan là gốc Lộc, có Quan mà không có Lộc, thì gọi là Giả Quan, dù có vinh mà không quý. Có Lộc mà không có Quan, thì không có chỗ thi hành. Quan Lộc nếu hành đến đất suy tuyệt, khó miễn họa không rời vậy. Bại thần, là thần phá bại. Trong mệnh nếu gặp, chủ cả đời gặp bất lợi.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Huống phu Giáp tăng Ất hướng, phùng chi tự kỷ đa tai. Ất bị Giáp lâm, phản dữ nhân vi trợ.
Chú thích: Giáp thấy Ất, gọi là Bại tài, Dương Nhận, chủ khắc cha và vợ. Có gia sản, thì anh em tranh giành mà phân chia. Không có gia sản, thì khởi mầm tai họa, anh em không nhìn nhau. Ất thấy Giáp là anh trai, gọi là Kiếp tài, Trục Mã, khắc vợ, thân nhược thì trợ thân, gặp Tài mà cướp. Tức là can dương thấy chi âm cùng một ngũ hành, gọi là Bại tài; can âm thấy chi dương cùng một ngũ hành, gọi là Kiếp tài.

Nhâm hành Quý ách, Bính tối thâu Đinh, Tân kị Canh phương, Đinh hiềm ám nội.
Chú thích: Chỗ này đều là họa Bại tài, Kiếp tài vậy.

Mậu đồng Kỷ hề, đa sinh tỳ vị chi tật.
Chú thích: Mậu Kỷ thổ, ở trên thân thể con người là tỳ vị, nếu mà gặp mộc khắc, thì có bệnh tổn thương tỳ vị.

Kỷ cộng Mậu hề, phản hữu bôn ba chi sự.
Chú thích: Kỷ là đệ, Mậu là huynh, mỗi người tự lập, thì không tổn thương hòa khí. Nếu như anh em cùng chỗ, tất có biến bên trong, trái lại là chủ bôn ba lao khổ, yên ổn mà có được vui mừng chăng?

Nhu năng chế cương, đa nhân Tân dữ Canh kỳ, đại trọng chi dư, nãi thị Tân cư Canh địa.
Chú thích: Canh dương là kim cương, Tân âm là kim nhu vậy. Canh dương kim, là khí thanh kiếm, cho nên nói là Cương, có thể sát hại vạn vật. Tân là âm kim, là chất trang sức giống như vòng đeo tay, dây chuyền, cho nên nói là Nhu, vật dùng làm mỹ quan. Dương cương mà âm nhu, được hỗ tương giúp nhau, là phúc, tương chế là lộc.

Quý trung ẩn Bính, Nhâm Ngọ ngộ chi đa thương.
Chú thích: Quý lấy Bính là Tài, chỗ được sử dụng, nếu gặp Nhâm Ngọ, lại tổn thương Bính. Nhâm là anh trai của Quý, lại cướp Bính Tài, cho nên viết là Đa thương (nhiều tổn thương). Trong Ngọ cũng có Bính, huống chi Can lại có Nhâm, gặp Nhâm lại tổn Bính, cũng là cướp Bính Tài. Lấy ngày Quý làm chủ, tứ trụ có Bính, lại gặp Nhâm Ngọ, thì chủ gặp nhiều tổn hại.

Nhâm nội tàng Đinh, Quý thủy phiên nhiên tự bại.
Chú thích: Đinh và Nhâm hợp, có tình nghĩa vợ chồng. Nhâm là anh trai, Quý là em trai, như gặp Quý thủy khắc Đinh hỏa, chính là em trai đoạt vợ, thì là thương bại vậy, trái lại là thành đại họa.

Dương giả nhược vi ám tổn, bình sinh duy ác khinh sinh.
Chú thích: Dương là cương vậy, có lòng quả cảm cương nghị. Nếu gặp ám tổn, còn có lá ở trên thân sao?

Âm vị tức viết Bại thần, xứ thế vưu tiện ức tắc.
Chú thích: Âm là nhu vậy. Là vật nữ nhân yêu thích. Nếu mệnh nam mà thuần âm, cũng thiếu cương trợ. Thế bị bao vây, cũng là chí khí bị ứ tắc. Nếu được ngũ âm tụ cục, có thể nói là phú quý.

Giáp kiến Tân nhi hóa Quan, cương nhu tương tể.
Chú thích: Giáp lấy Tân là Quan, Giáp cương Tân nhu, là âm dương tương tế, mà không phải là tương khắc.

Ất kiến Canh nhi vi phúc, huynh đệ đồng hương.
Chú thích: Ất thấy Canh hợp, Canh kim khắc Ất mộc, là Chính Quan, mà thành có phúc, giống như cùng là anh em, mà hòa thuận vậy.

Thủy hỏa ký tế, khước ngôn bính đối quý hương.
Chú thích: Quý thủy khắc Bính hỏa. Bính là Thái Dương, ở trên trời, Quý thủy ở dưới đất, trên dưới cách xa nhau, sao có thể là tương khắc? Còn Tý Ngọ đối xung nhau, chính là được tượng Ký Tế, cuối cùng là dấu hiệu cát.

Ý khí tương thừa, nãi thị Đinh quy Nhâm xá.
Chú thích: Đinh và Nhâm vốn là tương hợp, dương thủy không thể khắc âm hỏa vậy. Cho nên cùng ở một nhà, hợp nhau mà vui vậy.

Mậu lâm Ất vị, đắc mộc nhi sinh thành.
Chú thích: Mộc dựa vào thổ để dưỡng vậy, lại được tượng thành rừng; thổ dựa vào mộc để tiết thổ khí, cả hai đều được mà sinh thành. Mậu thổ lâm Ất mộc, thành tương sinh vậy.

Kỷ hướng Giáp hương, âm ngộ dương nhi khả quý.
Chú thích: Giáp là dương mộc, Kỷ là âm thổ, âm dương tương phối, Giáp Kỷ hợp, Giáp lấy Kỷ là Tài, lấy thê tài mà hưởng thụ, là quý vậy.

Bạch Hổ thông đạo, Canh gia Đinh lâm, Thái Âm đắc lộ, Tân quy Bính xá.
Chú thích: Canh Tân kim gọi là Bạch Hổ, cộng thêm Đinh hỏa khắc Canh kim, được phối đạo âm dương. Lấy nhu mà tế cương, không có tương hại vậy. Tân là Thái Âm, gặp Bính hợp, thì gọi là chính nghĩa.

Nhâm vu Kỷ hề, viễn phiếm hồng ba.
Chú thích: Nhâm là thủy Giang Hải ( nước ở biển, sông), Kỷ là thổ Bình địa ( đất đồng bằng), Nhâm thủy ở trên Kỷ âm thổ, thì thành hồng ba viễn phiếm (sóng lớn tràn lan), không có chỗ dừng lại, cần có Mậu dương thổ để ngăn lại, liền bít dòng chảy.

Quý hỷ Mậu hề, trừng lan phiêu miểu.
Chú thích: Quý và Mậu hợp được thành chính nghĩa, là phúc vậy. Không có sóng to chảy tràn lan, cho nên Quý hỷ Mậu vậy.

Dương ngộ âm nhi hóa hợp, âm đắc dương nhi thành khí.
Chú thích: Tòng hóa, là âm dương tương hợp tương đắc.

Hựu hữu Giáp Kỷ tương phùng, hóa thổ vi phúc, tắc phu phụ hà xương.
Chú thích: Giáp Kỷ hợp hóa thổ, nhật can Giáp lấy Kỷ thổ là Tài, giống như con người lấy thân Tài để theo vợ, có thể là phúc, hoàn toàn được đạo vợ chồng.

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
Ất Canh các hợp, thành kim đắc vị, tắc đông tây loại hóa.
Chú thích: Ất Canh hợp hóa thành kim. Đắc vị, vị trí ở tháng Thân Dậu, hoặc địa chi hoàn toàn có đủ Thân Dậu Tuất, hoặc Tị Dậu Sửu Tuất, tháng Tị.

Bính Tân hóa thủy, trí hiển tắc tất chủ văn chương.
Chú thích: Bính Tân hợp hóa thủy, chủ trí tuệ hiển lộ nhiều tài năng.

Đinh Nhâm vi mộc, thông minh tắc cận thiện đa nhân.
Chú thích: Đinh Nhâm hợp hóa mộc, chi tháng là Dần Mão, hoặc địa chi Hợi Mão Mùi, hoặc Hợi Dần Mão Thìn, Mùi, tháng Thìn, có thể hóa. Chủ thông minh, vui vẽ, hiền lành, là người giàu lòng nhân ái.

Mậu Quý đắc hóa, lộc vị sùng cao, nhị giả tương phùng, tam tài khả lập.
Chú thích: Mậu Quý hợp hóa hỏa, sinh sinh bất tuyệt, hóa hóa vô cùng, là bổng lộc và chức quyền cao quý.

Dương ngộ dương nhi hóa quan, đáo vượng phương quan sùng vị hiển.
Chú thích: Nói một âm một dương hợp hóa là hỷ thần, ở vượng địa thì là quý vậy, là quan cao vinh hiển.

Dương đắc âm nhi thành phối, lâm hữu khí tài vượng thê hiền.
Chú thích: Dương là nam. Âm là nữ. Âm dương tương hợp, gọi là tình vợ chồng. Nếu có khí, chủ tài vượng, vợ hiền. Nếu gặp đất hưu tù tử tuyệt, chủ tán tài thương thê.

Thị dĩ bình sinh bất túc, Giáp vi Nhâm thương, xứ thế đa trì, Ất nhân Quý khắc.
Chú thích: Giáp mộc dựa vào thủy để sinh. Nhưng Giáp là dương mộc, là trụ cột vậy, không phải rễ của cây cỏ. Nhâm, là dương thủy. Thủy đa mộc phù, e sợ có bị trôi dạt mất, cho nên viết Bình sinh bất túc (cả đời không đủ). Ất là âm mộc, là rễ cây cỏ, chỉ cần ở dương địa, không thích hợp ở xứ âm, Quý là âm thủy, cho nên viết Xứ thế đa nghịch ( xử thế nhiều phản nghịch).

Dương tự bại hề, Bính vi Giáp thương. Âm bất minh hề, Dậu duyên Ất chế.
Chú thích: Chỗ này là nói mẹ bị chế ở người, thì không thể giúp cho con cái. Bính hỏa dựa vào Giáp mộc sinh, để thành quang minh chiếu vật. Thế nhưng Giáp mộc bị chế do Canh kim khắc, thì không thể sinh hỏa. Đồng lý, Ất mộc bị chế bởi Tân kim, thì không thể trợ lực cho Đinh.

Thượng chi lăng hạ hề, Mậu tao Bính thực. Ti khủng khi tôn hề, Kỷ thương Đinh viêm.
Chú thích: Mậu gặp Bính, gọi là Thiên Ấn. Kỷ gặp Đinh, cũng gọi là Thiên Ấn. Không có chế, gọi là Đảo Thực.

Dương lộc liệu lệ hề, Mậu thổ hối chi. Tân lộc ti bạc hề, Kỷ âm phá chi.
Chú thích: Chỗ này là nói chất Canh Tân là kim, bởi vì Mậu Kỷ thổ nhiều, mà chôn vùi chất đẹp, không thể hiển đạt vậy.

Thất chi vu trí, giai nhân Canh họa vu Nhâm. Tang chi vu quyền, mỗi phùng Tân thương vu Quý.
Chú thích: Chỗ này nói thủy Nhâm Quý, vị bị chỗ Canh Tân quấy nhiễu, giống như một mẹ mà nhiều người, chăm sóc một con thì trái lại là hại. Cho nên quyền trí mất không còn, không được chuyên nhất.

Giáp Ất thường hãn Mậu Kỷ, nãi vi sinh Bính chi tài. Bính Đinh vưu hỷ Canh Tân, Thực thị sinh Mậu chi phúc.
Chú thích: Giáp Ất mộc, lấy Mậu Kỷ thổ là Tài. Bính Đinh hỏa, lấy Canh Tân kim là Tài. Chính là lý lẽ sinh thành, cho nên an hưởng vậy.

Câu Trần đắc địa, Mậu quy Nhâm hương. Âm thổ phùng Tài, Kỷ gia Quý vị.
Chú thích: Câu Trần, là Mậu Kỷ thổ vậy, lấy Thìn Tuất Sửu Mùi mà đắc địa. Mậu là dương thổ, lấy Nhâm dương thủy là Thiên Tài. Kỷ là âm thổ, lấy Quý thủy là Thiên Tài.

Canh Tân Dần Mão, diệc nhiên nhi phúc thọ.
Chú thích: Dần Mão, là đất mộc vượng. Canh Tân lấy Giáp Ất là Tài, tất nhiên là phúc thọ.

Nhâm Quý Bính Đinh, hỷ vĩnh dĩ vô ngu.
Chú thích: Nhâm Quý thủy, lấy Bính Đinh hỏa là Tài. Tất nhiên cũng được sử dụng, sao mà lo lắng chứ?

Đương tri ngã hại bỉ cát, bỉ hại ngã hung. Tự thâm dĩ trực nhi ngôn chi, tiêu tường vi khả hĩ.
Chú thích: Ta khắc là Tài địa. Nó khắc ta, gọi là Sát vậy.

Riêng 2 bài Tứ Ngôn độc bộ và Ngũ ngôn độc bộ đã gửi riêng ở diễn đàn.
Vì trong tác phẩm TMTH không có chú giải kĩ càng để hiểu, cho nên mượn các bài trên do Hoàng Đại Lục bình chú để các bạn tham khảo khỏi tốn thời gian viết lại.


( HẾT)

12.5.2016

descriptionQuyển 12 - Các bài phú đoán mệnh  - Page 2 EmptyRe: Quyển 12 - Các bài phú đoán mệnh

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết