Chương 35. Luận Ấn thụ
tuhynhan, 4.10.2012
Nguyên văn:
Ấn thụ cách hỷ sinh thân, chính Ấn cách hay thiên Ấn cách đều là mỹ cách, cho nên hai cách Tài và Ấn không phân thiên chính, đều gom thành một mà bàn. Ấn thụ cách cục cũng không đồng nhất, trường hợp Ấn mà thấu Quan, Chính quan không độc thủ sinh Ấn, tức có thể làm dụng, cũng khác trường hợp dụng Sát. Cho nên Thân vượng Ấn cường, không phải băn khoăn quá mức, miễn là Quan tinh thanh thuần, như mệnh Trương Tham chính: Bính Dần / Mậu Tuất / Tân Dậu / Mậu Tý, thuộc trường hợp này.
Từ chú thích:
Quan và Ấn, tương tự như Tài và Quan, hoặc Tài và Thực thần, đều tương hỗ làm dụng, trường hợp dùng duy nhất một trong thập thần rất hiếm gặp, chỉ khác ở hành vận hỷ hay kị mà thôi. Trường hợp Ấn thấu Quan, Thân cường dụng Quan, hỷ Tài sinh Quan, Thân vượng Ấn cường, không lo Quan tinh thái quá, vì lý do đó mới hỷ Quan vượng. Chỉ cần Quan tinh thanh thuần tức là một bát tự tốt. Dẫn chứng từ mệnh Trương Tham chính, dường như không theo thói thường: Bính Dần / Mậu Tuất / Tân Dậu, hỏa vượng thổ khô kim giòn, nên hỷ gặp giờ Mậu Tý để nhuận thổ sinh kim, mà còn để tiết tú khí của kim, cho nên vận hành đông bắc kim thủy thổ liền phấn phát. Nếu không dụng Quan tinh, cũng không dụng Ấn thì phải chú trọng Thực thần, tức là con có thể cứu mẹ. Vì nguyệt lệnh Ấn thụ, cho nên đưa về luận Ấn mà thôi.
Nguyên văn:
Nhưng mà cũng có khi kèm theo Thương Thực mà quý hiển. Như mệnh Chu Thượng thư: Bính Tuất / Mậu Tuất / Tân Mùi / Nhâm Thìn. Nhâm bị Mậu chế không tổn hại Quan. Hoặc như mệnh Lâm Hoài Hầu: Ất Hợi / Kỷ Mão / Đinh Dậu / Nhâm Dần, do Kỷ bị Ất chế nên không đụng đến Quan.
Từ chú thích:
Mệnh Chu Thượng thư: Bính Tuất / Mậu Tuất / Tân Mùi / Nhâm Thìn
Nhâm bị Mậu chế đúng ra không hại Quan tinh, nhưng tứ trụ trùng điệp 5 can chi thổ Ấn, địa chi tàng hỏa còn thiên can thấu Bính, nếu lại hành vận hỏa thổ lẽ nào gặp điềm may mắn? Tứ trụ này vi diệu ở can hỏa thổ kim thủy thuận chiều sinh nhau, cho nên thổ không chôn kim, Thìn thổ kiềm hãm táo khí (khí hanh khô), Nhâm thủy tiết tú khí của kim, trong Thìn Mùi đều tàng Ất mộc Tài tinh ám tổn Ấn thụ, ví như bệnh nặng mà được thuốc. Vận trình Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn là đất kim thủy mộc, thể dụng hòa hợp, cho nên quý hiển.
Lâm hoài hầu tạo: Ất Hợi / Kỷ Mão / Đinh Dậu / Nhâm Dần
Dần Hợi Mão Ấn vượng, nắm lệnh và thấu Ất mộc, dụng thần đủ cả ở Dậu kim, tổn Ấn để sinh Quan, Kỷ thổ bị chế, không ngăn trở Quan tinh, trường hợp này là muốn khử bệnh thì chọn cái thanh thuần, không thể lấy Kiêu Ấn đoạt Thực làm dụng được.
Nguyên văn:
Trường hợp Ấn mà dụng Thương Thực, Thân cường Ấn vượng, e rằng thái quá, liền cho là tiết Thân để tạo thành tú khí. Như: Mậu Tuất / Ất Mão / Bính Ngọ / Kỷ Hợi, đây là mệnh Lý Trạng nguyên, nếu như Ấn thiển thân khinh, mà dụng Thương Thực tầng tầng lớp lớp là cách cục bần hàn.
Từ chú thích:
Thân cường Ấn vượng, dùng Kỷ thổ để tiết tú khí, tương tự như mệnh Trương Tham chính ( Bính Dần/ Mậu Tuất/ Tân Dậu/ Mậu Tý ), Kỷ thổ lộ ra, Quan tinh không thấy, dụng thần tương đối rõ ràng. Nếu Ấn thiển thân khinh mà Thương Thực trọng, thì cần lấy Ấn làm dụng, vận hành Ấn Tỉ cũng có thể bổ cứu cho mệnh, chỉ không phải cục quý hiển.
tuhynhan, 4.10.2012
Nguyên văn:
Ấn thụ cách hỷ sinh thân, chính Ấn cách hay thiên Ấn cách đều là mỹ cách, cho nên hai cách Tài và Ấn không phân thiên chính, đều gom thành một mà bàn. Ấn thụ cách cục cũng không đồng nhất, trường hợp Ấn mà thấu Quan, Chính quan không độc thủ sinh Ấn, tức có thể làm dụng, cũng khác trường hợp dụng Sát. Cho nên Thân vượng Ấn cường, không phải băn khoăn quá mức, miễn là Quan tinh thanh thuần, như mệnh Trương Tham chính: Bính Dần / Mậu Tuất / Tân Dậu / Mậu Tý, thuộc trường hợp này.
Từ chú thích:
Quan và Ấn, tương tự như Tài và Quan, hoặc Tài và Thực thần, đều tương hỗ làm dụng, trường hợp dùng duy nhất một trong thập thần rất hiếm gặp, chỉ khác ở hành vận hỷ hay kị mà thôi. Trường hợp Ấn thấu Quan, Thân cường dụng Quan, hỷ Tài sinh Quan, Thân vượng Ấn cường, không lo Quan tinh thái quá, vì lý do đó mới hỷ Quan vượng. Chỉ cần Quan tinh thanh thuần tức là một bát tự tốt. Dẫn chứng từ mệnh Trương Tham chính, dường như không theo thói thường: Bính Dần / Mậu Tuất / Tân Dậu, hỏa vượng thổ khô kim giòn, nên hỷ gặp giờ Mậu Tý để nhuận thổ sinh kim, mà còn để tiết tú khí của kim, cho nên vận hành đông bắc kim thủy thổ liền phấn phát. Nếu không dụng Quan tinh, cũng không dụng Ấn thì phải chú trọng Thực thần, tức là con có thể cứu mẹ. Vì nguyệt lệnh Ấn thụ, cho nên đưa về luận Ấn mà thôi.
Nguyên văn:
Nhưng mà cũng có khi kèm theo Thương Thực mà quý hiển. Như mệnh Chu Thượng thư: Bính Tuất / Mậu Tuất / Tân Mùi / Nhâm Thìn. Nhâm bị Mậu chế không tổn hại Quan. Hoặc như mệnh Lâm Hoài Hầu: Ất Hợi / Kỷ Mão / Đinh Dậu / Nhâm Dần, do Kỷ bị Ất chế nên không đụng đến Quan.
Từ chú thích:
Mệnh Chu Thượng thư: Bính Tuất / Mậu Tuất / Tân Mùi / Nhâm Thìn
Nhâm bị Mậu chế đúng ra không hại Quan tinh, nhưng tứ trụ trùng điệp 5 can chi thổ Ấn, địa chi tàng hỏa còn thiên can thấu Bính, nếu lại hành vận hỏa thổ lẽ nào gặp điềm may mắn? Tứ trụ này vi diệu ở can hỏa thổ kim thủy thuận chiều sinh nhau, cho nên thổ không chôn kim, Thìn thổ kiềm hãm táo khí (khí hanh khô), Nhâm thủy tiết tú khí của kim, trong Thìn Mùi đều tàng Ất mộc Tài tinh ám tổn Ấn thụ, ví như bệnh nặng mà được thuốc. Vận trình Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn là đất kim thủy mộc, thể dụng hòa hợp, cho nên quý hiển.
Lâm hoài hầu tạo: Ất Hợi / Kỷ Mão / Đinh Dậu / Nhâm Dần
Dần Hợi Mão Ấn vượng, nắm lệnh và thấu Ất mộc, dụng thần đủ cả ở Dậu kim, tổn Ấn để sinh Quan, Kỷ thổ bị chế, không ngăn trở Quan tinh, trường hợp này là muốn khử bệnh thì chọn cái thanh thuần, không thể lấy Kiêu Ấn đoạt Thực làm dụng được.
Nguyên văn:
Trường hợp Ấn mà dụng Thương Thực, Thân cường Ấn vượng, e rằng thái quá, liền cho là tiết Thân để tạo thành tú khí. Như: Mậu Tuất / Ất Mão / Bính Ngọ / Kỷ Hợi, đây là mệnh Lý Trạng nguyên, nếu như Ấn thiển thân khinh, mà dụng Thương Thực tầng tầng lớp lớp là cách cục bần hàn.
Từ chú thích:
Thân cường Ấn vượng, dùng Kỷ thổ để tiết tú khí, tương tự như mệnh Trương Tham chính ( Bính Dần/ Mậu Tuất/ Tân Dậu/ Mậu Tý ), Kỷ thổ lộ ra, Quan tinh không thấy, dụng thần tương đối rõ ràng. Nếu Ấn thiển thân khinh mà Thương Thực trọng, thì cần lấy Ấn làm dụng, vận hành Ấn Tỉ cũng có thể bổ cứu cho mệnh, chỉ không phải cục quý hiển.