Thuần
Thuần, là chuyên nhất vậy. Thêm thuần một Quan tinh hoặc thuần một Sát tinh, có Tài có Ấn, không gặp hình xung, không có hỗn tạp là tốt.
Như: Quý Tị, Mậu Ngọ, Tân Dậu, Bính Thân, bản thân chuyên lộc, vượng mà không tòng hóa. Tân dụng Bính Quan là Phu tinh, tháng 5 hỏa vượng thì chồng khỏe; Bính dụng Quý là Quan tọa Quý, thấy Tuất là Thực, cùng quy lộc ở Tị. Tân kim sinh Nhâm thủy là con cái, dẫn nhập giờ Thân ở đất Trường sinh, thiên can Quý Mậu Tân Bính, là Thủy Hỏa ký tế, địa chi Tị Ngọ Dậu Thân, củng giáp Tài khố, cho nên lấy chồng là Quan mà ăn lộc trời, là mệnh Phu vinh Tử quý.
Lại như Quý Hợi, Giáp Dần, Bính Tuất, Giáp Ngọ, Bính dụng Quý là chồng, lâm quan ở Hợi, Giáp là Ấn, tọa Dần kiến lộc, bản thân tọa khố, Kỷ thổ là con, quy lộc ở Ngọ, cư trụ giờ vị trí con cái, Giáp mộc là Quan của Kỷ thổ, tứ trụ thuần nhất không tạp, cho nên chủ quý. Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Hòa
Hòa, là điềm tĩnh vậy. Nếu như thân nhu nhược, chỉ có một vị Phu tinh, trụ không có thần công kích xung phá, bẩm khí trung hòa thì gọi là Hòa vậy.
Như: Nhâm Thìn, Tân Hợi, Kỷ Mão, Kỷ Tị, Kỷ dụng Giáp là chồng, Hợi là đất Trường sinh, là được thiên thời địa lợi. Giáp lấy Tân là Quan, kim sinh ở Tị, Kỷ lấy kim làm con, cũng sinh ở Tị, gọi là Phu được Quan tinh, Tử được Trường sinh, cho nên là Ích Phu vượng Tử. Tuy tự tọa Mão là Sát, nhưng có Canh trong Tị chế, luận là Khử Sát lưu Quan, là nữ mệnh quý vậy.
Lại như: Đinh Sửu, Nhâm Dần, Đinh Dậu, Kỷ Dậu, Đinh dụng Nhâm là chồng, Giáp là Ấn, Là chồng ăn lộc, ngày Đinh Dậu là Nhật Quý, sinh Kỷ Dậu là con, Nhâm thủy được Kỷ thổ là Quan, là chồng quý, Kỷ thổ được Giáp là Quan, là con quý, trong Dậu Tài vượng, là mệnh Vinh phu ấm Tử. Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Thanh
Thanh, gọi là thanh khiết vậy. Nữ mệnh hoặc có một Quan một Sát, không có hỗn tạp, thì gọi là Thanh. Phu tinh phải đắc thời, trụ có Tài sinh Quan, có Ấn trợ thân, không có một chút khí hỗn trọc, mới là thanh quý.
Như: Kỷ Mùi, Nhâm Thân, Ất Mùi, Giáp Thân. Ất lấy Canh làm chồng, Canh lộc ở Thân, lấy Đinh làm con, Đinh vượng ở Mùi, lấy Nhâm làm Ấn, Nhâm sinh ở Thân, lại tọa dưới chi Mùi là Tài của Ất mộc, Tài vượng thì có thể sinh Quan, tứ trụ không có hình xung phá bại. Kinh nói: Tài Quan Ấn thụ tam bàn vật, nữ mệnh phùng đây tất vượng phu. Cho nên có tước phong lưỡng quốc, là mệnh phu nhân.
Lại như: Giáp Dần, Quý Dậu, Bính Dần, Mậu Tý, Bính dụng Quý là chồng, tọa Dậu tự sinh, Quý lấy Mậu là Quan, Quý lộc ở Tý, chồng được lộc là quý. Bính hỏa được Mậu thổ, con đăng Long trì Phượng các, là con quý. Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Quý
Quý, hiệu là tôn vinh vậy. Trong mệnh có Quan tinh, được Tài khí để giúp nhau, Tam Kỳ là có tổ tông che chở, tứ trụ không gặp Quỷ bệnh, là nữ mệnh Nghiêu Thuấn vậy. Kinh nói: Mệnh nữ nhân không có Sát, một quý có thể làm lương nhân.
Lại nói: Nữ mệnh không có Sát phùng Nhị Đức, có thể phong tước lưỡng quốc. Nhị Đức, không chỉ có Thiên Nguyệt nhị Đức, tức là lấy Tài là một đức, Quan là một đức, cộng thêm Ấn Thực, là càng quý vậy.
Như: Giáp Ngọ, Bính Dần, Đinh Mùi, Nhâm Dần. Đinh lấy Nhâm là Quan, Nhâm là Ấn của Giáp Thực, Nhâm dụng Bính là Tài, Nhâm lấy Hợi là Lộc, được 2 Dần ám hợp, tuy Phu tinh thất thời, nhưng hỉ hành vận tây bắc Phu vượng, cho nên là đại quý.
Lại như: Ất Hợi, Bính Tuất, Tân Mão, Quý Tị. Tân dụng Ất là Tài, vượng ở Hợi, Bính là Phu tinh, tọa khố quy lộc, trên Tị có Quý thủy là Quan của chồng, Tân kim sinh Quý là con tọa ở trên Tị, cùng lộc của chồng đồng vị; lại là Quý thần, lại là Tài Quan song mỹ, là được chồng con đều quý, mệnh phu nhân phong tước lưỡng quốc. Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Trọc
Trọc, là hỗn vậy. Là ngũ hành thất vị, thủy thổ tổn thương nhau, là thân thái vượng, chính phu không lộ, còn thiên phu bên ngoài hỗn tạp, trụ chia tách nhiều, không có Tài Quan Ấn Thực, là mênh hạ tiện đê trọc hoặc làm ca kỹ tỳ thiếp, dâm xảo.
Như: Kỷ Hợi, Ất Hợi, Quý Sửu, Kỷ Mùi. Quý thủy sinh tháng 10, quá phù phiếm, Quý lấy Mậu làm chồng, không lộ ra, giờ dẫn Kỷ Mùi là thiên phu, sợ Sửu Mùi đều có thổ hỗn tạp, trong trụ không có Tài, Ất mộc là Thực thần can vượng, Kỷ thổ bị khắc, Quỷ bại lâm thân, là ngũ hành thất vị, chủ trước thanh sau trọc, không thể hưởng phúc.
Lại như: Quý Mùi, Giáp Dần, Tân Dậu, Ất Mùi. Ngày Tân Dậu là ngày bát chuyên tự vượng, dụng Bính hỏa làm chồng, trường sinh ở Dần, phu vượng vốn là tốt, nhưng Tân tham Tài trong khố Ất Mùi, khởi trêu ghẹo Đinh hỏa trong Mùi là ám phu, 2 khố ám phu nặng hơn minh phu, minh ám giao tập, tuy có chính phu, nhưng khó tránh âm thầm cướp chồng người để được tiền tài, là tượng trọc loạn. Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Lạm
Lạm, là tham lam vậy. Là nói trong trụ có nhiều minh phu (Phu tinh lộ ra nhiều), trong ám có Tài vượng, can chi lại mang nhiều Sát, tất là người vì tửu sắc, vụng trộm được tiền tài, loại mệnh này, hoặc là tỳ thiếp, hoặc là khắc phu tái giá.
Như: Canh Dần, Bính Tuất, Canh Thân, Đinh Hợi. Canh Thân là ngày bát chuyên tự vượng, Bính hỏa là chồng, Dần Tuất hội cục, can giờ là Đinh, thích coi trọng hỏa tình, Canh Thân kim ám khắc Dần Hợi mộc là Tài, trong Hợi có Nhâm thủy là Thực sinh Tài, người tuy là xinh đẹp có phúc, nhưng khó tránh khỏi lạm dụng để có tài.
Lại như: Mậu Tý, Giáp Dần, Kỷ Mùi, Đinh Mão. tháng giêng Giáp mộc vượng, Mão Mùi hội cục, có nhiều thiên chính phu, Kỷ hợp Giáp Quan, Âm Dương kết duyên, cho nên tuy xinh đẹp thông minh, nhưng khó tránh khỏi đánh mất do tham lam, huống chi Đảo sáp Đào hoa, ở trên tọa em chồng, không phải Quan tinh, sao là lương phụ chứ?
Lại như: Kỷ Dậu, Đinh Sửu, Quý Sửu, Nhâm Tuất. Trong trụ vừa có minh vừa có ám phu, 2 Sửu 1 Tuất tổng cộng có 3 chồng ám tàng, Đinh là Tài, quy khố ở Tuất, cùng Sửu tương hình, nhị dương đắc lệnh, hỏa cũng tiến khí, là Phu đa Tài vượng, Đinh Nhâm thái quá.
Lại như: Giáp Thìn, Quý Dậu, Bính Tý, Tân Mão. Ngày Bính Tý phạm Âm Dương sát, là đàn ông khiêu khích dụ dỗ, Bính lấy Quý làm chồng, Thìn Tý hội thủy, là tượng nhiều chồng, ngày giờ có Bính Tân hợp, Tý Mão hình, can hợp, là phạm hoang dâm cổn lãng, hôn mê tửu sắc, trong Dậu có Tài vượng, Quý phu chuyên tọa.
Hai mệnh đều là ca kỹ, bán dâm được tài. Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Xướng
Xướng, là ca kỹ vậy. Là Thân vượng Phu tuyệt, Quan suy Thực thịnh, Thực trong trụ không thấy Quan Sát, hoặc có mà Thương quan thương tận, hoặc có Quan Sát hỗn tạp mà Thực thần thịnh vượng, đây tất là mệnh ca kỹ, nếu không thì cũng là sư ni tỳ thiếp, khắc phu dâm bôn.
Như: Đinh Hợi, Canh Tuất, Mậu Thìn, Canh Thân. Mậu lấy Giáp làm chồng, tháng 9 là thất thời vô khí, lại bị Canh khắc tuyệt, giờ dẫn đến Thân, lấy Canh là Thực, kiến lộc ở Thân, Mậu Thìn là Khôi Cương sinh thân thái vượng, trong Hợi có Nhâm Tài cũng vượng, gọi là Thân vượng phùng sinh, tham Thực tham Tài, Phu tuyệt mà thành ca kỹ xinh đẹp vậy.
Lại như: Ất Hợi, Bính Tuất, Giáp Tý, Bính Dần. Giáp lấy Canh Tân làm chồng, tháng 9 kim suy thoái khí, giờ dẫn Thực thần trường sinh ở đất mộc hội cục, Giáp mộc quy lộc thân vượng, Canh kim dẫn đến đất Dần, tuyệt mà vô khí, 2 Bính Thực thần thái vượng, tổn thương phu kim, gọi là Thân vượng Thực thịnh, y thực tuy tốt, nhưng khó tránh khỏi làm ca kỹ phong trần.
Lại như: Quý Sửu, Canh Thân, Mậu Thìn, Canh Thân. Mậu dụng Ất làm chồng, tuyệt ở Thân, ngày Mậu được Canh Thân là Thực thần, tháng giờ trọng kiến, gọi là Thực vượng Phu tuyệt, cho nên gọi là Xướng. Phàm nữ mệnh can dương có Thực thần nhiều đều là Xướng, nữ mệnh can âm có Thực thần nhiều gọi là Kỹ.
Còn lại theo chỗ này mà loại suy.
Dâm
Dâm, là dâm dật vậy. Là bản thân đắc địa, Phu tinh minh ám giao tập, gọi là Nhật can tự đảm đương, trong trụ đều là Quan Sát vậy. Ở thiên can gọi là Minh, ở trong chi gọi là Ám, tứ trụ thái quá. Ví dụ như 1 Đinh thấy 3 Nhâm, cùng Thìn Tý nhiều, gọi là Giao tập, là không có người nào mà không tiếp nhận vậy.
Như: Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Quý Hợi. Nhâm Thìn, Quý Hợi bản thân tự đắc địa, Minh có Mậu thổ là Chính phu, Ám có Thìn Tuất là Thiên phu.
Lại như: Canh Tuất, Mậu Tý, Ất Dậu, Giáp Thân. Ất lấy Canh là Minh phu, mà bản thân tọa Dậu, giờ lại dẫn đến Thân là Ám phu, vận hành tây phương đất kim vượng.
Cả 2 mệnh đều là Phu tinh minh ám giao tập, dâm không thể nói.
Lại như: Quý Hợi, Nhâm Tý, Đinh Sửu, Nhâm Dần. Đinh hỏa thuần ở trong chúng thủy, có nhiều minh ám phu, dâm loạn vô sỉ. Kinh viết: Đinh gặp Nhâm mà thái quá, tất phạm loạn dâm ngoa vậy.
Lại như: Quý Mão, Giáp Tý, Kỷ Mão, Ất Hợi. Kỷ dụng Giáp là chồng, Giáp bại ở Tý, Mão là ám phu, tọa ở dưới chi, Hợi Mão lại nhiều là Minh Ám giao tập, Chính phu không thể chủ trương cấm chế, Ám phu đắc thế mà nhập mệnh, Chính phu lại né tránh vậy.
Còn lại theo chỗ này mà loại suy.