Chương 41. Luận Thương quan
Nguyên văn:
Thương quan tuy không phải là cát thần, thật ra là tú khí, cho nên các văn nhân, học sĩ phần nhiều bên trong được Thương quan cách. Mà Hạ mộc thấy thủy, Đông kim thấy hỏa, thì lại là tú mà càng thêm tú vậy.Trong đó cách cục so với nhiều cách khác thì biến hóa càng nhiều, do tra xét khí hậu, suy tính cường nhược, xét rõ hỉ kỵ, xem xét thuần tạp, thâm thúy lại càng thâm thúy, không thể kén chọn vậy.
Từ chú:
Thương Quan, Thực Thần nguyên nhân là tiết kỳ tú khí, thân vượng mà dụng Quan Sát để khắc, không như dụng Thương Thực để tiết. Mà lấy Thực Thương làm dụng, người tất phải thông minh khác thường, thường thì văn nhân học sỹ đa số là thuộc loại này, cũng là thế tự nhiên vậy. Hạ mộc gặp hỏa, tức là mộc hỏa Thương quan, sinh ở mùa Hạ, hỉ gặp thủy nhuận; Đông kim gặp thủy, gọi là kim thủy Thương quan, sinh ở mùa Đông, hỉ gặp hỏa ôn, cũng gọi là tú khí. Còn như xét về khí hậu, suy tính vượng nhược, xét rõ hỉ kỵ, xem xét thuần tạp, là cách xem mệnh quan trọng, chứ không chỉ có Thương quan mà suy vậy.
Nguyên văn:
Nguyên nhân có Thương quan dụng Tài, là thương hại không có lợi ở con người, cho nên là hung, Thương quan sinh Tài thì lấy Thương làm công cụ sinh lợi cho Quan, chuyển hung thành cát, cho nên là tốt nhất. Chỉ cần thân cường mà có căn, thì tiện cách sẽ thành quý cách. Như Nhâm Ngọ/Kỉ Dậu/Mậu Ngọ/Canh Thân là mệnh của Sử Xuân Phương vậy.
Từ chú:
Công cụ sinh cho Quan là Tài vậy. Tóm lại, dụng Quan thì không cần gặp Thương quan, mà dụng Thương quan cũng không nên gặp Quan, không thể cùng dùng chung vậy. Cũng có khi Thương Quan gặp Quan mà Tài tiết Thương để giải cứu vậy, như mệnh của Mỗ Thị Lang, Nhâm Tuất/Kỉ Dậu/Mậu Tuất/Ất Mão, là thổ kim Thương quan, giờ phùng Ất Mão, là Thương quan kiến Quan. Năm thấu Nhâm thủy thì Thương quan sinh Tài, Tài sinh Quan, Quan tinh chẳng những không bị thương, Thương quan ngược lại làm công cụ để sinh cho Quan, chuyển hung thành cát. Lại như mệnh của Mỗ Tri phủ, Canh Ngọ/Kỉ Mão/Nhâm Thân/Kỉ Dậu, là thủy mộc Thương Quan, Kỷ Quan lưỡng thấu, là Thương Quan kiến Quan, hỉ được chi năm là Ngọ tàng chứa Đinh hỏa Kỉ thổ, Tài Quan đồng cung, Thương quan sinh Tài, chuyển lấy sinh Quan, hung biến thành cát vậy. Đến như mệnh Sử Xuân Phương (Nhâm Ngọ, Kỷ Dậu, Mậu Ngọ, Canh Thân), chính là Thương sinh Tài vậy. Thân cường hỉ tiết, thân nhược thì kỵ tiết, cho nên lấy thân cường là điểm quan trọng bậc nhất vậy. Tài có căn lại được Thương quan sinh cho, càng thấy rõ thanh thuần mà có thể quý vậy.
Nguyên văn:
Thương quan tuy không phải là cát thần, thật ra là tú khí, cho nên các văn nhân, học sĩ phần nhiều bên trong được Thương quan cách. Mà Hạ mộc thấy thủy, Đông kim thấy hỏa, thì lại là tú mà càng thêm tú vậy.Trong đó cách cục so với nhiều cách khác thì biến hóa càng nhiều, do tra xét khí hậu, suy tính cường nhược, xét rõ hỉ kỵ, xem xét thuần tạp, thâm thúy lại càng thâm thúy, không thể kén chọn vậy.
Từ chú:
Thương Quan, Thực Thần nguyên nhân là tiết kỳ tú khí, thân vượng mà dụng Quan Sát để khắc, không như dụng Thương Thực để tiết. Mà lấy Thực Thương làm dụng, người tất phải thông minh khác thường, thường thì văn nhân học sỹ đa số là thuộc loại này, cũng là thế tự nhiên vậy. Hạ mộc gặp hỏa, tức là mộc hỏa Thương quan, sinh ở mùa Hạ, hỉ gặp thủy nhuận; Đông kim gặp thủy, gọi là kim thủy Thương quan, sinh ở mùa Đông, hỉ gặp hỏa ôn, cũng gọi là tú khí. Còn như xét về khí hậu, suy tính vượng nhược, xét rõ hỉ kỵ, xem xét thuần tạp, là cách xem mệnh quan trọng, chứ không chỉ có Thương quan mà suy vậy.
Nguyên văn:
Nguyên nhân có Thương quan dụng Tài, là thương hại không có lợi ở con người, cho nên là hung, Thương quan sinh Tài thì lấy Thương làm công cụ sinh lợi cho Quan, chuyển hung thành cát, cho nên là tốt nhất. Chỉ cần thân cường mà có căn, thì tiện cách sẽ thành quý cách. Như Nhâm Ngọ/Kỉ Dậu/Mậu Ngọ/Canh Thân là mệnh của Sử Xuân Phương vậy.
Từ chú:
Công cụ sinh cho Quan là Tài vậy. Tóm lại, dụng Quan thì không cần gặp Thương quan, mà dụng Thương quan cũng không nên gặp Quan, không thể cùng dùng chung vậy. Cũng có khi Thương Quan gặp Quan mà Tài tiết Thương để giải cứu vậy, như mệnh của Mỗ Thị Lang, Nhâm Tuất/Kỉ Dậu/Mậu Tuất/Ất Mão, là thổ kim Thương quan, giờ phùng Ất Mão, là Thương quan kiến Quan. Năm thấu Nhâm thủy thì Thương quan sinh Tài, Tài sinh Quan, Quan tinh chẳng những không bị thương, Thương quan ngược lại làm công cụ để sinh cho Quan, chuyển hung thành cát. Lại như mệnh của Mỗ Tri phủ, Canh Ngọ/Kỉ Mão/Nhâm Thân/Kỉ Dậu, là thủy mộc Thương Quan, Kỷ Quan lưỡng thấu, là Thương Quan kiến Quan, hỉ được chi năm là Ngọ tàng chứa Đinh hỏa Kỉ thổ, Tài Quan đồng cung, Thương quan sinh Tài, chuyển lấy sinh Quan, hung biến thành cát vậy. Đến như mệnh Sử Xuân Phương (Nhâm Ngọ, Kỷ Dậu, Mậu Ngọ, Canh Thân), chính là Thương sinh Tài vậy. Thân cường hỉ tiết, thân nhược thì kỵ tiết, cho nên lấy thân cường là điểm quan trọng bậc nhất vậy. Tài có căn lại được Thương quan sinh cho, càng thấy rõ thanh thuần mà có thể quý vậy.