KIM TỬ BÌNH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

KIM TỬ BÌNHĐăng Nhập

Linh hoạt luận giải mệnh lý học Tử Bình từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau


descriptionThể Dụng  EmptyThể Dụng

more_horiz
sherly, 2020

Vấn đề này đối với tôi còn rất mới mẻ, nhiều lúc nghiệm lý cũng mường tượng ra được nó, nhưng không biết diễn giải làm sao.

Trích thiên tuỷ có một chương về Thể Dụng, nhưng viết rất khó hiểu, lại chỉ có 1 ví dụ. Thế nên với tôi thì lập topic này coi như là để cùng nhau nghiên cứu về nó.

Theo lẽ thường, Thể là ta, là bản thể, còn Dụng là khách, là đối tượng ta có quan hệ. Dụng tương sinh tương hợp với thể thì tốt, phản khắc thì hung. Trong phạm vi tứ trụ mà nói, thì dụng là tất cả những thứ phù hợp với bố cục của bát tự, có lợi cho Nhật Can (là thể).

Sách trích thiên tuỷ có nói, dụng của thể dụng khác với dụng của dụng thần. Hay nói cách khác, dụng thần chúng ta hay xem là đại vận dụng thần, tức khi thời vận tới đó sẽ cát tường, nhưng thể dụng là cái cần thiết có lợi cho nhật can ở nguyên cục, tuỳ vào bố trí phối hợp của thiên can địa chi mà thể dụng có thể giống với dụng thần.

Cách tìm thể dụng, thì thực tế là không có một công thức nào cố định cả, tất cả ở chữ “tuỳ”.

Canh Dần-Mậu Tý-Canh Thìn-Kỷ Mão
Canh kim sinh tháng tý là kim hàn thuỷ lạnh, dần mão thìn là tam hội phương đông Mộc địa, có thể thấy là tài tinh rất cường mạnh, mừng canh kim có thổ ấn bao trợ, nên dụng thần đại vận phải là Hoả, tiết mộc sinh thổ, thổ sinh kim, làm ấm cục, tứ trụ lưu chuyển có tình.
Nhưng xét ở Nguyên Cục, thì hoả khí trong dần không thấu can, lại lưu khí theo mộc, nên hoả khí này không có tác dụng gì cả, Mộc nhiều thì khắc Thổ (là chỗ dựa của Canh Kim nhật chủ), thì Canh Kim trụ năm khắc Mộc cứu Thổ là điều rất cần thiết của mệnh cục này, nếu không có Canh kim này thì thổ khí bị tổn thương, có nguy cơ bị tàn tật. Nên Canh kim này được gọi là dụng (hay thể dụng) của mệnh cục này.

Tân mão - kỷ hợi - kỷ mão- canh ngọ
Kỷ thổ sinh tháng hợi là thất lệnh, địa chi tài sát cường vượng, sát vượng thì công thân, nên dụng thần chắc chắn phải là Hoả hoá sát sinh thân.
Nhưng xét nguyên cục, mão phá ngọ, ngọ hoả không cách nào tiết mộc sinh thổ. Nên nhìn đi nhìn lại, chỉ có tân kim toạ mão là cái đầu, giúp mộc khí không hung hăng mà khắc kỷ thổ nhật chủ, nên tân kim thực thần được coi là Thể Dụng của mệnh cục này.

Quý hợi - mậu ngọ - nhâm tuất - canh tuất
Nhâm thuỷ sinh tháng ngọ hoả là chính hạ, trời oi bức nhâm thuỷ tiên thiên cực suy nhược. Can thấu mậu thổ, cho có 2 tuất, có thể nói là thuỷ khí bị thổ khí vây khốn, lẽ thường nếu lấy dụng thần thì sẽ lấy ngay kim là dụng tiết thổ sinh thuỷ. Nhưng Bố cục bát tự này, quý hợp trói mậu, nên mậu thổ không khắc nhâm thuỷ, duy chỉ có nhâm toạ tuất thổ bị tiết cước, nên Canh kim ở trụ giờ có thể coi là Thể dụng của tứ trụ này, tiết thổ sinh thuỷ. Nhưng canh kim gặp ở nguyên cục thì tốt, nhưng tuế vận lại gặp nữa thì không lợi, dễ rơi vào thái quá, phản cát hoá hung.

Có thể nhận xét rằng, dụng của thể dụng, là cái mà cần thiết nhất cho nguyên cục, có sách thì ghi thể dụng là xem về khí tượng (bàn sau). Nó xuất hiện đúng nơi thì hình tượng nguyên cục rất đẹp, ví dụ nhật can luôn cần trung chính bình hoà, thì thể dụng này sẽ giúp nhật can đạt được điều đó. Ví dụ tứ trụ có ấn sinh thân, thân vượng, theo lẽ thường ta nói thân vượng kị sinh trợ, tức ấn tỷ, nhưng nếu Không có Ấn sinh, thì ta có vượng được không? Ấn tinh còn gọi là thể dụng vậy.

Cái dụng thần ta đang xem, đó là đại vận dụng thần. Còn thể dụng thì có ý nghĩa hoàn toàn khác.
Ví dụ thực tế: cha mẹ giàu, nuông chiều con, con sống sung sướng lại thành ra hư đốn, thì cha mẹ chính là Thể dụng trong tứ trụ của con, nhưng là kị thần đại vận trong chính tứ trụ đó. Tức phải có cha mẹ giàu có, thì con mới sung sướng. Nhưng thay vì có xuất phát điểm tốt như thế, đứa con lại tiếp tục hành vận phù trợ cho ấn tinh, thì lại thành cái đứa vô dụng, ăn chơi phá bại.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Thể dụng nhiều mệnh dễ xem, nhưng nhiều mệnh rất là khó phân biệt với đại vận dụng thần.

Vd:
Quý tị - giáp tý- đinh dậu - giáp thìn
Mệnh này xem thể dụng rất dễ, đinh hoả tuyệt địa tại tháng tý, lại thấu quý trụ năm, hoả này rất sợ thuỷ khắc, nếu không có cứu thì dễ yểu mệnh. Nhưng mừng là giáp mộc thấu can thu thuỷ khí, nên hoả được cứu. Giáp mộc này được coi là dụng của thể dụng.
Nhưng đại vận dụng thần lại là Thực thương, thành đại nghiệp ở vận Kỷ Mùi.

Càn: Mậu dần- quý hợi - đinh mùi - tân hợi
Đinh hoả sinh tháng hợi thấu quý, nhật can rất sợ thuỷ khắc, mừng nhất Mậu hợp quý làm quý không khắc được đinh, nên Mậu là Thể dụng của tứ trụ này, nhưng chỉ tốt ở nguyên cục, gặp ở đại vận lại sinh kim háo tiết thân là rất xấu.
Dụng thần đại vận dĩ nhiên là mộc hoả
Vận mộc hoả thi đỗ liên tục, danh lợi song toàn.

Càn: bính dần- giáp ngọ- bính ngọ- quý tị
Mệnh này luận tòng cường là dĩ nhiên, nhưng giả sử là giờ Giáp Ngọ, cũng là tòng cường nhưng lại rất xấu, có thể yểu mệnh.
Nguyên do, quý thuỷ chính là thể dụng vi diệu của tứ trụ này.
Bính hoả sinh tháng ngọ là hoả viêm thổ táo, mộc bị đốt cháy, quý thuỷ ở giờ có tác dụng điều hoà khí hậu. Giống như mặc dù là trời nắng nóng, nhưng một cơn mưa mốc nó cũng đỡ hơn là chẳng có cơn mưa nào.
Dụng thần đại vận dĩ nhiên là mộc hoả thổ, đến hợi vận xung động khí vượng hoả gia phá mạng vong.
Nếu giờ Giáp ngọ
Hoả viêm thổ táo, tự mình thiêu cháy mình, tứ trụ không thể lưu thông, cuộc đời vất vả khó khăn, thể dụng không có.

Manh phái đoàn kiến nghiệp khi phân thể dụng:
Ấn, tỷ kiếp lộc thần kình dương là Thể
Tài quan là dụng, thực nghiêng về dụng, thương nghiêng về thể
Rồi luận các mối quan hệ xoay quanh thể dụng để xét phú quý sang hèn như hợp dụng, sinh dụng, hoá dụng...

Mặc dù tôi không đồng ý phần lớn cách luận hiệu suất tố công, nhưng về cơ bản thể dụng là đồng ý, đó là dụng phải vinh thể thì hợp, còn nhục thể thì không hợp, hữu tình, vô tình là ở thể dụng.

Trung hoà, thuần tuý là cát
Bác tạp thiên khô là hung
Hay, thiên vượng, thiên nhược, tòng cách là cát
Thái vượng, thái nhược, gặp tổ hợp bất lợi là hung.

Thì dụng của thể dụng đóng vai trò điều hoà mệnh cục, như chế sát thái quá thì có tài trợ sát, tài là thể dụng. Tài nhiều khắc ấn thái quá, thì tỷ kiếp là thể dụng.

Mệnh cục mà thể dụng yếu kém, có cũng như không có thì hỏng, có đến vận dụng thần thì cũng chẳng khởi phát được.

Có lẽ, nhiều chỗ trong các sách cổ về tứ trụ, tác giả dùng từ “dụng” chỉ về Thể Dụng, chứ không nói về dụng thần.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Thể là hình tượng khí cục, nếu tứ trụ không có tòng tượng, lưỡng hành thành tượng, hoá tượng.. thì lấy nhật can làm thể, lấy nơi có ích cho thể làm dụng.

Cách cục phái sẽ lấy cách thần làm thể, lợi cho cách thần sẽ làm dụng, tuỳ phép xem mà luận thể dụng.
Ví dụ, nói về lấy nhật can làm thể, thì thứ làm cho nhật can thiên vượng- thiên nhược, là dụng.

Nói về cách thần làm thể, thì thứ làm lợi cho cách thần làm dụng. Thương quan kiến quan làm thể, thì tài tinh, ấn tinh là dụng. Thực thần chế sát là thể, thì sinh trợ thực thần, bại khí thất sát là dụng.

Luận hỉ thần: lấy dụng của nhật can làm thể, thứ có ích cho Thể này chính là hỷ thần.

Không nên nhầm lẫn thể dụng với dụng thần đại vận, có thể thương tài trong bát tự là hỷ dụng, nhưng đến vận thương tài lại xấu. Hỷ dụng này không mang ý nghĩa cát hung, mà nó mang ý nghĩa phù hợp, không phù hợp.

Vd: Anh có khả năng về máy tính thì anh làm công việc liên quan đến máy tính, đó là sự phù hợp. Nhưng anh hack tài khoản ngân hàng, rồi bị cảnh sát tóm thì đó là cát- hung.

Vd cách thần
Càn: Kỷ mão - đinh sửu- quý sửu- ất mão
Bính tý- ất hợi- giáp tuất- quý dậu- nhâm thân
Quý sinh tháng sửu, thấu kỷ là thất sát cách, sát cách là hung thần cần bị chế hoá, ất mộc thực thần trụ giờ cách xa không thể chế, lại gặp đinh tài tinh sinh sát.
Cách tượng là tài sinh sát vượng là thể tượng hung, mừng kỷ toạ mão mộc gặp chế, là có cứu, mão mộc ở đây là Dụng vậy, bố cục hợp lý, rất đẹp.
Quý sinh tháng sửu là tháng mùa đông, đắc tiết, nhưng sửu là đất mộc tiến khí, ất mộc lại nhiều, thủ kim, đại vận thuận lợi từng bước tiến lên, từng nắm giữ chức viện trưởng viện hành chính.
Giả sử bát tự này kỷ nằm trên hợi, hoặc nằm trên tị thì hết sức kém, đó là thể tượng bị thương, dụng không chiếu cố.

Vd2, nhật can làm thể
Càn: Đinh hợi- bính ngọ- nhâm dần- kỷ dậu
Nhật can không gặp tòng tượng, hoá tượng, lấy nhâm thuỷ nhật chủ làm thể tượng, nhâm thuỷ sinh tháng ngọ hoả là cực kỳ suy kiệt, đã thế hoả vượng thấu còn sinh quan, áp chế thân. May mắn, đinh toạ hợi là tài gặp kiếp, kỷ toạ dậu là quan sinh ấn, kiếp ấn đều là dụng của thể tượng nhâm thuỷ, bố cục hợp lý nên là mệnh cách cao cấp.
Giả sử, đinh toạ tị, toạ mão thì mệnh chủ không được đẹp đến vậy.

Vd3:
Tân tị - nhâm thìn - ất hợi - nhâm ngọ
Ất mộc nhật chủ làm thể tượng, sinh tháng thìn thoái khí, kim tiến khí, tân kim trụ năm thấu là một điều nguy hiểm. Mừng có nhâm thuỷ tiết tân kim, tị hoả tiệt cước, ất mộc toạ hợi được sinh phù, tị, nhâm, hợi đều là dụng. Bố cục rất tốt, đã từng làm bộ trưởng bộ giáo dục.
Giả sử sinh năm tân dậu, hoặc ngày ất dậu, thì không hoàn mỹ đến thế.
*****
2 mệnh cách cao thấp
Mậu tí- giáp dần- mậu ngọ- giáp dần
Kỷ hợi - bính dần- mậu tí- giáp dần

Cả hai trường hợp đều lấy nhật chủ làm Thể tượng.
Mậu sinh tháng dần là đất tử tuyệt, can giờ thấu thất sát là điều rất nguy hiểm,
Trụ trên có, ngọ hợp dần mà chuyển khi sát sinh ấn, ấn sinh thân, ngọ ở đây là dụng.
Trụ dưới có, bính hoả trụ tháng, nhưng tác dụng không bằng trụ trên, hơn nữa kỷ thổ còn chế ước bính hoả, tý thuỷ sinh dần mộc. Toàn cục chỉ một bính hoả cứu thân, bính cũng là dụng, nhưng tác dụng không bằng trụ trên.

Thể dụng mệnh trên, cao cấp hơn mệnh dưới.
Bính tý- mậu tuất - nhâm tý- canh tý
Không hoá tượng, tòng tượng, lấy nhâm thuỷ nhật can làm thể tượng, tháng tuất thuỷ tiến khí, địa chi 3 nhận, lấy tài sát làm dụng, đều không có lực vì canh kim cường vượng thấu, dụng không chiếu cố, mệnh rất kém.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Sách TTT ghi, mệnh cục có 2,3,4,5 dụng thì không phải cách tốt. Ý của nó là khi dụng quá nhiều thì đồng thời cũng thể hiện mệnh cục quá thiên khô, cách cục không ổn định, hoặc phản tác dụng.

Ví dụ, lấy cách thần làm thể tượng, thương quan kiến quan thì lấy ấn là dụng, nhưng ấn nhiều quá, có đến 4,5 nơi thì lại thành phản tác dụng, quan bị tiết quá nhiều mất quý khí, sinh thân mà không thể tiết tú, e rằng mệnh chết yểu. Ông Nhậm thiết tiều chú đoạn này cho rằng sách nguyên chú sai, mà lấy chữ “dụng” này là “dụng thần” thì không đúng.

Hoặc lấy nhật can làm thể tượng, đạt trung chính bình hoà hay thuần tuý là dụng.

Ví dụ, nhật can bính hoả sinh mùa đông, thể tượng bị thương, dụng mộc sinh là rất rõ ràng, nhưng mộc nhiều quá thì thuỷ bị cướp khí, bính hoả được sinh quá nhiều cũng khó phát huy năng lực. Đó là dụng mà quá nhiều, thì xấu.

Khí thế là cách xem khá đặc biệt của tứ trụ, đã xem khí thế thì lấy khí thế làm thể tượng, tổn thương khí thế là kị thần, thì cái khắc khử kị thần là dụng tượng.

Tứ trụ đã có khí thế, thì có thể bỏ nhật can không xem, nên không cần xem khí số theo sách Cùng Thông Bảo Giám.

Vd trong TTT:
Càn: Quý dậu - giáp tý - bính dần- mậu tuất
Bắt đầu từ dậu kim, sinh quý- tý thuỷ cục, thuỷ cục sinh giáp- dần mộc cục, mộc cục sinh bính hoả nhật chủ, bính hoà sinh mậu-tuất thổ cục.
Đây là tứ trụ có Khí thế lưu thông, can chi không phản, cho nên cuộc đời đạt cả ngũ phúc.

Càn: Tân sửu- quý tị- giáp tý- bính dần
Tị hoả sinh sửu thổ, sửu thổ sinh tân kim, tân kim sinh quý thuỷ, quý-tý sinh giáp- dần mộc cục, mộc cục sinh bính hoả.
Khí thế lưu thông, can chi không nghịch, thọ hơn 100 tuổi, con cháu đông đúc, giàu sang phú quý, không bệnh mà chết. Phúc lộc thọ khang ninh.

Càn: tân dậu- bính thân- quý sửu- đinh tị
Tân bính phu tòng thê hoá kim, tị dậu sửu hợp kim, sinh quý. Là khí thế kim bạch thuỷ thanh, đinh hoả hỗn cục là kị thần, mặc dù có khí thế nhưng tạo này cũng không tốt lắm, vì không có dụng.

Càn: quý mão - giáp dần- đinh tị- kỷ dậu
Cũng là khí thế lưu thông, nhưng xét lại thì kém.
Quý thuỷ sinh giáp- dần- mão mộc cục, mộc cục sinh đinh- tị hoả cục, hoả cục sinh kỷ thổ, kỷ thổ sinh dậu kim. Tuy nhiên, tháng mùa xuân, tị dậu không hoá, hoả khắc kim, kỷ thổ sinh kim nhưng thổ quá yếu (xuân mộc thổ tuyệt), thuỷ khắc hoả cứu kim mà gặp mộc cục tiết tận. Chỗ tụ bị phá, quý khí không còn.

Càn: Bính Tý - Tân Sửu - Quý Hợi - Ất Mão
Bính tân ngũ hợp gặp hợi tý sửu thuỷ phương mà hoá thuỷ, bát tự này là bát tự có khí thế, thuỷ vượng thì thuận thế hoá tiết, trụ giờ có thực thần xuất hiện đúng lúc tú khí, cho nên tài hoa hơn người. Là bát tự của Tô Thức. Nếu cứ chấp nhất vào khí số, quý thuỷ làm thể tượng, cuối đông dùng Bính, bính hợp tân mà hoá thuỷ làm sao cho là Tốt được. Có Khí Thế, thì không xem Khí Số.

Càn:Mậu Tuất - Giáp Dần - Đinh Mão - Quý Mão
Bát tự này có khí thế, là mộc vượng khắc thổ, thể tượng này không tốt, vậy dụng tượng là thứ điều hoà thứ có hại, mộc vượng khắc thổ thì cứu thổ là cấp thiết, dụng Hoả tiết mộc sinh thổ, dụng kim khắc mộc cứu thổ. Thổ bị khắc thái quá, thế nên bệnh ở Mộc, chủ gan, bị bệnh gan mà chết. Số này thực tế thể dụng không tốt, nhưng lại nhờ được đại vận điều hoà đến 60 năm liên tiếp vận hoả thổ kim, nên vẫn phát được. Mưa dầm thấm lâu. Nếu xét khí số, cũng không tốt, đinh hoả tam xuân canh dẫn giáp, ý là thích giáp sinh nhưng thái quá cần canh khắc bớt mộc, nguyên cục không có là kém. Vì thế bát tự này phải nhìn khí thế mà không nhìn khí số.

Cũng có bát tự nhìn giống khí thế nhưng lại không phải là khí thế
Càn:
Quý tị- nhâm tuất- kỷ hợi- giáp tuất
Địa chi nhìn giống khí thế thổ vượng khắc thuỷ, tuy nhiên tháng tuất thuỷ tiến khí, thuỷ mộc song thấu nên khí thế không thành.
Nguyên cục có giáp kỷ ngũ hợp, lấy đó làm thể tượng, ngũ hợp hoá thổ, tứ trụ không có mộc phá (ẩn sâu trong chi ngày), nên tứ trụ rất tốt, thể tượng không bị thương.
Tứ trụ này nếu không có hoá khí, thì lấy kỷ thổ làm thể tượng, nguyên cục quý thấu bính tàng là hơi kém.

Càn: Quý dậu- đinh tị - bính ngọ - nhâm thìn
Hoả có vẻ vượng, nhưng tứ trụ này không thành khí thế, không gặp hợp, lấy bính hoả làm thể tượng, khí số bính hoả là Nhâm thuỷ, là dụng, nhâm toạ thìn là đất thổ ẩm, hối hoả tích thuỷ dưỡng mộc, dụng tượng không tổn thương, đinh ham hợp nhâm gặp quý thuỷ toạ dậu trực khắc. Phối hợp hữu tình, tứ trụ thật đẹp.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Khí thế- có nhiều kiến giải
Có người thì cho rằng khí thế phải chiếm 4 chỗ trở lên, ví dụ thiên can thấu xuất, địa chi có tam hội, tam hợp (4 điểm cùng khí). Lưu thông dài trên 4 điểm... thì là có khí thế lưu thông. Nguyên do người ta cho rằng như vậy, vì tứ trụ thì cũng chỉ có 8 chữ mà đã có đến 4 chữ hoặc hơn đã theo một quy luật rồi, thì THƯỜNG phải thuận theo quy luật đó mà không lấy nhật can làm tiêu điểm, càng nhiều chữ tham gia vào thì càng xác quyết là có khí thế.

Có nơi thì lại cho rằng:
所谓"气", 是五行相生, 流通顺畅. 所谓"势", 是强向弱流, 弱要强补. 得"气"
者, 左右逢源, 逢凶化吉. 是为天时. 得"势" 者, 高瞻远瞩, 人为我用. 是
Cái gọi là khí, là ngũ hành lưu thông, thông thuận. Cái gọi là thế, là cường thì trợ nhược, nhược thì cường sinh. Đắc khí thì mọi việc thuận lợi, gặp dữ hoá lành, đắc thế là người nhìn xa trông rộng (ko rõ tôi dịch google thế có đúng ko?)

Câu tiếng Hoa ở trên có thể được dịch như sau:
"Cái gọi là 'khí' là sự sinh sôi của ngũ hành, lưu thông thông suốt. Cái gọi là 'thế' là sự chảy từ mạnh sang yếu, yếu phải được mạnh bổ sung. Ai có 'khí' sẽ thuận lợi trong mọi tình huống, hóa giải tai ương thành cát tường. Đó là thời điểm thuận lợi. Ai có 'thế' sẽ nhìn xa trông rộng, nhân sự làm cho mình."


Ngài hác kim dương (hạ trọng kỳ?) thì lại cho rằng, khí là tiết khí ta, thế là cái khắc hao ta. Ngũ dương khí cương cường, chẳng sợ tài sát mà sợ Sinh, tiết khí nhiều thì tòng. Ngũ âm khí nhu thuận, thích sinh nhưng sợ khắc, gặp tài sát thái vượng thì tòng theo thế đó.
...
Nói chung, mỗi người một thuyết, và đều có nghiệm chứng riêng của họ. Tuy nhiên theo tôi thì ý kiến đầu tiên là Phổ quát hơn cả. Nghĩa cơ bản của từ Khí Thế, là sự đồng lòng, sự phát triển theo một chiều hướng, thế nên càng nhiều chữ tham gia vào chiều hướng này, thì đó chính là có khí thế.
Bát tự có khí thế, thì lấy khí thế làm thể tượng, tìm dụng, kị. Khí thế thổ dày chôn kim, dụng mộc khai thông thổ, kim tiết khí thổ. Khí thế lưu thông, kị phá khí cản trở, khắc khử phá khí chính là dụng. Trong cách xem khí thế, thì lưu thông là khí thế Tốt nhất, có những mệnh cục có thể tượng nhưng không cần dụng tượng, vì ngũ hành luân chuyển, không có phá khí, cuộc đời vận xấu cũng không quá xấu, vận đẹp thì như gấm thêu hoa, lại còn được hưởng Phúc, làm gì cũng nhẹ nhàng.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
***Thuận theo khí thế
Càn:
Mậu thìn- giáp tý- nhâm tý- tân hợi
Thuỷ có 4 điểm, tý thìn hơp thuỷ, tứ trụ có khí thế ở thuỷ, chỉ có thuận mà không thể nghịch, thìn gặp hoá nên căn thổ bị chuyển hoá, thuận thế hoá tiết khí thế thuỷ vượng, Giáp Mộc toạ tý là cái đầu tiết thuỷ, lại khắc Mậu nghịch thần. Hành vận bính dần, đinh mão học cao hiểu rộng, thi cử đỗ đạt làm quan, đến vận Mậu Thìn khí thế nghịch hành, mất lộc.

Càn:
Giáp thân- bính tý- quý hợi- quý hợi
Thuỷ khí thế cường vượng, dụng giáp mộc là không nghi ngờ. Giáp tuy toạ thân gặp tiệt cước, nhưng thân tý hợp thuỷ, khắc lại trở thành sinh trợ, hành vận mậu dần, kỷ mão một đường thẳng tiến.

***Vận không chiếu cố
Khôn:
Mậu tuất- ất sửu- bính thìn- kỷ sửu
Khí thế thổ nhiều hối hoả, dụng ất mộc khắc thổ sinh hoả là không nghi ngờ, nguyên mệnh có ất mộc can tháng là tốt, là mệnh có điểm quý, chỉ tiếc vận hành nghịch địa đất tây phương, mộc khí gặp khắc, mất lộc.
Nếu số này hành vận đông phương thì cũng là quý mệnh

***tưởng khí thế mà không phải khí thế
Càn: Giáp thân- bính tý- nhâm dần- tân hợi
Thân tý, hợi, nhâm thuỷ có đến 4 nơi, nhưng không thành khí thế, vì hợi gặp dần hợp mộc, thế không đủ.
Lấy nhâm thuỷ làm thể tượng, sinh tháng tý, thuỷ lạnh kim hàn, không thể sinh mộc. Hỷ can tháng Bính hoả thấu can làm ấm cục, toạ chi tý gặp tiệt cước, mừng tý thân hợp thuỷ cục, sinh giáp mộc, giáp mộc sinh bính hoả, từ khắc chuyển thành sinh trợ nhờ Giáp, giáp đắc căn tại dần, lại gặp hợi sinh, căn mộc vững chắc, tài tinh là dụng. Là số giàu có.

***không có khí thế, lấy nhật can làm thể tượng
Càn:
Mậu dần- quý hợi- đinh mùi- tân hợi
Tứ trụ không có khí thế, lấy nhật can đinh hoả làm thể tượng. Đinh hoả sinh tháng hợi thuộc mùa đông là gặp khắc, hình thể suy nhược, lại thêm can quý thuỷ thấu thuỷ thế vượng khắc hoả, mừng mậu thổ hợp trói quý thuỷ, làm thuỷ không khắc hoả, hợi thuỷ hợp dần tiết khí thuỷ, mùi thổ khắc hợi, làm thuỷ khí không lan tràn. Bố trí hợp lý, tổng quan, thân nhược, dụng mộc, hỷ hoả. Hành vận mộc hoả, khoa giáp liên đăng ra làm quan. Phép khí số ở sách Cùng thông bảo giám chỉ nên đọc lý luận của họ, không nên áp dụng tiên quyết. Cái quan trọng, lấy nhật can làm thể tượng, thì phải lấy trung hoà thuần tuý là cát, bác tạp thiên khô là hung, nhìn theo cách này thì dễ tìm ra dụng tượng hơn.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Lấy nhật can làm trung tâm luận mệnh, lấy nguyệt lệnh là thước đo khí ngũ hành. Nhiều sách bây giờ rất coi thường nguyệt lệnh, chỉ cho đó là một chữ trong tám chữ.

Vd trong TLMC:
Giáp dần- bính tý- đinh mão- ất tị
Tác giả luận mệnh này trung nhược chỉ vì đinh hoả cực suy ở tháng tý.
Trên thực tế, xem nhật can đối ứng nguyệt lệnh là để xem về Thể Dụng.
Như ví dụ trên: đinh hoả mặc dù thất lệnh, nhưng 6 chữ còn lại toàn sinh trợ, nên thân cường, dụng thần đại vận phải là thổ kim thì mới tốt.
Tuy nhiên, đinh hoả là thể tượng, mà dụng tượng nhiều quá, đây là ví dụ cho câu trong trích thiên tuỷ: mệnh cục có 2,3,4,5 dụng thì không phải mệnh tốt. Dụng là thể dụng chứ không phải dụng thần đại vận. Nhiều thì lại thành thái quá, mệnh xấu là vậy.

Hoặc ví dụ sau
Bính thìn- canh dần- giáp ngọ- canh ngọ
Giáp mộc sinh tháng dần là Vượng, thể tượng vượng thì dụng tượng phải là khắc hao, 6 chữ còn lại toàn khắc hao thì lại thành nhiều quá, mặc dù phù hợp cái lý thể dụng, nhưng dụng không thể quá nhiều, cũng là mệnh xấu.

Vì thế, nguyệt lệnh là tối quan trọng, không nhìn nguyệt lệnh thì không thể xem được thể dụng. Ngay cả khí thế lưu thông, cũng thường phải lấy nguyệt lệnh làm nguyên đầu vì nó là Vượng nhất.

Ví dụ tưởng giới thạch:
Đinh hợi- canh tuất- kỷ tị- canh ngọ
Tháng tuất thuộc mùa thu, thổ hưu là hơi yếu, thiên can lại 2 canh kẹp tiết. Thể tượng kỷ thổ thuộc suy, dụng tượng phải là sinh trợ nó mà khắc bớt khí kim. Đinh hoả khắc canh kim là rất đúng lúc, tuy nhiên muốn khắc mà lực khắc không đủ vì toạ hợi thuỷ tiệt cước, hợi thuỷ lại tiến khí, xung tị hoả làm lực sinh kỷ thổ yếu, dụng tượng không đủ, hành vận hoả trợ đinh nên đoạt quan quyền, thành lập quân đội, chiến thắng nhiều nơi, dồn mao trạch đông xém chết.
Tứ trụ này nếu xem cẩu thả dễ nhìn vào lực sinh trợ nhiều (đinh, tuất, tị, ngọ đến 4 điểm hoả thổ) dễ cho là vượng, nhưng thực tế là nhược, là do kỷ thổ sinh vào mùa thu lại thấu vượng thần tiết hao.

Ví dụ mao trạch đông:
Quý tị- giáp tý- đinh dậu- giáp thìn
Đinh hoả sinh tháng tý là tháng mùa đông, thể tượng suy yếu, quý thuỷ vượng thần thấu là cực kỳ nguy hiểm, mừng giáp mộc giáp hai bên tiết thuỷ sinh hoả. Thìn thổ sinh dậu kim, dậu kim sinh tý thuỷ, tý thuỷ sinh giáp mộc, giáp mộc sinh đinh hoả, từ kị thần sinh dụng tượng là chuyển hoá đều có lợi. Thể dụng rất đẹp.
Đinh hoả không sợ thuỷ khắc, lại căn tại tị hoả kình dương, thân vượng dụng thần đại vận là thổ kim, đắc quyền vào vận kỷ mùi, là do kỷ trói 2 giáp vậy.

Ví dụ tôn trung sơn:
Bính dần- kỷ hợi- tân mão- kỷ sửu
Tân kim sinh tháng hợi, thể tượng suy, dụng tượng cần sinh trợ. May có song kỷ sinh, hợi thuỷ sinh dần mộc, dần mộc sinh bính hoả, bính hoả sinh kỷ thổ, kỷ thổ sinh tân kim, từ nhược chuyển vượng. Thể dụng rất đẹp.
Mặc dù thể tượng suy, nhưng khi xác định dụng thần đại vận, thì tân kim này là cường. Rất dễ nhầm thành thân nhược mà tài vượng.
Thành công cách mạng tân hợi 1911 vào vận Quý Mão. Đắc quyền chủ tịch quốc dân đảng vào năm 1919 là vận Giáp thìn (hợp chế kỷ ấn) kéo dài 5 năm đúng vận Giáp.

Ví dụ viên thế khải:
Kỷ mùi- quý dậu- đinh tị- đinh mùi
Đinh hoả sinh vào tháng dậu là suy địa, thể tượng suy, có quý thuỷ khắc đinh lấy dậu là nơi phát nguyên, mừng gặp kỷ thổ toạ mùi khắc quý, thấu đinh toạ tị trợ nhật chủ. Cũng là thể tượng phù hợp. Tuy nhiên cũng có bệnh, tị hợp dậu làm biến tính, lực trợ hoả không lớn. Nên nhật chủ đinh hoả vẫn là nhược. Vận hạn cần gặp nơi mộc hoả. Lên ngôi tổng thống trung hoa dân quốc năm ất mão vận đinh mão, được 83 ngày thì chết vào năm bính thìn, mão nắm quyền, hợp mộc, xung dậu kim thì quý thuỷ mất căn nguyên, thổ biến tính, hoả lại thành vượng quá mà không thể chế khắc, chết vì tâm bệnh (hoả)

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Tài khí thông môn hộ

Giáp thân- bính tý- nhâm dần- tân hợi
Nhâm thuỷ sinh vào tháng tý là vượng, thể tượng vượng, nguyên cục cũng không có khí thế thuần tuý cực vượng, hỷ dụng tượng điều hoà mệnh cục về trung hoà. Thiên can có bính, toạ tý tiệt cước khá xấu, nhưng gặp thân kim hợp tý hoá thuỷ mà sinh giáp mộc, giáp mộc lại sinh bính hoả, tý thuỷ không những không khắc bính mà còn chuyển sinh. Nhật chi dần mộc thu khí kim thuỷ, thể dụng rất tốt đẹp, tài tinh tưởng phá mà kị thần chuyển sinh . Là số cực kỳ giàu có. Thêm vận đông nam, đúng là thuận lợi mà phát tài.

Nhâm thân- bính ngọ- quý hợi- mậu ngọ
Quý thuỷ sinh ngọ nguyệt, thể tượng suy kiệt, mừng can năm thấu nhâm khắc bính toạ thân kim sinh, nhật chi hợi thuỷ trợ quý thuỷ, thể dụng khá đẹp. Nhìn chung thân nhược, hành vận kim thuỷ thuận lợi mà phát tài, tài tinh là kị mà gặp chế là tài khí thông môn hộ vậy.
Nhiều nơi giải thích tài khí thông môn hộ là tài tinh ở trụ tháng, hay trụ giờ... thực chất ý nghĩa của nó, là tài tinh là dụng tượng hoặc là kị thần nhưng chuyển sinh dụng tượng, không tranh không phá. Xác định dụng tượng dựa vào nhật chủ và nguyệt lệnh (môn hộ)

Tân sửu- quý tị- giáp tý- bính dần
Giáp mộc sinh tháng tị là suy kiệt, thể tượng suy, dụng tượng ắt hẳn phù trợ cho thể. Tị hoả sinh sửu thổ, sửu thổ sinh tân kim, tân kim sinh quý thuỷ, quý thuỷ sinh giáp mộc, dần phụ trợ giáp sinh bính hoả. Tinh đủ thần dày, tổng quan lại thì thân thiên nhược, hành vận đông bắc, thuận lợi đắc quan ấn, về già vận tây phương, cũng là bình vận, thuận lợi cả một đời. Đó là không tranh không đố, tài quan đều không phá dụng, đạt cả hai vậy.

Càn: Kỷ dậu - tân mùi- đinh tị- kỷ dậu
Đinh hoả là thể tượng, sinh tháng hè là vượng, dụng tượng cần hao tiết khí vượng đi, toạ tị nhưng dậu hợp biến tính, kỷ thổ tiết khí can giờ, năm tháng thực thương sinh tài, là tài khí thông môn hộ, hành vận mộc hoả thuận lợi phát tài, tổng tài sản hơn 500 triệu đô la.

Khôn: Bính ngọ- đinh dậu- tân mão- kỷ sửu
Vận 37-46 quý tị
Tân kim làm thể tượng, sinh tháng dậu đắc lệnh vượng, đinh-bính ngọ hoả cục khắc kim, mão mộc xung dậu kim, toạ dưới tân kim. Tài tinh có ích, là tài khí thông môn hộ.
Tổng quan, tân kim đắc lệnh, gặp kỷ thổ trụ giờ có gốc dày sinh, mão mộc gặp xung, thân vượng dụng mộc, hỷ thuỷ.
Vận quý tị, 5 năm đầu vận quý thuỷ là vận dụng thần, suốt 2003-2006 đều là lưu niên thuỷ mộc, vẫn phát bình thường. Bước sang vận tị năm 2007 gặp tai nạn chìm thuyền buôn, từ đó xuống hẳn, làm gì cũng khó khăn.
Hoả căn có thể là vận tốt, tuy nhiên tị dậu sửu tam hợp kim, tị hoả biến tính theo kim, là từ hỷ chuyển thành kị, chưa kể từ 2007 trở đi lại toàn lưu niên thổ kim.
Qua năm 2012 bước vào vận Nhâm thìn, là vận dụng thần, việc làm ăn lại bắt đầu khá khẩm trở lại, tính đến nay chỉ gọi là có của ăn của để, không còn thuận vận hoàn toàn nữa.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Sao biết người nghèo, tài thần phản bất chân

Càn: nhâm tý- mậu thân- mậu tuất- tân dậu
Mậu thổ sinh tháng thân là thân suy, địa chi thân tý hợp cục, thực thần sinh tài, mậu thổ sinh thân kim, thân kim sinh tý thuỷ, thân dậu tuất hội kim cục, hỷ dụng trở mặt thành kị thần hoàn toàn, là mệnh nghèo khó, kiêm hành vận tây bắc, nghèo không kể xiết

Càn: quý mão- giáp dần- đinh tị- kỷ dậu
Đinh hoả lấy dậu là tài tinh, sinh tháng dần là vượng, quý thuỷ sinh giáp mộc, giáp mộc sinh đinh hoả, đinh hoả sinh kỷ thổ, kỷ thổ sinh dậu kim. Chỉ tiếc là, tháng mộc hoả vượng tướng thì tị dậu không hợp kim, thành hoả khắc kim, tài thần bất chân, thực thương vô tình, kiêm hành vận thuỷ, sinh mộc mà hoả càng vượng lại tiết khí kim, hành hợi vận, hợp mộc cục, mắc bệnh chết đói.

Càn: canh ngọ- nhâm ngọ- bính dần- canh dần
Bính hoả sinh tháng ngọ là vượng địa, hỷ giờ canh, tháng nhâm là chế khắc bính hoả vượng, chỉ tiếc chi không tải can, toàn cục cái đầu tiệt cước, ngọ hoả khắc canh kim làm kim không có lực sinh thuỷ, thuỷ vô căn không có lực khắc hoả, hành vận giáp thân, ất dậu trát căn canh nhâm, cũng còn tạm được, về sau hành bính tuất vận, can chi hội hoả cục, đến đinh hợi vận hội mộc cục trợ hoả, cô khổ không chịu nổi mà chết.

Càn: tân sửu- bính thân- quý tị- canh thân
Quý thuỷ sinh mùa thu đắc lệnh, can thấu bính tài, chi toạ tị hoả tưởng rằng phú quý, chỉ tiếc, tân bính hợp mất, tị thân hợp mà không có tình tiết hao, canh kim cường vượng sinh, là tài thần phản bất chân, mệnh đặc biệt nghèo, về sau cô khổ làm ăn mày

Càn: canh thìn- ất dậu- đinh sửu- ất tị
Đinh hoả sinh mùa thu thất lệnh, can thấu song ất sinh thân khá là hữu tình, tiếc là ất can tháng gặp canh kim ngũ hợp, ất trụ giờ toạ tị hoả là có tình sinh hoá, nhưng tị dậu sửu hợp kim, vô tình lại chuyển sinh kị thần, toàn cục kim khí vô tình với dụng tượng, mệnh nghèo, hành vận bính tuất, đinh hợi tỷ kiếp trợ thân còn được, sang vận mậu tý, kỷ sửu, sinh kim hối hoả, gia phá mạng vong.

Luận giàu nghèo, phải bám chặt thể dụng, chỉ cần tài tinh có hại, tiên quyết không thể nào giàu có được, tương tự với quan tinh cũng vậy.

Nói về quan, quan tinh hữu lý hội

Thanh thánh tổ khang hy đế:
Càn: giáp ngọ- mậu thìn- mậu thân- đinh tị
Mậu thổ lấy giáp mộc làm thiên quan.
Mậu thổ sinh tháng ba thuộc mùa xuân, thổ hư mộc vượng, can chi dụng tượng là sinh phù cho nó. Mậu thổ can tháng, đinh hoả trụ giờ đều có lợi, giáp mộc khắc mậu thổ là không tốt, mừng giáp toạ ngọ là có tình sinh hoá, giáp mộc sinh ngọ hoả, ngọ hoả sinh mậu- thìn thổ, kị thần chuyển sinh thành dụng. Nhật can toạ thân kim khí tiết, nhưng tị thân hợp làm thân kim không có lực để tiết, bố cục rất đẹp. Kiêm hành vận thuận lợi, là số đế vương chinh chiến do đắc Sát mà không phải là Quan.
Tất cả đều là xem như thế, chỉ cần không tranh, không đố, kèm hành vận thuận lợi không thể không phú quý.

Trong cuốn sách TTT, thể dụng xuyên suốt tất cả từ đầu đến cuối sách, chỉ tiếc là ông Nhậm Thiết Tiều lại cho đó là dụng thần nên nhiều khi khiên cưỡng, hoặc có thể ông ta cố tình luận như thế để giấu nghề, hầu như tất cả các chữ “dụng” ở trong sách trích thiên tuỷ, đều là Thể Dụng chứ không phải dụng thần.

Càn tạo:
Ất Kỷ Đinh Canh
Mùi Mão Sửu Tuất

Mậu dần/đinh sửu/bính tý/ất hợi/giáp tuất
Đinh hoả sinh tháng mão, thể tượng vượng tướng, hỷ toạ sửu, giờ canh tuất là thương quan sinh tài, năm tháng Mão mùi hợp mộc, ất mộc khắc kỷ thổ vô dụng, cho nên xuất thân kém cỏi, cũng vất vả vì không được hưởng âm đức. Tuy nhiên là số tài khí thông môn hộ, là số giàu có.
Thân nhược, dụng hoả hỷ mộc.
Đại vận liên tục hành đất dụng thần, nên thuận lợi phát tài, đến vận ất hợi trở đi là giàu nhất, nổi tiếng cả một vùng. Tuy nhiên, số này hôn nhân có biến động.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Các trụ khá tương đồng, nhưng đẳng cấp dụng thần khác nhau (gọi là dụng thần thay cho dụng tượng)

Quý dậu- giáp tý- bính dần- mậu tuất
Quý mão- ất sửu- bính tý- kỷ sửu
Quý dậu- giáp tý- bính dần- ất mùi

(Cả ba ví dụ tuyển chọn trong TTT để xem khí thế lưu thông)

Cả ba tạo này đều lấy đông hoả làm thể tượng, lấy mộc làm dụng thần.

Càn tạo 1: giáp mộc toạ tý, dần mộc nằm chi ngày, dụng thần đắc lực, tài đến có quan, quan sinh ấn, thực thương đến tuyên tiết trở thành tinh thần đầy đủ, cho nên cả một đời giàu sang phú quý, nếu ngày nay thì có thể vận thuỷ đầu đời hơi vất vả, vì trụ năm là kị thần nên xuất thân hàn vi.

Càn tạo 2: dụng thần mộc, không quá hoàn hảo, thể tượng đông hoả toạ ngay tý thuỷ gặp khắc, dụng ở thiên can cần được bảo hộ, dụng ở địa chi cần tránh xung khắc. Tuy nhiên trụ năm xuất hiện dụng thần, cho nên xuất thân nhà quan. Đến vận Nhâm Tuất, thuỷ không thông căn, tuất hợp phá mão phá hao dị thường, đến dậu vận, xung khử mão mộc bị quốc hình.

Càn tạo 3: đông hoả dụng mộc, chỉ khác với càn tạo 1 ở giờ ất mùi mà hậu vận khác xa. Nguyên do, ngày bính dần, giờ ất mùi thì hoả không cách nào sinh thổ, cho nên cuối đời vận hoả thổ, dẫn động hoả thổ trong nguyên cục khắc kim thuỷ, mộc mất nguyên thần nên chịu cảnh cơ hàn, nếu nguyên cục có hoả sinh thổ thì có thể nói là hưởng phúc lộc cả đời.

Cả ba tạo này chứng tỏ rằng dụng thần cần nhất phải đắc lực, được bảo hộ, được sinh. Nếu cứ chấp nhất vào những câu đoán của tử bình hiện đại,
như: kỵ ấn mà tài sinh quan là mệnh nghèo
Thì ở ví dụ 1: bính hoả nhật chủ thân cường, kỵ ấn sinh, nhưng dậu kim sinh quý-tý thuỷ cục, thuỷ cục sinh mộc là mệnh nghèo?

Ví dụ 265 cũng rất hay:
Càn tạo: tân sửu- quý tị- giáp tý- bính dần
Tị hoả sinh sửu thổ, sửu thổ sinh tân kim, tân kim sinh quý thuỷ, quý thuỷ sinh giáp mộc, giáp mộc sinh bính hoả.
Tác giả luận, là người cương nhu hoà hợp, nhân đức đều có đủ, giàu có hơn trăm vạn, con cái 13 người, thọ hơn 100 tuổi, không bệnh mà chết. Rõ là mệnh ngũ phúc.

Thể dụng: thể tượng là hạ mộc, dụng thần tại ấn, quý tý là dụng thần, dần mộc là hỷ thần. Đắc lực, dụng ở thiên can có quan sinh, âm nam vận nghịch không gặp vận ngọ hoả, tý thuỷ , dần mộc đểu không bị xung, cho nên không có bại vận, duy chỉ xuất thân hàn vi vì trụ năm là kỵ thần mà thôi.

Đó chính là cái đẹp của một mệnh cục toàn bàn lưu thông sinh hoá, nguyên lưu càng dày, khắp nơi bảo hộ nhau phúc càng lớn, thêm dụng thần đắc lực nữa thì không thể không phú quý.

Kỷ dậu- ất hợi- bính dần- mậu tý
Kỷ thổ sinh dậu kim, dậu kim sinh hợi thuỷ, hợi thuỷ hợp mà sinh dần mộc, dần mộc sinh bính hoả, bính hoả sinh mậu thổ. Nguyên thần đều dày, là người khoan hậu chính trực, có 9 con 24 cháu, giàu có hơn trăm vạn, thọ đến 120 tuổi, không bệnh mà chết.
Thể dụng: đông hoả dụng mộc, đắc lực phù giúp nhật nguyên, thiên can ất mộc tuy không có thuỷ sinh, dễ bị kim khắc, nhưng địa chi dần mộc gặp lục hợp, hợi thuỷ sinh dần, cho nên gặp thân kim cũng không sợ bị xung khắc, cả đời tuy gặp vận thiên can kim chỉ có trắc trở nhỏ, nhưng không có hoạ gì lớn, tạo này kém hơn tạo trên một chút.
Dạng khí thế lưu thông như thế này, giống như một chuỗi ròng rọc, bất kể khi đại vận lưu niên dẫn động thì toàn bàn sẽ động theo, và cái hưởng lợi nhất chính là ta (nếu dụng thần đắc lực).

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Về dụng thần, sách xưa có câu:
“Dụng Thần tức là những gì ẩn tàng trong tháng sinh. Nhật can phối hợp nguyệt lệnh mà thành thể tính; hợp với nhu yếu của thể tính là Dụng Thần”
Từ đây, hai trường phái đã phát triển theo các đường lối luận mệnh khác nhau.
-Vượng suy phái, lấy nhật can phối bốn mùa làm thể tượng, lấy thứ hợp với thể tượng sao cho phù hợp với đạo trung dung bình hoà hoặc thuần tuý làm dụng thần, như đông hoả dụng mộc, hạ thuỷ dụng kim...
-cách cục phái, lấy bản khí chi tháng sinh phối hợp với thấu can hội chi tạo thành cách cục, cách cục này là thể tượng, và lấy thứ phù hợp thể tượng này chính là dụng thần. Ví dụ thực thần chế sát thì tỷ là dụng thần, thương quan kiến quan thì tài ấn là dụng thần.
Tuỳ theo duyên khởi ở trường phái nào mà theo con đường đó mà đi, vì trăm đường vạn ngả cũng quy về một mối.

(Tiếp) khí thế lưu thông thể dụng
Càn:
Mậu tuất- canh thân-quý hợi- ất mão
Thu thuỷ là thể tượng kim bạch thuỷ thanh, kim thuỷ là dụng thần, có thổ thì thổ không khắc thuỷ, có mộc thì kim mộc không phá nhau, kị hoả thì không hiện, tứ trụ trước sau không bội phản, cho nên sớm nhập cung vua, một thê hai thiếp, con cái 13 người, tài bạch trăm vạn, thọ hơn 90 tuổi. Số này giàu có vì, kim bạch thuỷ thanh kị hoả, đại vận đi không gặp hoả chi, chỉ gặp hoả can lại gặp thổ hoá sinh kim, là kị thần chuyển sinh, cho nên giàu có.

Ví dụ số 5 trong TTT:
Quý dậu- giáp tý- quý hợi- tân dậu
Đông thuỷ thể tượng vượng tướng, nguyên cục không có hoả thổ, cho nên thể tượng thuần tuý, dụng thần là kim thuỷ. Cho nên vận đầu quý hợi, sinh trợ có thừa, vận nhâm tuất, thuỷ gặp thổ khắc, khí thế nghịch hành, hình phạt hao tán, vận tân dậu canh thân đinh tài đều vượng, hậu vận hoả thổ, xung khắc kim thuỷ, hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn.

Bát tự vua càn long
Tân mão- đinh dậu- canh ngọ- bính tý
Số này có nhiều người giải thích, nhưng nếu nhìn theo thể dụng thì thấy ngay là mệnh đắc quan quyền, lại nhiều quý nhân.
Canh kim sinh tháng dậu là đất đế vượng, thu kim không hướng đến thuần tuý mà hướng đến trung hoà, dụng thần phải là quan sát ức chế khí kim dương nhận. Toàn cục khí hoả bao quanh kề sát nhật nguyên là mệnh cực kỳ tốt. Tuy nhiên cũng có bệnh ở tý thuỷ, khắc bính hoả xung ngọ hoả. Nhưng âm nam vận nghịch hành, đến lúc chết cũng không gặp thuỷ vận dẫn động, cho nên không nguy hiểm. Mệnh nhiều quý nhân như thế, cho nên dễ được đề bạt, chả thế mà mặc dù là con thứ của ung chính, nhưng lại được lên làm thái tử, về sau lên ngôi hoàng đế, được cả cha lẫn ông nội ưu ái. Có một truyền thuyết về bát tự này, đó là khi Khang Hy cho mời một thầy bói xem bát tự cho càn long, vị thầy đó nói, nếu là nữ thì lớn lên sẽ là kỹ nữ, là nam thì thần không dám nói.

Người xưa không thích nữ giới có quá nhiều quý nhân, cho nên người thầy đó thấy bát tự quý nhân nhiều quá, lại bao bọc xung quanh, chưa kể trung vận thuỷ địa phá hết quý khí, quý nhân nhiều (quan sát còn là chồng, tình nhân với nữ mệnh), nhưng lại tiện mệnh, không phải kỹ nữ chiều chuộng đàn ông thì là gì.

Hai bát tự trong TTT
7 - Viên cử lượng tạo mệnh:
Đinh hợi- canh tuất- giáp thìn- nhâm thân
Đại vận: kỷ dậu/ mậu thân/ đinh mùi/ bính ngọ /ất tỵ giáp thìn/ quý mão/ nhâm dần
Giáp mộc cực hưu tù, canh kim lộc vượng chắc can giáp mộc, can năm đinh hỏa khảdĩ chế sát hộ thân, tối hiềm thìn tuất hai chi tài sinh sát khắc thân, mệnh cục tựa chừngnhư sát trọng thân khinh, người thường không biết rằng giáp mộc sinh tháng 3 khí đangtiến, nhâm thủy cùng với thân kim tương sinh nhật chủ, bất thương đinh hỏa. Đinh hỏatuy nhược nhưng thộng căn tuất thổ, thìn thuộc thấp thổ, mộc thuộc dư khí. Thiên cannhật chủ nhất sinh nhất chế, địa chi gặp trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu tình, ngũ hànhbất tranh bất kị. Hạn hành đinh hỏa vận khoa giáp liên đăng, dụng thần hỏa chế sát quá tỏ rõ.

8 - Ất hợi- canh thìn- giáp tuất- nhâm thân
Đại vận: kỷ mão /mậu dần /đinh sửu/ bính tý /ất hợi /giáp tuất/ quý dậu /nhâm thân
Cũng như cách tạo mệnh trên có khác đôi chút nhưng không lớn. Người thườngluận”giáp là anh trai của ất, ất lấy canh làm chồng, biến hung thành cát”, tham hợpquên xung, tức canh kim làm cách cục tốt đẹp, văn chương quý hiển, cớ sao mệnh gặp cơhàn? Do không biết rằng ất canh hợp hóa kim trở lại phù trợ khắc thần. Trên nhật chủgiáp thìn (tức mệnh của họ Viên trên-ND), thìn thuộc thấp thổ có thể sinh mộc, còn mệnhnày nhật chủ giáp tuất, tuất thuộc táo thổ không thể sinh giáp mộc; trên thân thìn củnghóa, còn tạo mệnh dưới thân tuất bán hội kim cục sinh sát khắc thân. Trên giáp mộc đangtiến khí, tức canh kim thoái khí, còn dưới canh kim tiến khí, giáp mộc thoái khí. Chọn lấyhai cách tạo mệnh trên , cách cục tự nhiên, cái cơ tiến thoái, không thể không biết vậy

Mặc dù ý là đúng, nhưng xem ra ông Nhậm tiết tiều giấu nghề hơi kỹ, đâm ra đọc rất khó hiểu, lúc thì đem khí số mùa sinh, lúc thì tiến khí thoái khí.

Càn 1: đinh hợi- canh tuất- giáp thìn- nhâm thân
Thu mộc dụng thuỷ, điểm đặc biệt là mệnh này thuỷ hoả không chiến, đinh hoả khắc canh kim cứu giáp, cho nên dụng thần là thuỷ, hỷ thần là hoà, duy chỉ có vận đầu đời thổ kim còn chưa phát huy được năng lực, từ đinh mùi vận trở đi chỉ có tốt không có xấu, dụng hỷ thần đều đắc lực.

Càn 2: ất hợi- canh thìn - giáp tuất- nhâm thân
Xuân mộc thể tượng vượng tướng, dụng kim khắc mộc, canh kim thấu can tháng là điều may mắn, hiềm gặp ất hợp trói, thân kim ở giờ lại sinh nhâm, nhâm sinh giáp, dụng thần trở mặt, cho nên mệnh chủ cả đời cơ hàn, so làm sao được với mệnh trên.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Ví dụ trong phép chọn dụng thần ĐKN

Ví dụ 5.11
Kỷ Sửu / Tân Mùi / Quý Hợi / Ất Mão
Canh Ngọ - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Đinh Mão - Bính Dần - Ất Sửu
Mệnh này Nhật chủ Quý thủy sinh tháng 6, thổ đương quyền khắc thủy, tự tọa Hợi thủy củng chủ, nhưng gặp Hợi mão mùi hợp thành mộc cục tiết thủy, có thể thấy được nhật chủ nhược. Trong trụ Thất Sát lộ ra, lại nắm quyền so với nguyệt lệnh, thông căn sửu thổ, có thể gọi là Sát trọng thân khinh, may mắn được Tân kim nguyệt can kế bên hóa Sát sinh thân, dụng Ấn rõ ràng. Thất Sát là cha, cha tham gia cách mạng và là một vị Tướng quân lập được nhiều chiến công hiển hách. Điều kiện bản thân mình nhiều thuận lợi, đáng lẽ khả năng phát triển rất lớn nhưng đáng tiếc là ở đại vận không gặp được Kim. Vận hết nửa đời là hỏa thổ, trợ Sát khắc thân, bôn ba gian khổ, long đong chẳng thành chi cả, song may có Thực Thần chế Sát không đến nỗi làm hại. Nửa đời sau hành mộc vận Thương Thực, lại hiềm Thực Thần quá vượng chế Sát phá Ấn, khó có thành tựu; nếu hoán thành Nữ mệnh, vận tẩu Tây bắc quyết không phải hạng tầm thường. Đây là trường hợp Sát trọng Thân khinh có thể dụng Ấn chế Thực thần, hóa giải Sát để trợ Thân, nhưng tiếc không gặp hợp vận nên chẳng ăn thua gì.
————
Ông Đoàn luận mệnh này, dụng kim là đúng, nhưng giải thích hơi lòng vòng.
Quý thuỷ lập mệnh ở mùa hạ, thể tượng suy kiệt, cần kim sinh thuỷ, thấy thổ sinh kim thì cát, lại cần thuỷ căn để được hưởng khí túc sát chuyển sinh. Số này nguyên cục tân kim có khí số đủ tốt khi vừa đúng lúc toạ can tháng tiết kỷ sinh quý. Nhưng vấn đề ở đây là Thuỷ căn (căn nhật chủ) hợi thuỷ, gặp hợi mão mùi thấu ất hoá thành mộc cục tiết thân thái quá, cho nên thực thương là kị thần, thổ là nhàn thần của mệnh cục. Khác với việc ông Đoàn cho rằng bệnh ở sát trọng thân khinh.
Hành vận đầu hoả thổ vì không chế được kị thần, vẫn để mộc tung hoành cho nên làm nhiều, bôn ba mà không có thành tựu, sang vận Mộc thì hỏng hẳn. Số này mà không bệnh ở mộc cục vượng tiết thuỷ thì hành vận hoả thổ không tồi.

Thân nhược nhưng vẫn dụng được Tài.
Vd 190:
Quý mùi- giáp tý- bính dần- đinh dậu
Quý hợi/nhâm tuất/tân dậu/canh thân/kỷ mùi/ mậu ngọ
Tác giả luận, vận tân dậu, canh thân phát tài ức vạn, tài lợi như cây cỏ sau mưa, gia nghiệp sung túc, vừa giao vận kỷ mùi thương thê khắc tử, lộc bị trả lại, gia nghiệp đại phá.

Số này, đông hoả dụng mộc, có giáp-dần kề sát, lại có đinh hoả trụ giờ, cho nên toàn bàn là quý nhân, cũng là mệnh đẳng cấp cao.
Tuy nhiên số này không theo đường quan lộ mà theo buôn bán vì quý khí quan tinh bị tổn thương (toạ thương địa). Hoặc có thể theo cách của chị KC, tháng tý giờ dậu cung mệnh là Canh thân là tài tinh.
Can vận tân canh, không thể phá mộc (mộc đắc thuỷ sinh), chi vận thân dậu, không thể phá dần (đắc tý thuỷ sinh). Cho nên tài tinh là kỵ thần mà chuyển sinh dụng thần, nên có nhiều quý nhân giúp đỡ kiếm tiền, ngày nay có thể cho là nhiều khách hàng, tài lợi tự đến.
Vận kỷ mùi, kỷ khắc quý, hợp giáp, quý khí bị tổn hại, đến vận mùi, khắc tý thuỷ, sinh dậu kim làm thuỷ không đủ lực hoá tiết, khí mộc bị khắc nặng nề, cho nên gia nghiệp tan tành.

Hoặc xem theo cách cục, bính hoả sinh tháng tý thấu quý là chính quan cách, chính quan cách là cát thần thuận dụng, hiềm toạ ngay thương địa, cho nên hành vận canh thân, tân dậu tiết thương vệ quan, đến vận kỷ mùi thương quan tung hoành, hình thành thương quan kiến quan hoạ trăm đường ập đến.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
Tứ trụ vượng suy hiện đại. Chia làm ba loại khí tượng

Cân bằng khí tượng
Lưu thông khí tượng
Điều hậu khí tượng

Phần đa các ví dụ trong sách là cân bằng khí tượng, tức xác định thể khí của nhật can trong bốn mùa, từ đó xác định dụng thần, hành vận dụng thần đắc địa là cát, nghịch địa là hung.

Nhưng có một số bát tự thuộc loại hiếm hơn, đó là lưu thông khí tượng, toàn bàn sinh hoá. Đại diện phần này trong trích thiên tuỷ là phần nguyên lưu, thông quan và tinh thần. Bát tự thuộc loại này thì lại yêu cầu ngũ hành phải đồng đều, thế nên hành nào vượng thì không nên lại hành đại vận đến nơi đắc địa, hành nào suy thì cần đắc địa (nhiều chưa chắc là vượng, như mộc mùa thu thì khí điêu linh, càng nhiều thì khác gì đống lá rụng)

Ví dụ 123
Tân dậu- canh tý- bính dần- quý tị (phần nguyên lưu)
Kỷ hợi- mậu tuất- đinh dậu- bính thân- ất mùi- giáp ngọ
Bắt đầu từ kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, rõ ràng là khí tượng lưu thông. Nên suy thì cần hành đắc địa. Mùa đông, thuỷ vượng mộc tướng, nên hành hoả kim vận, bổ trợ khí hoả thổ kim không đủ, là cát vận.
Tác giả luận: khởi đầu cũng đẹp, quý cục cũng đẹp, xuất thân từ lâm, làm quan đến chức thông chính, cả đời không nguy hiểm, danh lợi song huy.

Ví dụ 124:
Tân sửu- quý tị- mậu thân- bính thìn
Nhâm thìn/tân mão/canh dần/ kỷ sửu/mậu tý/đinh hợi
Hoả là nguyên đầu, lưu chuyển đến phương kim thuỷ, mậu quý hợp, thân tị hợp, gọi là chỗ dừng mà thành tượng, là mệnh phú quý.
Hành vận thuỷ mộc (suy địa ở tháng tị mùa hè) trợ khí, cho nên giàu có trăm vạn, làm quan nhất phẩm, cả đời không sợ nguy hiểm.

Một mệnh tôi từng xem:
Quý hợi- ất mão- bính ngọ- ất mùi
Thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, là bát tự thuộc khí tượng lưu thông sinh hoá. Khí dừng ở mùi thổ, hợp ngọ mà thành tượng, cho nên mệnh phú quý.
Âm nam vận nghịch, đến đất thuỷ kim đều là nơi trợ ích cho khí kim thuỷ nhược nguyên cục nên học tập thuận lợi xuất sắc, được nhận vào làm việc ở chính phủ.
Thời điểm đó tôi vẫn còn nặng phần cân bằng, cho nên luận hành thuỷ vận sinh mộc kị thần, bỏ học, khó khăn bị quê một trận, về sau này tìm hiểu mới thấy không thể xem bằng cân bằng cho mệnh này được.
Số này mà là nữ vận thuận hành thì chắc là nghèo khổ không thể kham được

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
TTT có câu: "Nhân hữu tinh thần, bất khả dĩ nhất thiên cầu dã, yếu tại tổn chi ích chi đắc kỳ trung"
Tinh quá đủ, nên bồi thêm khí, khí quá vượng nên bồi thêm thần, thần quá tiết nên bồi thêm tinh.

Quan trọng là phải phù ức thích hợp.
Điều này càng đúng khi luận bát tự khí tượng lưu thông.

Khi bát tự đã xác định dụng thần, thì xem dụng thần này thế nào, nếu quá dày, quá trọng, thì có nghĩa các yếu tố khác yếu, nên hành vận bổ trợ cho nó. Ngược lại, khi dụng thần quá yếu thì hành vận lại cần bổ trợ dụng thần.

Có lẽ đây là ý chính của tuy vượng mà nhược, tuy suy mà cường. Nó cũng là trọng điểm của phần bộ thần- tặc thần trong manh phái (mặc dù ông đoàn kiến nghiệp có ghi khác đi, nhưng cùng bản chất).
Nếu ta không lấy nhật can làm trung tâm luận mệnh, nguyệt lệnh làm thước đo, thì sẽ không thể có một mốc nào để xác định dụng thần cả.

Đại vận, lưu niên, theo tôi thực hiện đúng chức năng của nó :tổn chi ích chi đắc kỳ trung.

Hữu tình, vô tình
Kị thần gặp sinh trợ, dụng thần gặp chế hoá là vô tình, ngược lại là hữu tình
Càn: canh thìn- quý mùi- ất mùi- quý mùi
Ất mộc sinh mùa hè, tuy có dư khí, nhật chủ thể khí hướng tới trung hoà. Dụng thần ắt phải là quý thuỷ sinh mộc. Quý thuỷ thông căn thuỷ khố, lại gặp canh kim sinh. Thìn thổ sinh canh kim, canh kim sinh quý thuỷ, quý thuỷ sinh ất mộc. Hai bên đều có tình, thêm đại vận một đường kim thuỷ đắc địa cho nên làm quan đến chức tướng soái, một đời cát lợi an bình.

Càn: ất sửu- kỷ mão- ất hợi- nhâm ngọ
Ất mộc lâm quan tại nguyệt lệnh, dụng thần ắt phải là ngọ hoả trụ giờ, hỷ thần kỷ thổ. Tuy nhiên, ất mộc khắc kỷ thổ, nhâm thuỷ cái đầu ngọ hoả, gọi là dụng hỷ đều bị tổn thương, trên dưới vô tình, gặp vận bính tý, ất hợi vợ con ruồng bỏ, cắt tóc đi tu, cô khổ mà chết

*thượng hạ tình hiệp không bội phản, Thường là hữu tình.

Càn: nhâm thân- bính ngọ- canh ngọ- canh thìn
Canh kim thích hoả luyện, nhưng sinh mùa hè lại là tiết hạ chí, bính hoả thấu can là một điều nguy hiểm, dụng thuỷ hỷ kim.
Nhâm thuỷ khắc bính hoả toạ thân kim nguồn khí bất tận
Thìn thổ sinh canh kim trợ nhật chủ. Hai bên trên dưới tình hoà khí hiệp, thêm đại vận một đường kim thuỷ cho nên quan lộ hiển hách, làm đến chức tổng đốc tam phẩm

Càn: nhâm ngọ- bính ngọ- canh thân- mậu dần
Giống như mệnh trên, dụng thuỷ hỷ kim.
Nhâm thuỷ toạ tuyệt địa, thân kim gặp dần xung, mệnh cục vô tình cho nên chung thân không thể khởi phát, lại gặp bần hàn.

Lý của can chi tình hiệp, sinh hoá hữu tình là lý của vạn vật. Nước thì phải có nguồn thì mới chảy dài bất tận, xem tiền tài thì phải có tài nguyên (thực thương) thì nguồn của mới dồi dào không dứt.

descriptionThể Dụng  EmptyRe: Thể Dụng

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
power_settings_newLogin to reply